✨Trịnh Tông
Đoan Nam Vương Trịnh Tông (chữ Hán: 鄭棕; 10 tháng 10 năm 1763 - 23 tháng 7 năm 1786), còn có tên khác là Trịnh Khải (鄭楷) là vị chúa Trịnh thứ 10 thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, cầm quyền từ năm 1782 tới năm 1786, ở giai đoạn tan rã của tập đoàn phong kiến họ Trịnh.
Trịnh Tông là con trai trưởng của Thánh Tổ Thịnh vương Trịnh Sâm, mẹ là bà Dương Thị Ngọc Hoan. Từ lúc trẻ, ông đã không được cha mình thương yêu và bị Tuyên phi Đặng Thị Huệ tìm cớ hãm hại. Trong vụ án năm Canh Tý, Trịnh Tông bị truất ngôi làm con út, nhường lại chức thế tử cho Trịnh Cán là con của Tuyên phi. Tuy nhiên vào tháng 10 ÂL năm 1782, không lâu sau khi Trịnh Sâm mất, lính tam phủ cùng nhau nổi dậy tôn phò Trịnh Tông lên giữ ngôi chúa mà truất ngôi của Trịnh Cán.
Kiêu binh hai xứ Thanh, Nghệ do có công phò Trịnh vương nên rất đắc chí, lộng hành ngang ngược không kiêng kị gì cả khiến triều cương hỗn loạn, thế nước suy yếu. Năm 1786, tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ (lấy danh nghĩa phù Lê xuất quân bắc phạt; Trịnh Tông không chống lại được rồi bị bắt và tự tử; bắt đầu cho mấy năm biến động liên tiếp trên chính trường Bắc Hà cho tới mùa xuân năm 1789.
Tiểu sử
Trịnh Tông (鄭棕) còn có tên khác là Trịnh Khải, con trai trưởng của Thánh tổ Thịnh vương Trịnh Sâm với thứ phi Dương Thị Ngọc Hoan, người làng Long Phúc, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. Bà có chị gái là Ngọc Thịnh, ái phi của Chúa Trịnh Doanh đưa vào làm cung tần của Trịnh Sâm. Vốn không ưa Ngọc Thịnh, không ưa cả người làng Long Phúc, thấy Ngọc Hoan kém sắc lại không được học hành gì, Thế tử Trịnh Sâm không đoái hoài tới.
Biết Thế tử đang muốn có con trai nối dõi, Ngọc Thịnh đã bày mưu cho em, phao tin Ngọc Hoan nằm mơ thấy rồng hiện, mua chuộc Liêm Trung hầu, viên hoạn quan trung đường được Thế tử tin cẩn, kẻ được sai gọi phi tần, cung nữ hầu Thế tử mỗi tối. Hôm đó, Chúa cho vời chính phi Ngọc Khoan vào hầu, Khê trung hầu cố ý giả nghe lầm, đưa ngay Ngọc Hoan đến. Thấy bà, Chúa không bằng lòng nhưng không nỡ đuổi ra. Sau đó, Chúa đòi Liêm trung hầu vào trách mắng. Liêm trung hầu cúi đầu tạ tội, đoạn thuật rõ đầu đuôi chuyện Ngọc Hoan nằm mơ, Chúa nghe nhưng không nói gì cả. Sau đó, Ngọc Hoan đã có thai, sinh ra Trịnh Tông năm 1763.
Khi biết Ngọc Hoan mang thai, Trịnh Sâm đã tỏ ra thờ ơ, Ngọc Hoan sinh con, Chúa cũng chẳng quan tâm. Ngay cả việc đặt tên cho cậu bé, Chúa cũng lừng chừng. Ân vương Trịnh Doanh phải giục, Chúa cũng khất lần. Nay được cháu trai ra đời, có người nối dõi, Ân vương vui mừng khôn xiết đã ngẫu hứng mấy vần thơ: :: Lân đã hiện rồi vinh quốc công :: Thiên hoàng nay đã tỏ dòng trong :: Siêu phàm có được nhờ nhân hậu :: Vui cả sơn hà bàn thạch tông.
Ân vương Trịnh Doanh rất thú bài thơ này, giục mãi mà Trịnh Sâm cứ lờ đi nên bèn lấy chữ "Tông", chữ cuối cùng của bài để đặt tên cho ấu chúa. Tên có ý nghĩa rằng Tông ra đời quý như kỳ lân xuất hiện, phúc cho thiên hạ, đồng thời dòng họ Trịnh sẽ mãi vững bền như bàn thạch.
