✨Thương mại Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Thương mại Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

thumb|Sứ thần triều cống và chức sắc [[Chăm pa, Lan Xang, Ayutthaya, Taungoo, Demak, Khơme, Lan Na, Ba Tư, Lưu Cầu,... yết kiến triều đình nhà Lê ở Thanh Hóa (tranh thế kỷ 16)]]

Thương mại Đàng Ngoài thời Lê trung hưng bao gồm các hoạt động thương mại trong và ngoài nước của miền bắc Đại Việt thời Lê trung hưng dưới quyền cai quản của vua Lê-chúa Trịnh.

Do nước Đại Việt thời Lê trung hưng bị chia làm hai, mỗi nửa dưới một chính thể khác nhau nên các hoạt động thương mại hai miền tách biệt trên thực tế.

Vì nhu cầu phát triển kinh tế hàng hóa trong nước và tác động của luồng quan hệ mậu dịch quốc tế, thương mại Đàng Ngoài có những bước phát triển đáng kể, biểu hiện bằng sự mở rộng của mạng lưới chợ địa phương, sự phong phú của lượng hàng hóa trao đổi và sự tăng trưởng mạnh mẽ của hoạt động ngoại thương.

Nội thương

Chợ

:Xem chi tiết: Chợ chùa

Chợ là trung tâm kinh tế của nông thôn, là nơi trao đổi hàng hóa của một xã hay một làng. Tại đây người nông dân và thợ thủ công mang sản phẩm mình sản xuất được như lương thực, thực phẩm, công cụ lao động, đồ dùng gia đình… ra chợ để mua bán, trao đổi.

Có nhiều hình thức chợ: chợ hàng ngày, chợ họp phiên, chợ cuối năm có tính chất nghi lễ. Địa điểm họp chợ là những nơi rộng rãi, dễ lưu thông như bến sông, trục đường… Hầu hết các làng ở vùng đồng bằng đều có chợ, những chợ vùng (lớn) có phiên kế tiếp nhau vào những ngày lẻ, chẵn quanh năm, vì thế người dân một vùng có thể đi hết chợ này đến chợ khác.

Tại vùng trung du và vùng núi, mật độ chợ thưa hơn. Hàng hóa chính ở đây là lâm thổ sản, mọi người mang đến bán hoặc đổi lấy nhu yếu phẩm từ miền xuôi.

Ngoài ra thời kỳ này còn xuất hiện chợ chùa (hay chợ Tam bảo) họp tại các sân, bãi cạnh các chùa và thu nhập từ chợ được đưa lại cho chùa quản lý.

Luồng buôn bán trao đổi

Sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã dẫn đến sự hình thành các luồng buôn bán lưu thông hàng hóa giữa các vùng trong nước. Kinh thành Thăng Long, hay Kẻ Chợ, là đầu mối hai tuyến buôn bán dài ngược lên phía bắc và xuôi xuống phía nam là: Kẻ Chợ - thượng du và Kẻ Chợ - Thanh Nghệ:

  • Từ các trấn đồng bằng, gạo muối, hàng thủ công tập trung về Kẻ Chợ đi lên thượng du; từ thượng du các hàng lâm thổ sản như gỗ, tre, mật ong, quế, hồi… và các loại khoáng sản xuôi về Kẻ Chợ.
  • Từ Thanh Nghệ, các thuyền đinh lớn xuôi theo ven biển rồi ngược sông Hồng hoặc sông Đáy, mang các đặc sản miền Trung và ven biển như muối, mắm, cá khô đến cung cấp cho Kẻ Chợ và tỏa đi các trấn đồng bằng, vươn tới các chợ vùng hay chợ xã.

Các thương nhân nổi tiếng trường vốn và buôn bán dài tuyến, dài ngày thời kỳ này gồm có họ Phan ở Trung Liệt (Từ Sơn, Bắc Ninh), người làng Như Phượng (Văn Giang, Hưng Yên).

Xu thế phát triển của kinh tế hàng hóa khiến cho một số làng Bắc Bộ thay đổi hướng làm ăn. Đó là những trường hợp làng Đa Ngưu (Hưng Yên) chuyên buôn thuốc bắc khắp mọi nơi; làng Báo Đáp có nghề dệt vải và nghề nhuộm nhưng trong quá trình tiếp xúc thị trường đã tìm ra nguồn lợi lớn từ buôn bán, do đó họ chuyển hết sang nghề buôn. Làng Phù Lưu ở Bắc Ninh vốn có chợ hình thành từ thời Lê Sơ, người dân cũng có xu hướng chuyển sang buôn bán và chợ Phù Lưu trở thành chợ lớn. Ngoài ra, còn có những làng chuyển sang buôn bán khác như Đan Loan (Hải Dương), Đồng Tỉnh, Xuân Cầu (Hưng Yên), Đông Ngạc (Hà Nội).

