✨Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng

Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng

Đền Vua Đinh nhìn từ cổng đền Tế hội đền Vua Đinh Đền Vua Đinh nhìn từ Mã Yên Sơn Đền thờ Đinh Tiên Hoàng là một di tích quan trọng thuộc vùng bảo vệ đặc biệt của quần thể di sản cố đô Hoa Lư. Đền toạ lạc ở xã Trường Yên, thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.

Vị trí của đền thuộc trung tâm thành Đông của kinh đô Hoa Lư xưa. Đây là nơi duy nhất ở Việt Nam thờ đồng thời Vua Đinh Tiên Hoàng, cha mẹ ông cùng các con trai và có bài vị thờ các tướng triều Đinh. Đền Vua Đinh cùng với đền Vua Lê được xếp hạng "Top 100 công trình 100 tuổi nổi tiếng ở Việt Nam". Cũng như các di tích khác thuộc cố đô Hoa Lư, đền Vua Đinh nằm trong quần thể di sản thế giới Tràng An đã được UNESCO công nhận năm 2014.

Kiến trúc

Đền Vua Đinh được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc,, trục chính đạo hướng đông. Trước mặt đền là núi Mã Yên có hình dáng giống cái yên ngựa, trên núi có lăng mộ vua Đinh Tiên Hoàng. Đền vua Đinh được xây dựng trên nền cung điện kinh đô Hoa Lư xưa. Xung quanh khu vực này, các nhà khảo cổ đã đào được một mảng sân gạch có họa tiết hoa sen và đôi phượng vờn nhau. Trên mặt gạch có dòng chữ "Đại Việt Quốc quân thành chuyên" và "Giang tây quân"; chứng tỏ đây là những viên gạch thời Đinh - Lê.

Khuôn viên

Đền vua Đinh được xây dựng theo kiểu đăng đối trên trục thần đạo. Bắt đầu từ hồ bán nguyệt và kết thúc ở Chính cung. Hồ bán nguyệt là một hồ nước xây dựng theo kiểu kiến trúc cung đình xưa. Trong hồ thả hoa súng. Sau Minh Đường - Hồ Bán Nguyệt là bức bình phong. Theo thuật phong thủy, bình phong để án ngữ gió độc. Ở giữa bình phong là bông gió với họa tiết kiểu hoa cúc, ý nói lên sự trường tồn. Ngọ môn quan là cổng ngoài dẫn vào đền. Trên vòm cửa cong là hai con lân vờn mây. Phía trên cổng là hai tầng mái che với tám dao mái cong vút. Cổng ngoài có ba gian lợp ngói, mặt trong cổng ghi bốn chữ "Tiền triều phụng khuyết". Toà thứ hai là Nghi môn (cổng trong) với 3 gian dựng bằng gỗ lim kiến trúc theo 3 hàng chân cột. Qua nghi môn ngoại, dọc theo đường thần đạo đến Nghi môn nội. Các họa tiết trang trí của nghi môn nội giống như nghi môn ngoại, ngay cả kiến trúc có ba hành cột cũng giống nhau. Đền thờ có hai lớp cửa vào đền cũng tương tự như hai vòng thành Hoa Lư xưa. Đi hết chính đạo, qua hai trụ cột lớn là đến sân rồng. Giữa sân rồng có một long sàng bằng đá chung quanh chạm nổi. Hai bên sập rồng có hai con nghê đá chầu, được tạc trên hai tảng đá xanh nguyên khối. Tiến dần vào trong, ở giữa có long sàng bằng đá. Cạnh hông của sập đá tạc đầu rồng. Bề mặt của sập rồng được tạc nổi hình con rồng với dáng vẻ khỏe mạnh và uy dũng. Hai bên long sàng là tượng hai con nghê chầu bằng đá xanh thưộc thế kỷ 17. Long sàng tượng trưng cho bệ rồng nên được điêu khắc với họa tiết rất đẹp. Hai tay vịn của long sàng là hai con rồng đang uốn mình trên tầng mây cao. Dáng rồng rất thanh cao với đầu ngẩng cao để bờm bay phất phới, râu dài thả rủ về phía trước. Xung quanh long sàng có cắm cờ tượng trưng cho các đạo quân, có nghê chầu, có ngựa trắng... Long sàng trước Nghi môn ngoại và trước Bái đường Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng đã được thủ tướng chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia Việt Nam.