Tông lớn lên khôi ngô, tuấn tú nhưng vì chúa không yêu mẹ nên cũng chẳng thiết đến con. Hơn nữa, Trịnh Sâm cho rằng, giấc mơ rồng là điềm làm vua chúa, nhưng rồng vẽ không phải là rồng thật, lại không có đuôi, ắt là cơ nghiệp không bền. Trịnh Sâm không muốn chọn Tông làm thế tử, việc học tập được giao cả cho các quan; đến khi Khải đủ tuổi ra ở riêng, chúa cũng lờ luôn.
"Theo lệ cổ, con trai của chúa cứ đến 7 tuổi thì cho ra ở riêng để học, nếu là con trai trưởng thì cứ đến 13 tuổi là cho mở phủ đệ riêng, được phong làm Thế tử. Nhưng Sâm cho rằng Khải không phải do Chính phi sinh ra nên không yêu quý lắm. (...) Hai viên quan trong cơ quan Ngự sử đài là Nguyễn Thướng và Vũ Huy Đĩnh nhiều lần xin Trịnh Sâm lập Thế tử, nhưng họ đều bị giáng chức. Về sau, Đặng Thị Huệ, là một thị nữ được Trịnh Sâm yêu chiều, sinh con trai là Cán, Trịnh Sâm đặc biệt yêu quý hơn nên sách phong Đặng Thị làm Tuyên phi. Từ đó, Đặng Thị ra sức xây dựng phe cánh ngày một mạnh. Đặng Thị Huệ ngầm nuôi chí lập mưu cướp ngôi Thế tử cho con là Cán. Khải lấy đó làm mối lo. Khi Trịnh Sâm bị bệnh, Trịnh Khải âm mưu với các quan trấn thủ Sơn Tây Nguyễn Lệ và trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Khắc Tuân làm loạn, Sâm giáng Khải xuống làm con út và bắt giam ở nội phủ".
Chúa Trịnh Sâm cho rằng Tông không phải do vợ cả sinh ra, nên chỉ dùng Hân quận công Nguyễn Phương Đĩnh làm bảo phó. Đến năm 9 tuổi, Trịnh Tông mới đi học, dùng Nguyễn Lệ và Lý Trần Thản làm Tả, Hữu tư giảng. Chưa được bao lâu, Trần Thản mất, Nguyễn Lệ trấn thủ Sơn Tây, chúa cho Tông đến ở nhà riêng Nguyễn Phương Đĩnh, có lệnh mới được vào phủ đường triều yết.
Chính biến năm Canh Tý
Quận Huy Hoàng Đình Bảo giữ chức trấn thủ Nghệ An, rất được lòng dân. Trịnh Sâm nghi là có ý phản, bí mật bàn mưu với Nguyễn Lệ và Nguyễn Phương Đĩnh giết Đình Bảo. Đình Bảo vì có vợ thân thiết với Đặng Tuyên phi đang được sủng ái, nên biết chuyện, bèn làm tờ khải xin về triều, chúa y cho.
Đình Bảo cho rằng Đặng Thị tuy được chúa cưng yêu, nhưng con cô ta là Trịnh Cán còn bé mà Trịnh Tông thì đã trưởng thành. Sau khi về kinh, Đình Bảo cho đem lễ vật 100 lạng vàng, 10 cây đoạn gấm, làm lễ trình diện, đến yết kiến Trịnh Tông. Ông từ chối, không cho vào, lại nói riêng với người hầu hạ rằng: :Thằng giặc ấy sao không ở trấn Nghệ An để làm phản, lại về triều làm gì? Một ngày kia ta sẽ tịch thu gia sản nó, ta cũng đâu thèm chi cái lễ của nó.
Đình Bảo nghe được câu ấy, sợ lắm, tự suy nghĩ là mình không được thế tử bao dung, bèn ngả sang phe Đặng Thị Huệ ngầm chủ trương mưu kế bỏ người này lập người khác, Đặng Thị cũng hết sức giúp đỡ Đình Bảo, và biện bạch là Đình Bảo bị vu oan, lại cho Đình Bảo có thể dùng giữ việc trọng đại được. Trịnh Sâm tin lời. Do đấy, Đình Bảo được vào giữ chức trong chính phủ, lãnh chức trấn thủ Sơn Nam bằng cách vắng mặt. Quyền thế Đình Bảo làm nghiêng lệch cả trong kinh, ngoài trấn. Bọn quản binh và trấn thủ đều là môn hạ, chỉ có Nguyễn Lệ ở Sơn Tây và Nguyễn Khắc Tuân ở Kinh Bắc cùng Đình Bảo vẫn ngầm có ý đánh đổ Đình Bảo.