Dù bị các chúa Trịnh và chúa Nguyễn ngăn cấm, giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài vẫn có luồng buôn bán trao đổi không chính thức. Các thương nhân ở Sơn Nam và Thanh Nghệ mang hàng theo đường biển vào bán ở cảng Thanh Hà; từ cảng này hàng hóa Đàng Trong lại được chuyển ra Đàng Ngoài, theo như ghi chép của Lê Quý Đôn: "Chiếu, đường từ Quảng Nam chở ra, đồ gốm từ Thổ Ngõa chở vào". Khi Hoàng Ngũ Phúc đánh chiếm Phú Xuân đã tìm thấy trong kho chúa Nguyễn rất nhiều tiền nhà Mạc đúc do các thương gia Đàng Ngoài mang vào giao dịch; ngược lại tiền kẽm do các chúa Nguyễn đúc cũng theo thuyền buôn Thanh Nghệ ra Đàng Ngoài.

Các trung tâm buôn bán

nhỏ|Tranh giáo sĩ Phương Tây vẽ cảnh Thăng Long - Kẻ Chợ - tòa lầu cao to nổi bật được cho là lầu Ngũ Long của chúa Trịnh Thăng Long vẫn đóng vai trò là trung tâm giao dịch lớn nhất của Đàng Ngoài như các đời trước. Ngoài nhu cầu tiêu dùng của vua Lê và chúa Trịnh, nơi đây còn có nhiều phường nghề thủ công như phường giấy Yên Thái, phường lụa Thụy Chương, phường bạc Đông Tác, phường sơn Nam Ngư, phường đồng Ngũ Xã… cùng các phường buôn bán như phường Đồng Xuân, phường Gia Ngư, phường Hội Vũ, phường Kim Cổ. Những phường làm nghề thủ công thì bán sản phẩm ra tại chỗ, phường buôn bán thường kinh doanh chuyên sâu một số mặt hàng như Hàng Lược, Hàng Hài, Hàng Tre, Mã Mây, Hàng Muối…

Alexandre de Rhodes mô tả Thăng Long - Kẻ Chợ vào thế kỷ 18 trong sách Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài: "rộng và dài khoảng 6.000 bước, phố phường rộng có thể đi 10 - 12 con ngựa; dân số khoảng 1 triệu người; có tới 50.000 người bán lẻ tại nhiều địa điểm trong thành phố và vì thế số người mua đông vô cùng".

Phố Hiến được xem là nơi đô hội thứ hai của Đàng Ngoài như câu truyền miệng đương thời: "Thứ nhất kinh kỳ thứ nhì phố Hiến". Chính sách hạn chế người nước ngoài đến buôn bán trực tiếp tại Thăng Long mà chỉ cho phép họ cư ngụ và lập thương điếm ở Vạn Lai triều (tức phố Hiến) cũng là cơ hội cho nơi đây phát triển buôn bán.

Vùng ngoại vi phố Hiến có 20 phường, trong đó có 8 phường thủ công như phường Hàng Giường, phường Hàng Ván, phường Hàng Sũ, phường Hàng Sơn, phường Hàng Nón… Các phường buôn bán là phường Hàng Cau, phường Hàng Cá, phường Hàng Cháo… Người Trung Quốc có mặt ở đây và kinh doanh buôn bán khá đông và lâu dài, có vai trò lớn nhất trong việc kinh doanh tại vùng này. Ngoài ra còn có cả người Anh, người Nhật, người Pháp, người Hà Lan, người Xiêm, người Bồ Đào Nha, người Malay…, trong đó người Hà Lan gắn bó lâu dài chỉ sau người Hoa.

Thuế thương mại

Đàng Ngoài thi hành ba loại thuế là thuế sản vật, thuế tuần ty và thuế chợ. Loại thuế tuần ty đánh dấu sự phát triển của việc lưu thông hàng hóa, đồng thời phản ánh sự bóc lột của người cai trị đối với thương nhân.