Nơi thờ Chính

Từ sân rồng bước lên là Bái đường 5 gian, kiến trúc độc đáo. Phía sau long sàng là điện thờ Vua Đinh Tiên Hoàng. Cấu trúc điện có hai phần: Bái đường và chính cung. Tòa bái đường để bàn thờ cộng đồng. Trên bàn thờ là nhang án được chạm trổ rất đẹp, thuộc về thế kỷ 17. Tiếp đến là Thiêu hương, kiến trúc theo kiểu ống muống, nơi thờ tứ trụ triều đình nhà Đinh là các quan trung thần: Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ. Đi hết tòa Thiêu hương vào chính cung 5 gian. Ngai thờ Vua Đinh Tiên Hoàng được đặt ở giữa chính cung, trang trí sơn son thếp vàng. Ngai được đặt trên bệ với tượng rồng tạc giống như rồng nơi long sàng. Gian giữa thờ tượng Vua Đinh Tiên Hoàng được đúc bằng đồng đặt trên bệ thờ bằng đá xanh nguyên khối. Hai bên bệ đá có hai con rồng chầu, tạc theo kiểu yên ngựa. Trên bức đại tự có ghi hàng chữ: "Chính thống thủy" với ý nghĩa ca ngợi Đinh Bộ Lĩnh là người mở nền chính thống. Hai bên cột giữa có treo câu đối: "Cồ Việt Quốc đương Tống Khai Bảo – Hoa Lư đô thị Hán Tràng An" (nghĩa là: Nước Đại Cồ Việt sánh ngang với nước Tống - Kinh đô Hoa Lư bề thế như kinh đô Tràng An). Gian bên phải thờ tượng thái tử Hạng Lang và Đinh Toàn đều quay mặt về phía Bắc, là hai con thứ của vua. Gian bên trái thờ tượng Nam Việt Vương Đinh Liễn quay mặt về phía Nam là con trưởng của vua. Đền Đinh Tiên Hoàng là một công trình kiến trúc độc đáo trong nghệ thuật chạm khắc gỗ của các nghệ sĩ dân gian Việt Nam ở thế kỷ 17. Đền Vua Đinh cũng là công trình nghệ thuật đặc sắc với nhiều cổ vật quý hiếm được bảo tồn, như gạch xây cung điện có khắc chữ Đại Việt quốc quân thành chuyên, cột kinh Phật khắc chữ Phạn, các bài bia ký...

Trong đó có một văn bia với bài thơ được trích như sau:

Dấu ấn mỹ thuật

Người cố đô Hoa Lư lập đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng cũng như vẽ tranh thờ Đinh Tiên Hoàng đều theo cách riêng của mình. Điều khác biệt làm nên sự phức tạp đó chính là mối quan hệ giữa dân gian và bác học được dung hợp và nhuần nhuyễn trong văn hóa làng. Một cái nhìn cận cảnh về văn hóa làng qua bia ký ở hai ngôi đền vua Đinh, vua Lê là việc khảo sát các dữ liệu lịch sử, văn hóa, xã hội và tín ngưỡng được ghi lại trên 7 chiếc bia đá còn lại đến nay. Đền Đinh - Lê là một trong những ngôi đền lớn ở Việt Nam còn sót lại. Qua các triều đại, hai ông vua được phong tặng nhiều mỹ hiệu. Trong chiếc bia ở đền vua Đinh nhắc đến việc thờ tự hương hỏa, nhìn vào danh sách công đức người ta hình dung được các vị chức sắc, các gia tộc thời đó. Chiếc bia cuối cùng khắc năm 1843 cũng thấy rất nhiều tên tuổi các cựu lý trưởng, ông cai, ông xã trưởng và các họ tộc. Nhìn vào danh sách các tên tuổi lại thấy những họ Dương, họ Bùi, họ Phạm, họ Nguyễn, họ Ngô... Như thế miếu thờ vua Đinh, vua Lê chưa bao giờ là của riêng một dòng họ Đinh, họ Lê nào cả. Vua Đinh - vua Lê ở đây trở thành một thượng đẳng thần không của riêng một dòng họ nào. Các bia đá ở đền hai vua Đinh - Lê sớm thấy sự xuất hiện tên tuổi, quê quán những người thợ tạc bia.