Bấy giờ Đặng Tuyên phi được sủng ái, lại có viện trợ từ Hoàng Đình Bảo, nuôi ý lập con mình là Cán làm kế tự, Tông cảm thấy bất an bởi khi Trịnh Sâm mắc bệnh, nhiều lần Tông không được vào yết kiến. Lại vì bên ngoài có lời đồn Trịnh Sâm bệnh nặng lắm, nên Trịnh Tông bèn bàn mưu với gia thần là Đàm Xuân Thụ và bọn đầy tớ nhỏ là Thế và Thẩm. Theo lời khuyên của bọn họ, ông bí mật chứa sẵn binh khí, chiêu mộ dũng sĩ, dự định khi Trịnh Sâm mất thì đóng cửa thành lại, giết Đình Bảo, bắt giam Tuyên phi, rồi báo cho quan hai trấn Tây, Bắc vào hộ vệ. Tông nghe theo, vay ngầm của nội thị Chu Xuân Hán 1.000 lạng bạc, để nuôi dũng sĩ và sắm khí giới từng giảng sách cho Trịnh Tông, được kính trọng; cùng với Hà Như Sơn là học trò của Nhậm làm việc giữ sách. Như Sơn biết được việc, đem nói với Nhậm và Cấp sự trung Nguyễn Huy Bá. Bá cho con dâu vào làm thị tỳ hầu hạ Đặng Thị, lại sai người thân tín cầu cạnh làm hầu hạ Nguyễn Khắc Tuân, nên dò biết việc này, bèn vào phủ tố cáo. Đặng Tuyên phi bèn cùng Ngô Thì Nhậm hợp mưu cáo tố là Tông cấu kết với hai viên trấn thủ, mưu toan làm việc trái phép. Chúa giận lắm, cho triệu Hoàng Đình Bảo vào phủ, muốn trị tội ngay. Đình Bảo can rằng :Thế tử dám làm việc to lớn này, chính do viên quan hai trấn ở Tây và Bắc chủ mưu, nay họ đều cầm quân ở ngoài nếu trị tội một cách vội vàng, e sẽ xảy ra biến cố khác. Vậy chi bằng trước hết triệu hai viên trấn thủ ấy về triều, rồi sau sẽ dần dà phát giác sự trạng để trị tội.. Đặng thị bắt Trịnh Tông ra sống ở nhà Tả Xuyên, giam giữ cấm đoán nghiêm ngặt. Mẹ ông là Dương thị sai người đến khuyên quận Huy thương tình. Đình Bảo khóc và nói :"Đình Bảo này thờ tiên vương, rất được đội ơn yêu dấu. Uý tử là con của tiên vương tôi; nếu tôi có lòng nào sẽ bị trời tru đất diệt", công ấy còn gì lớn hơn?.
Mùa thu năm đó, Trịnh Tông khởi phục Nguyễn Lệ làm Thượng thư bộ Lại, coi việc Tham tụng, cậu là Dương Khuông giữ quyền phủ sự. Bọn Nguyễn Lệ ngày đêm mưu tính diệt trừ kiêu binh. Đầu năm 1784, có 4 quân sĩ giả xưng đồng đội, vay ức tiền của hiệu buôn ở phố Đông Hà, bị anh em trong bản đội phát giác. Bọn Nguyễn Lệ hạ lệnh lập tức xử trảm. Quân sĩ tuy bất bình nhưng không làm được gì, khiến bọn Nguyễn Lệ rất đắc chí. Có tri huyện Mai Doãn Khuê mật tấu việc kiêu binh muốn tôn phò vua Lê, đánh đổ nhà chúa, Nguyễn Lệ báo cáo cho chúa. Doãn Khuê tố cáo Nguyễn Siêu là cháu ngoại của Tứ Xuyên hầu là Phan Lê Phiên có dự vào mưu, nhưng có chứng cứ. Chúa vẫn phong cho Doãn Khuê tước bá, quản lãnh đội quân thị hậu và là giảng quan của hoàng tự tôn, cho ở nội điện để tiện dò xét" của thánh nhân thật đáng tin là không phải lời nói vu khoát''. và Động Hải nghe được phong thanh đều chạy.