Với thuế sản vật, triều đình thu bằng tiền hoặc hiện vật. Thuế đánh vào mọi ngành nghề sản xuất kinh doanh. Có lúc vì không đủ tiền nộp thuế, người dân đã phá cả dụng cụ sản xuất: vì thuế sơn nên đẵn cây sơn, vì thuế lụa nên chặt khung cửi, vì thuế gỗ nên bỏ rìu, vì thuế tôm cá nên giấu vó lưới.

Ngày càng có nhiều thứ thuế: ban đầu chỉ có 400 loại, sau tăng lên hàng vạn loại thuế. Vì thuế ngày càng nặng và nhiều và tệ tham nhũng của quan lại khiến thương nhân phải nợ thuế, giá cả tăng cao. Do tình trạng các tuần ty tham nhũng, năm 1663 chúa Trịnh Tạc đã ra lệnh bãi bỏ 23 tuần ty, năm 1723 bãi bỏ 2 sở, đến năm 1743 chúa Trịnh Doanh bãi bỏ hẳn việc thu thuế tuần ty.

Thuế chợ cũng trở thành gánh nặng cho dân. Vì sự tham nhũng của quan lại, nhiều chợ đã phải chạy trọt để xin thành chợ chùa nhằm tránh thuế.

Ngoại thương

Khác với thời Lê Sơ thực hiện chính sách đóng cửa đối với ngoại thương, các chúa Trịnh thực thi chính sách mở cửa với nước ngoài. Ngoài những đối tác truyền thống từ phương Đông, thời kỳ này đã có thêm các đối tác từ phương Tây.

Các đối tác phương Đông

Trung Quốc

Việc buôn bán giữa người Việt và người Hoa trên đường bộ diễn ra thường xuyên dọc theo biên giới phía bắc. Hàng xuất khẩu sang Trung Quốc là lâm thổ sản, hồ tiêu, cau, sa nhân, đường trắng; hàng nhập khẩu về là các nhu yếu phẩm như sa, đoạn, gấm vóc, vải, thuốc bắc, quần áo, tất, kính, giấy bút, mực, kim, cúc áo, bàn ghế, đồ đồng, hoa quả (cam, lê, táo, hồng), lương thực (bột mì, bánh, miến, trứng muối, bắp cải, đậu phụ, nấm hương). Vì qua lại thường xuyên, người Hoa nắm được thị hiếu của người Việt, thường mang sang những mặt hàng triều đình cần dùng để được giảm thuế và những mặt hàng được người dân ưa chuộng để kiếm lãi cao.

Các lái buôn Trung Quốc đi đường biển thường xuất phát từ Triều Châu, Quảng Châu, Thiều Châu, Phúc Kiến. Các thuyền buôn vào cửa sông Bạch Đằng, sông Thái Bình và sông Đáy để đến Phố Hiến hoặc Kẻ Chợ.

Chúa Trịnh có quy định quản lý chặt chẽ những thương nhân người Hoa, nếu không có người quen hướng dẫn thì không được vào kinh thành; khi buôn bán ở Kẻ Chợ chỉ được cư trú tại Khuyến Lương không được ở lại kinh thành. Nhưng các thương nhân người Hoa vẫn không gặp nhiều khó khăn vì họ có sự hỗ trợ của những người Hoa sinh sống tại Đại Việt.

Ngoài vai trò buôn bán trực tiếp, Đại Việt còn là cảng xuất quan trọng cho các hàng Trung Quốc sang Nhật. Từ năm 1641 đến 1682, trên 40% số tơ nhập khẩu vào Nhật Bản do các thương nhân Trung Quốc mang đến từ Đại Việt.

Hàng hóa họ mang đến Đại Việt gồm có: vũ khí, chì, đồng, kẽm, diêm sinh, cánh kiến; họ mua về tơ lụa, đường, trầm hương, kỳ nam và cá khô.

Hà Lan

Thư của Đàng Ngoài bàn về việc chấm dứt quan hệ thương mại với công ty Đông Ấn Hà Lan, ngày 10 tháng 2 năm 1700|nhỏ|phải Các lái buôn Hà Lan tiếp cận với thị trường Đàng Ngoài qua các lái buôn Nhật Bản từ năm 1637. Dù đã dùng cách đút lót, các thương gia Hà Lan vẫn không được chúa Trịnh cho mở thương điếm ở Thăng Long mà chỉ được vào Phố Hiến. Đến năm 1644, họ mới thực hiện được ý định này.