Những dấu ấn văn hóa Hán - Mãn (Trung Hoa) đến từ một địa khí hậu lạnh-khô bị khúc xạ trong một môi trường nóng-ẩm sau lũy tre làng ở Hoa Lư (Bắc Bộ - Việt Nam). Nếu như rồng hay kỳ lân ở Trung Hoa thường xuất hiện cùng mây, gió thì ở đây, nó đã bị gắn vào môi trường sông nước. Làng nước như ở đồng bằng Bắc Bộ, trước hết là những ngôi làng ven sông, nhìn đâu cũng thấy ao hồ, đầm phá. Địa văn hóa của mảnh đất Hoa Lư vốn càng như vậy. Con rồng phun nước chứa đựng những ước mong "lạy trời mưa xuống" của các cư dân lúa nước. Thế nên cạnh bên những con rồng rất Trung Hoa là những con cá con tôm tung tăng trong các đám mây. Dễ nhận thấy những nét tương đồng, ảnh hưởng của cách tạo hình ở những bức bệ rồng ở các cung điện đền đài Trung Hoa với các sập rồng ở đền vua Đinh. Nhưng cũng chính ở đây người ta dễ dàng nhận thấy những dấu ấn mỹ thuật của văn hóa làng - nước của người Việt. Nhận xét về tính độc đáo của sập rồng ở đền vua Đinh Tiên Hoàng ở Hoa Lư, các nhà nghiên cứu cho rằng sập rồng đặc biệt đẹp sau những cơn giông mùa Hạ. Mặt sập loang loáng nước, như con rồng đang vẫy đạp để bay lên chín tầng mây. Ở Trung Hoa không có cảnh tượng này. Không phải ở Bắc Kinh, Nam Kinh hay Khúc Phủ không có những cơn giông mùa Hạ, mà cốt yếu ở đây là cảm thức địa văn hóa khác nhau. Các bệ rồng Trung Hoa được đặt ở vị trí nghiêng, dốc theo lối đi nên không đọng được nước mưa. Hai sập đá có chạm hình rồng trên mặt sập tạo hình tuy có khác nhau về phong cách tạo hình và niên đại nhưng đều giống nhau trong cách tạo đường diềm bao bốn bên để không cho nước mưa thoát ra nên hễ có mưa là rồng gặp nước... thỏa ước mong vùng vẫy.

Ảnh

Tập tin:Temple commémoratif au roi Dinh Tien Hoang (Hoa Lu) 2.jpg|Sân đền Vua Đinh Tập tin:Codohoalu2010k5.jpg|Ngày hội đền Đinh Tập tin:Codoj8.JPG|Cửa đông Tập tin:Codoj3.JPG|Đường nội bộ Tập tin:Codoj7.JPG|Quảng trường lễ hội Tập tin:Codok2.JPG|Cổng đền với bốn chữ lớn Bắc Môn Tỏa Thược (Khóa chặt cửa Bắc) Tập tin:ĐenvuaDinh.jpg|Sân rồng Tập tin:Co do Hoa Lu 111.JPG|Cầu đá Tập tin:Co do Hoa Lu 112.JPG|Cầu đá cửa Đông Tập tin:Co do Hoa Lu 113.JPG|Cầu đá cửa Đông Tập tin:Co do Hoa Lu 114.JPG|Sông Sào Khê Tập tin:Co do Hoa Lu 115.JPG|Bia nhà Lý Tập tin:Co do Hoa Lu 116.JPG|Khuôn viên Tập tin:Co do Hoa Lu 117.JPG|Khuôn viên Tập tin:Co do Hoa Lu 118.JPG|Sân rồng Tập tin:Co do Hoa Lu 119.JPG|Khuôn viên