Nguyễn Huệ theo ý của Nguyễn Hữu Chỉnh, giả mệnh vua Tây Sơn (Nguyễn Nhạc), lấy danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh", dùng Hữu Chỉnh làm tiền phong thủy quân, kéo quân ra cửa biển Việt Hải, vào cửa biển Đại An, kéo thẳng đến Vị Hoàng (trấn thành Nam Định) chiếm lấy kho lương. Văn Huệ tự thống suất đại binh, theo đường thủy, đường bộ tiếp tục xuất phát. Trấn tướng hai xứ Thanh, Nghệ, bọn Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thùy đều bỏ thành trốn, Hữu Chỉnh kéo quân đến Vị Hoàng. Đinh Tích Nhưỡng đốc lãnh các quân thủy đạo tiến thẳng đến giữ ở cửa Luộc. Quân Trịnh gặp quân Tây Sơn và thua thảm, tranh nhau bỏ chạy, Sơn Nam bị mất. Lúc ấy triều đình đã hết sức rối ren đổ nát, Tây Sơn đã nhòm biết kẽ tóc chân tơ rồi, tiến thẳng quân mà đánh lấy chẳng khó khăn gì., quân sĩ tan tác hết. Nguyễn Noãn đến xin chúa vào địa phận của mình, chúa không theo và đến nương nhờ viên tiến sĩ trước kia giữ việc ở Lại phiên là Lý Trần Quán trước đây vâng đem tờ hịch đi chiêu mộ nghĩa binh. Trần Quán nói dối với học trò là Nguyễn Trang, một tên tướng cướp: :Có quan tham tụng Kế Liệt hầu tránh loạn đến đây, muốn phiền anh hộ tống ra khỏi địa phận.
Nguyễn Trang xem thái độ của thầy thì biết người ở đó là chúa Trịnh, bèn cùng đồ đảng là Nguyễn Ba bắt giải nộp doanh trại Tây Sơn. Trần Quán được tin, vội vàng chạy đến, vừa lạy vừa khóc, nói :Làm lầm lỗi chúa đến thế này là tội ở tôi.
Lại nói với Nguyễn Trang :Chúa là chúa chung khắp thiên hạ, mà tao lại là thầy mày. Nghĩa cả vua tôi là trọng, sao mày dám làm việc đó?
Nguyễn Trang đáp :Quan lớn để tôi ra mắt chúa. Chúa sống ở tay tôi, rồi quân nam đến hỏi tội thì quan lớn có cãi hộ được chăng. Sợ thầy không bằng sợ giặc, quý chúa không bằng quý mình.
Trần Quán quay sang nói với chúa :Trời ơi, tôi giết chúa rồi, trời có thấu không?
Chúa bảo :Tấm lòng trung nghĩa của người, quả nhân biết rồi; không cần phải tự oán nữa.
Rồi Nguyễn Trang cho giải chúa đi. Trên đường bị áp giải dừng lại ở quán nước, Trịnh Khải vớ con dao trên bàn đâm cổ tự vẫn. Dao vừa đâm vào cổ, vết thương chưa sâu, người áp giải vội giằng lấy con dao, ông bèn lấy ngón tay chọc vào cổ mà xé vết thương rộng ra để chết. Sau đó ông được Nguyễn Huệ khâm liệm tống táng chu đáo. Năm đó Đoan Nam vương 24 tuổi, ở ngôi chúa được 4 năm, đúng như dự liệu của Trịnh Sâm là "cơ nghiệp không bền". Nguyễn Huệ sai sắm đủ áo quan khâm liệm tống táng cho Trịnh Khải; bổ dụng Trang làm trấn thủ Sơn Tây, phong là Tráng liệt hầu. Còn Lý Trần Quán sau việc đó thì uất tức, ra lệnh cho người nhà chôn sống mà chết.
Sau khi Trịnh Khải chết, nhân lúc Tây Sơn rút về, phe cánh họ Trịnh bèn tìm lập bác ông là Trịnh Bồng làm chúa nhưng chẳng bao lâu thì lại bị Nguyễn Hữu Chỉnh đánh dẹp, chính thức chấm dứt nghiệp họ Trịnh. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, đến trước khi mất thì Trịnh Khải đã có ba người con trai; đều cùng với Trịnh thái phi Dương thị lẩn trốn đi nơi khác. Do lam sơn chướng khí, dịch bệnh hoành hành nên hai người con nhỏ đều chết yểu, chỉ còn có người con lớn nhất là sống sót. Sau này khi quân Tây Sơn rút đi, vua Lê Chiêu Thống cho đón thái phi và vương tử về kinh, đối đãi tử tế. Sau này quân Tây Sơn đại phá quân Thanh chiếm lại kinh thành Thăng Long, thái phi và vương tử cũng mất tích, sử sách không biết gì nữa về kết cục của họ.