Việc buôn bán này thực chất là sự trao đổi giữa 2 thương điếm của công ty Đông Ấn Hà Lan tại Nhật Bản (tên là Hirodo) và thương điếm ở Phố Hiến. Người Hà Lan mua bạc của Nhật để thanh toán cho các loại tơ (tơ Đại Việt và tơ Trung Quốc mua tại thị trường Đàng Ngoài), lụa, quế, sa nhân, đồ gốm... Hàng hóa mua từ Đại Việt được thu gom tại Phố Hiến và mang sang Nhật bán cho người Nhật.

Anh

Công ty Đông Ấn Anh bắt đầu chú ý đến Đại Việt từ đầu thế kỷ 17. Năm 1616, người Anh đến Đàng Ngoài buôn bán nhưng không có kết quả.

Năm 1672, người Anh quay lại. Năm 1673, họ được mở thương điếm ở Phố Hiến và sau chuyển lên Kẻ Chợ. Tuy nhiên, việc buôn bán của người Anh gặp khó khăn do phải thông qua các quan lại của triều đình Lê-Trịnh. Vì vậy, người Anh đóng cửa thương điếm vào năm 1697. Sau đó thỉnh thoảng các tàu Anh mới đến Đàng Ngoài và tới năm 1720 thì chấm dứt hẳn.

Pháp

Khi các thương nhân Pháp sang Đại Việt, họ được sự trợ giúp thông tin rất nhiều từ các giáo sĩ trong Hội truyền giáo hải ngoại.

Sau lần đầu không thành công năm 1669 do chính sách cấm đạo, năm 1680, người Pháp đã bắt đầu tiếp cận được thị trường Đàng Ngoài. Nhờ quan hệ tốt và hàng hóa bán rẻ hơn người Anh, người Pháp được mở thương điếm tại Phố Hiến.

Tuy nhiên, do hoạt động của thương điếm không hiệu quả và có dính dáng tới việc truyền đạo nên bị triều đình Lê-Trịnh nghi ngờ. Năm 1682, công ty Đông Ấn của Pháp phải rút lui khỏi Phố Hiến.

Ảnh hưởng của ngoại thương đối với nền kinh tế

Ngoại thương Đại Việt đã có những bước tiến vượt bậc. Ngoài đối tác truyền thống đã có thêm nhiều đối tác phương Tây. Ảnh hưởng đối với nền kinh tế trong nước khi đó rất lớn:

  • Một số ngành kinh tế trong nước được kích thích phát triển như ươm tơ, làm gốm, làm đường... Sản phẩm xuất khẩu nhiều, làm cho kinh tế hàng hóa phát triển, vì vậy nông nghiệp và thủ công nghiệp bớt đi tính tự cung tự cấp.
  • Ngoại thương thúc đẩy buôn bán kinh doanh trong nước và giúp các thương nhân tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm
  • Tiếp cận với thị trường phương Tây giúp thị trường tiêu thụ của Đại Việt phát triển hiện đại hơn.
  • Đánh thuế tàu thuyền nước ngoài đến buôn bán tạo nguồn thu cho chi tiêu của triều đình.

Tuy nhiên, ngoại thương thời kỳ này vẫn có một số hạn chế. Sang thế kỷ 18, thuyền buôn nước ngoài đến thưa dần. Sau thời kỳ hưng khởi, ngoại thương Đại Việt suy tàn vào cuối thế kỷ 18 do những nguyên nhân sau:

  • Hạn chế trong chính sách ngoại thương của những người cầm quyền. Triều đình đặt ra nhiều thể lệ, quy định phiền hà; thủ tục đánh thuế tùy tiện, phân biệt thuyền phương Đông và phương Tây; thuế đánh cao hay thấp không phụ thuộc vào số lượng hàng hóa mà phụ thuộc vào sở thích tiêu dùng của triều đình. Chính sách độc quyền trong ngoại thương chỉ dành cho giới quý tộc và quan lại khiến nảy sinh tệ tham nhũng: các lái buôn phương Tây muốn mua hàng phải đặt tiền trước cho quan lại và không được mua trực tiếp từ dân, khiến họ bị thiệt thòi.
  • Khi chiến tranh Trịnh-Nguyễn bùng nổ, hai chúa đều cần vũ khí và do đó việc mở rộng quan hệ với phương Tây là nhu cầu thiết thực. Khi chiến tranh chấm dứt (1672), chúa Trịnh (và cả chúa Nguyễn) không còn mặn mà trong việc buôn bán với người phương Tây. Khi mệt mỏi với việc xâm nhập thị trường Đại Việt, các thương nhân phương Tây lại bị thu hút bởi sự hé mở của thị trường Quảng Đông gần kề và chuyển qua đó.
  • Tình hình các nước tư bản phương Tây không ổn định. Các cuộc chiến giành giật đất đai giữa Hà Lan và Tây Ban Nha, giữa Anh và Pháp cũng như các cuộc cách mạng tư sản tại đây gây ra biến động chính trị làm ảnh hưởng đến hoạt động buôn bán.
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Sứ thần triều cống và chức sắc [[Chăm pa, Lan Xang, Ayutthaya, Taungoo, Demak, Khơme, Lan Na, Ba Tư, Lưu Cầu,... yết kiến triều đình nhà Lê ở Thanh Hóa (tranh thế kỷ 16)]] **Thương
**Thương mại Đàng Trong thời Lê trung hưng** bao gồm các hoạt động thương mại trong và ngoài nước của miền nam Đại Việt thời Lê trung hưng dưới quyền cai quản của các chúa
**Kinh tế Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. ## Nông
**Tiền tệ Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. Từ đầu
nhỏ|Đàng Ngoài và [[Đàng Trong (1757)]] nhỏ|phải|Bản đồ lãnh thổ Đàng Ngoài (Tonkin), cùng [[Đàng Trong (Cochinchina) và Lào, năm 1771.]] phải|nhỏ|Bản đồ vẽ [[Vân Nam, Ai Lao (phía dưới) và Miền Bắc Việt Nam
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật
**Trung tâm Thương mại Thế giới** (tiếng Anh: _World Trade Center_, viết tắt **WTC**; cũng được gọi **Tòa tháp đôi**) là tên gọi ban đầu cho cả tổ hợp bảy tòa nhà trước đây nằm
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
thumb|Các loại đô la thương mại: (1) [[Rồng bạc (tiền xu)|Đô la Rồng Nhà Thanh dưới thời vua Quang Tự; (2) Piastre Đông Dương thuộc Pháp dưới thời Tổng thống Armand Fallières; (3) Đô la
**Chợ chùa**, hay còn gọi là **chợ Tam bảo**, là một loại hình chợ tồn tại ở Đàng Ngoài thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tên gọi và đặc điểm Tại
## LỊCH SỬ KINH TẾ VIỆT NAM ### Thời mở nước * Kinh tế Việt Nam thời Hồng Bàng và An Dương Vương ### Thời Bắc thuộc + Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
**Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu** (tên giao dịch bằng tiếng Anh: _Asia Commercial Joint Stock Bank_), được gọi tắt là **Ngân hàng Á Châu (ACB)**, chính thức đi vào hoạt động kinh
**Hoàng Nghĩa Giao** (1623-1662) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia vào cuộc chiến tranh giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong thời Lê trung hưng. ## Thân thế
**Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam** (tên giao dịch quốc tế: _Joint Stock Commercial Bank for Foreign Trade of Vietnam_) tên viết tắt: "**Vietcombank**", là ngân hàng lớn nhất trên thị trường chứng khoán
**Lê Dụ Tông** (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt
**_Án lệ 09/2016/AL_** là án lệ công bố thứ 9 thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La
**Thanh vương** **Trịnh Tráng** (chữ Hán: 鄭梉, 6 tháng 8 năm 1577 – 28 tháng 5 năm 1657), thụy hiệu **Văn Tổ Nghị vương** (文祖誼王), là chúa Trịnh thứ 2 thời Lê Trung hưng chính
**Tiền tệ thời Nam Bắc triều** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông trong thời Nam Bắc triều (1527-1592) trên lãnh thổ nước Đại Việt
**Âm nhạc thời Phục Hưng** là âm nhạc được viết tại Châu Âu trong thời kỳ Phục Hưng. Các nhà nhạc sử học – với những bất đồng đáng kể – đều thống nhất cho
**_Án lệ 44/2021/AL_** về việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu phản tố là án lệ công bố thứ 44 thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại của Tòa án nhân
**_Hugo_** (_Skærmtrolden Hugo_ trong tiếng Đan Mạch, có nghĩa là "Hugo the Screen-Troll") là một nhượng quyền truyền thông được tạo ra bởi Interactive Television Entertainment (sau này là ITE Media) của Đan Mạch vào
**Thương cảng Vân Đồn** từng là một thương cảng của nước Đại Việt, tồn tại từ giữa thế kỷ 12 đến cuối thế kỷ 18 ở vùng biển nay thuộc tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam.
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm
Thực hiện Kế hoạch số 66/KH-UBND ngày 09 tháng 3 năm 2023 của UBND tỉnh về xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch năm 2023, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Biểu tình bài Nhật tại Trung Quốc năm 2012** là một loạt các cuộc biểu tình bài Nhật Bản được tổ chức ở các thành phố lớn tại Trung Quốc và Đài Loan trong khoảng
**Thời đại Khám phá** hay **Thời đại Thám hiểm** là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Trùng Khánh** () là một thành phố lớn ở Tây Nam Trung Quốc và là một trong bốn thành phố trực thuộc trung ương tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Trùng Khánh
Năm 2025, tỉnh Kiên Giang tổ chức 40 hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch trong, ngoài tỉnh, nước ngoài và các hoạt động liên quan khác, với tổng kinh phí
Năm 2025, tỉnh Kiên Giang tổ chức 40 hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch trong, ngoài tỉnh, nước ngoài và các hoạt động liên quan khác, với tổng kinh phí
Năm 2025, tỉnh Kiên Giang tổ chức 40 hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch trong, ngoài tỉnh, nước ngoài và các hoạt động liên quan khác, với tổng kinh phí
thumb| 7 tiền Phi Long, tiền thưởng bằng bạc được đúc vào năm 1833, niên hiệu [[Minh Mạng thứ 14, mặt trước là hình rồng 5 móng lượn hình chữ S, với đường kính 41
**Thượng Hải** (chữ Hán: 上海, bính âm: _Shànghǎi_) là thành phố đông dân nhất Trung Quốc, và là thành phố không bao gồm vùng ngoại ô lớn nhất thế giới. Thượng Hải nằm ở bờ
**Tết Trung thu** còn được gọi là **Tết trông Trăng** hay **Tết hoa đăng** theo Âm lịch là ngày Rằm tháng 8 hằng năm, là một lễ hội truyền thống được kỉ niệm ở văn
**Bắc thuộc lần thứ hai** (chữ Nôm: 北屬吝次二, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 2**) trong lịch sử Việt Nam kéo dài khoảng 500 năm từ năm 43 đến năm 543, từ khi Mã Viện theo
Chân đèn trang trí họa tiết rồng thời Mạc **Nghệ thuật Đại Việt thời Mạc** phản ánh các thành tựu về nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời nhà Mạc từ năm 1527 đến
[[Tập tin:America 1000 BCE.png|thumb|right|Lược đồ thể hiện các cộng đồng người ở châu Mỹ vào năm 1000 trước Công nguyên. ]] **Thời kỳ tiền Colombo** () bao hàm tất cả các giai đoạn lịch sử
Bà Quảng Xuân Lụa - Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch Kiên Giang cho biết, tỉnh triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp xúc tiến đầu
Công Ty Cổ Phần Thương Mại Lan Anh Bãi Trường kinh doanh dịch vụ lưu trú ngắn ngày,nhà hàng và các dịch vụ ăn uống phục vụ lưu động,kinh doanh bất động sản,quyền sử dụng
**Tây Ban Nha thời Franco** () hoặc **Chế độ độc tài Francisco Franco** (), chính thức được gọi là **Quốc gia Tây Ban Nha** (), là thời kỳ lịch sử Tây Ban Nha từ năm
**Hưng Yên** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở miền Bắc Việt Nam, với trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 55 km về phía Đông Nam.
**Lịch sử Trung Quốc** đề cập đến Trung Hoa, 1 trong 4 nền văn minh cổ nhất thế giới, bắt nguồn từ lưu vực phì nhiêu của hai con sông: Hoàng Hà (bình nguyên Hoa
**Vũ Lệ Quyên** (sinh ngày 2 tháng 4 năm 1981), thường được biết đến với nghệ danh **Lệ Quyên**, là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Sinh ra tại Hà Nội trong một gia
phải|nhỏ|Bức _[[Người Vitruvius_ của Leonardo da Vinci thể hiện ảnh hưởng của các tác giả cổ đại lên những nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Dựa trên những đặc điểm miêu tả trong cuốn _De
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
nhỏ|Trận Poitiers qua bức họa "Bataille de Poitiers en Octobre 732" của [[Charles de Steuben]] **Sơ kỳ Trung cổ** là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ năm 600 tới khoảng