Các đền khác

Các đền thờ Đinh Bộ Lĩnh có thể thấy ở nhiều vùng miền khác nhau, tiêu biểu như ở Ninh Bình tìm thấy 23 nơi thờ, trong đó có đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở xã Gia Phương, đền thung Lau ở động Hoa Lư, chùa Lạc Khoái Gia Viễn; đền Mỹ Hạ xã Gia Thủy, các đình thôn Me, thôn Lược xã Sơn Lai, Nho Quan; đền Đồi Thờ xã Quỳnh Lưu, phủ Đại, đình Yên Thành, đình Yên Trạch ở cố đô Hoa Lư... Nam Định có đền vua Đinh ở xã Yên Thắng, đền Cộng Hòa, đình Cát Đằng và đình Thượng Đồng ở xã Yên Tiến, đình Đằng Động ở xã Yên Hồng, Ý Yên; đình Bườn xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc; đình làng việt cổ Bách Cốc, Vụ Bản; đền vua Đinh ở Giao Thủy... Hà Nam có đền Lăng, đình Yến Thanh Hà (Thanh Liêm); Đình Lạc Nhuế, Miếu Thượng (Đồng Hóa); Miếu Trung ở Văn Xá; đình Phương Khê xã Ngọc Sơn, Kim Bảng; đền Ung Liêm ở Phủ Lý; đình Đôn Lương, phường Yên Bắc, Duy Tiên... Phú Thọ có đình Nông Trang thờ Đinh Bộ Lĩnh; Bắc Kạn có đền Phja Đeng ở Na Rì thờ vua Đinh; Đà Nẵng có đền thờ vua Đinh ở xã Hoà Khương, Hoà Vang; Lạng Sơn có đình Pác Mòng thờ vua Đinh Tiên Hoàng ở thôn Quảng Trung xã Quảng Lạc, thành phố Lạng Sơn; Thanh Hóa có đền vua Đinh ở làng Quan Thành, Triệu Sơn; Đắk Lắk có đình Cao Phong ở Hòa Thắng, Buôn Ma Thuột; Hà Nội có đền Bách Linh ở Ứng Hòa thờ vua Đinh cùng 99 vị thần khác...

Bên cạnh các đền thờ, tượng đài anh hùng Đinh Bộ Lĩnh cũng được xây dựng ở Thành phố Hồ Chí Minh tại một số nơi như suối Tiên và công viên Tao Đàn. Tại trung tâm thành phố Hoa Lư đã xây dựng khu quảng trường Đinh Tiên Hoàng Đế.

Vào dịp lễ hội cố đô Hoa Lư, các đền thờ vua Đinh và các di tích thờ danh nhân thời Đinh trong khu vực đều tham gia lễ rước kiệu và chân nhang các danh nhân về Đền vua Đinh Tiên Hoàng.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Đền Vua Đinh nhìn từ cổng đền Tế hội đền Vua Đinh Đền Vua Đinh nhìn từ Mã Yên Sơn **Đền thờ Đinh Tiên Hoàng** là một di tích quan trọng thuộc vùng bảo vệ
Trước đền [[Đinh Bộ Lĩnh trên quê hương Gia Viễn]] Các di tích thờ Vua Đinh ở Ninh Bình (màu đỏ) [[Đền Vua Đinh Tiên Hoàng ở cố đô Hoa Lư]] Ninh Bình là quê
**Đinh Tiên Hoàng** (; 22 tháng 3 năm 924 - tháng 10 năm 979), tên húy là **Đinh Bộ Lĩnh** (丁部領)), là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt
Cổng đền Vua Lê Đại Hành Tế hội đền Vua Lê vào dịp lễ hội [[cố đô Hoa Lư]] Đường chính đạo đền Vua Lê Đại Hành **Đền Vua Lê Đại Hành** là một di
Đền Vua Đinh ở Nam Định Vùng đất Nam Định từ thế kỷ X vốn là đồng bằng châu thổ sông Hồng nằm gần kinh đô Hoa Lư, (Ninh Bình) xưa, nơi Vua Đinh Tiên
Tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế đặt tại quảng trường Hầm vượt quảng trường trên [[đại lộ Đinh Tiên Hoàng]] Hàng tượng đá Quan văn nhà Đinh tại quảng trường Hàng tượng đá Quan võ
**Đình Pò Háng** là di tích lịch sử thuộc thôn Pò Háng, xã Bính Xá, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Đây là một ngôi đình cổ thờ Vua Đinh Tiên Hoàng của cộng đồng
Đền thờ Vua Hùng trong Thảo cầm viên Sài Gòn **Đền thờ Vua Hùng** (còn được gọi là **Đền Hùng Vương** hay **Đền Quốc tổ Hùng Vương**) là một trong những nơi thờ vua Hùng
240x240px|nhỏ|[[Tập tin:TONG THE DEN HUNG.jpg|nhỏ|Đền Hùng thành phố Cần Thơ nhìn từ trên cao|256x256px]] **Đền thờ Vua Hùng** là cơ sở thờ tự vua Hùng tọa lạc tại khu vực 7, phường Bình Thủy, quận
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
Di tích Đền Thánh Mẫu (Thái Bình), nơi thờ một Hoàng hậu vợ Vua [[Đinh Tiên Hoàng]] Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng|Đền Đinh Lê ở cố đô Hoa Lư]] **Di tích thời
**Đền Lăng** (hay _đền Ninh Thái_) là khu di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia đã được công nhận là điểm du lịch thuộc xã Liêm Hà, tỉnh Ninh Bình. Quần thể di
Một góc đình Nông Trang **Đình Nông Trang** là di tích lịch sử văn hóa nằm trên địa bàn phường Nông Trang, trung tâm thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đình Nông Trang thờ
Theo tài liệu có được từ chùa Non Đông – Đót Sơn ở Tiên Lãng, Hải Phòng thì vào thời kỳ nhà Đinh, Phật giáo trở thành quốc đạo và được triều đình công nhận.
nhỏ|278x278px|Đền Vua Đinh Tiên Hoàng, Hoa Lư, Ninh Bình nhỏ|277x277px|Người dân đi lễ hội Đền Hùng, Phú Thọ nhỏ|277x277px|Đền Trần, Nam Định **Đền thờ** (và **điện** thờ) là công trình kiến trúc được xây dựng
thumb|Đền thờ [[Isis ở Philae.]] **Đền thờ Ai Cập** được xây dựng để thờ phụng các vị thần và các vị pharaon Ai Cập cổ đại và trong khu vực dưới sự kiểm soát Ai
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]] **Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư** là hệ thống các di tích về kinh đô Hoa
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Duy Tiên** là một thị xã cũ nằm ở phía bắc tỉnh Hà Nam, Việt Nam. ## Địa lý Thị xã Duy Tiên nằm ở phía bắc tỉnh Hà Nam, nằm cách thành phố Phủ
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
nhỏ|[[Đền thờ Công chúa Phất Kim ở Hoa Lư]] **Công chúa nhà Đinh** gồm có các con gái của Vua Đinh Tiên Hoàng được ghi chép trong chính sử và dã sử. Nếu như sử
Đền Ngọc Sơn thờ Lưu Cơ ở Ninh Bình **Lưu Cơ** (chữ Hán: 劉基, 924-979) là một trong những vị khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm
Phong cảnh đầm Cút và lối vào đền Thung Lá, nơi thờ Quốc Mẫu Đàm Thị Phong cảnh hồ Đàm Thị ở [[chùa Bái Đính nhìn từ trên cao]] **Đinh Triều Quốc Mẫu** (890 -
Đền Tứ trụ ở [[Tràng An thờ 4 vị tứ trụ triều Đinh]] **Đinh Điền** (chữ Hán: 丁佃; 924 - 979) quê ở làng Đại Hữu, nay là xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình,
**Đền Thánh Mẫu** là di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng thuộc xã Đông Sơn, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Đền thờ một bà Hoàng hậu nhà Đinh có tên húy
**Nguyễn Thị Sen** (? - ?) là tứ phi Hoàng hậu nhà Đinh, vợ của vua Đinh Tiên Hoàng trong lịch sử Việt Nam, Bà được hậu thế tôn vinh là bà tổ nghề may.
**Đền Bách Linh** là một ngôi đền cổ nằm ở thôn Dư Xá Thượng, xã Hòa Nam, huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Đền Bách Linh là nơi thờ Đinh Tiên Hoàng Đế và 100 vị
**Hoàng** hay **Huỳnh** (chữ Hán: 黃) là một họ ở Việt Nam. Ngoài ra họ **Hoàng** có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Triều Tiên. Họ Hoàng trong tiếng Trung có
**Tiền Việt Nam** được phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự trị vì của Đinh Tiên Hoàng. Thời phong kiến, gần như mỗi đời
nhỏ|Cổng Vĩnh lăng Vương Kiến tại Thành Đô nhỏ|Lăng mộ Vương Kiến **Vương Kiến** (, 847 – 11 tháng 7 năm 918), tên tự **Quang Đồ** (光圖), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Thục Cao
**Nhà Đinh** (chữ Nôm: 茹丁, chữ Hán: 丁朝, Hán Việt: _Đinh triều_) là triều đại quân chủ phong kiến trong lịch sử Việt Nam bắt đầu năm 968, sau khi Đinh Tiên Hoàng dẹp xong
nhỏ|phải|Thờ ngựa trắng bên trong đền Bạch Mã **Đền Bạch Mã** (Tên chữ: "**Bạch Mã tối linh từ**") là một trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán
nhỏ|Di tích Nghè Xuân Phả ở Thọ Xuân **Nghè Xuân Phả** là công trình đình làng Xuân Phả, xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nghè Xuân Phả hiện nay thờ 2 vị
**Đình So** là một công trình kiến trúc đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Là đình của làng So bao gồm toàn bộ xã Cộng Hòa và xã
**Danh nhân thời Đinh** là những nhân vật lịch sử đã theo giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, làm quan dưới triều đại nhà Đinh hoặc những người có liên quan
**Ngô Xương Xí** (chữ Hán: 吳昌熾), còn gọi là **Ngô Sứ quân** (吳使君), được chính sử ghi nhận là một trong những thủ lĩnh thời 12 sứ quân thế kỷ X. Nhiều tài liệu cho
**Đình Pác Mòng** là di tích lịch sử văn hóa nằm trên địa bàn xã Quảng Lạc, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Đình Pác Mòng gắn với lễ hội Pác Mòng được tổ
**Đền Trần** (陳廟 - Trần Miếu) là một quần thể đền thờ tại đường Trần Thừa, phường Nam Định, tỉnh Ninh Bình. Từ phường Hoa Lư, trung tâm tỉnh Ninh Bình tới đền Trần 33 km.
phải|Đền Thánh Nguyễn trên quê hương [[Đại Hoàng - Ninh Bình]] phải|Đền Thánh Nguyễn ở phía bắc trong không gian [[Hoa Lư tứ trấn]] **Đền Thánh Nguyễn** là một ngôi đền cổ thuộc làng Điềm,
**Đền Cuông** là một trong những ngôi đền thờ An Dương Vương Thục Phán, tọa lạc trên núi Mộ Dạ thuộc xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. ## Giới thiệu Ngoài đền
Cổng chính của đền thờ họ Mạc với ba chữ 鄚公廟 _Mạc Công miếu_ **Đền thờ họ Mạc** có các tên chữ là **Trung Nghĩa từ**, **Mạc Công từ** hay **Mạc Công miếu**; còn dân
Đền thờ Công chúa Phất Kim ở [[cố đô Hoa Lư]] **Đền thờ Công chúa Phất Kim** (còn gọi là _phủ Bà Chúa_) là ngôi đền nhỏ, thuộc Quần thể di tích Cố đô Hoa
**Đinh Phế Đế** (chữ Hán: 丁廢帝 974 – 1001) hay **Đinh Thiếu Đế** (chữ Hán: 丁少帝), còn gọi là **Đinh Đế Toàn**, là vị hoàng đế thứ hai và cũng là vị hoàng đế cuối
**Ngoại giao Việt Nam thời Tiền Lê** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Tiền Lê từ năm 980 đến năm 1009 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm
**Đền Trù Mật** (hay _đền Lăng_) là di tích lịch sử văn hóa quốc gia nằm ở xã Văn Lung, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Đền Trù Mật là di tích tiêu biểu
**Đinh Liễn** (chữ Hán: 丁璉; 945 - Tháng 10, 979) hay **Đinh Khuông Liễn** (丁匡璉), là một hoàng tử nhà Đinh, con trai cả của Đinh Bộ Lĩnh, vị Hoàng đế khai sáng ra triều
**Đền Hùng** (Tên chữ: **Hùng Vương miếu**) là tên gọi khái quát của Khu di tích lịch sử Đền Hùng - quần thể đền chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà
**Đinh Hạng Lang** (chữ Hán: 丁項郎; ? - 979), là Thái tử nhà Đinh, con trai thứ hai của Vua Đinh Tiên Hoàng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Đinh Tiên Hoàng có
**Đinh** là một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 정, Romaja quốc ngữ: Jeong) và Trung Quốc (chữ Hán: 丁, Bính âm: Ding). Đây là họ
**Nguyễn Tấn** (942 - 1024) là một danh tướng nhà Đinh, có công đánh dẹp sứ quân Kiều Công Hãn và lập ra làng An Lá ở Nam Định. ## Xuất thân Theo thần phả