✨Tôn giáo Đàng Trong thời Lê trung hưng

Tôn giáo Đàng Trong thời Lê trung hưng

Tôn giáo Đàng Trong thời Lê trung hưng phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Trong nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chúa Nguyễn cai quản.

Ở Đàng Trong thời Lê trung hưng, Nho giáo suy đồi trong khi Phật giáo hồi phục, bên cạnh đó có sự xuất hiện của Công giáo.

Nho giáo

Thời Lê trung hưng, ý thức hệ Nho giáo bị suy giảm ở Đàng Ngoài. Trong khi đó tình hình Đàng Trong cũng không sáng sủa hơn, do người dân Đàng Trong mới vào khai phá đất đai, phải lo ổn định cuộc sống. Dù các chúa Nguyễn cố gắng duy trì lễ giáo Nho gia nhưng nhìn chung Nho giáo thậm chí không có được vị trí cai trị trên danh nghĩa như ở Đàng Ngoài.

Có một nguyên nhân nữa được các nhà nghiên cứu lý giải về sự mờ nhạt hơn của Nho giáo là sự hòa hợp giữa hai dân tộc Việt và Chăm (những người sùng Phật giáo).

Phật giáo

Cũng như các chúa Trịnh, các chúa Nguyễn cũng là những người sùng đạo Phật. Ngay trong quá trình dựng nghiệp, các chúa Nguyễn đã xây cất nhiều chùa. Ngay khi trấn thủ Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã xây chùa Thiên Mụ năm 1601 và chùa Sùng Hóa năm 1602, các đời chúa sau tiếp tục tu bổ và làm thêm chuông.

Sở dĩ các chúa Nguyễn có chính sách bảo trợ đạo Phật và xem xem Phật giáo như một hệ tư tưởng quy tụ sự ủng hộ về mặt tinh thần và đạo đức bởi đạo Phật là tôn giáo đậm chất an ủi, phủ dụ, là nơi bám víu, che chở cho tâm hồn Việt tha hương xa xứ, di cư trên vùng đất đầy lạ lẫm không chỉ bởi sự thách thức của môi trường sinh tồn mà còn là bản lĩnh để tiếp cận với những sắc thái văn hoá của các cộng đồng người bản địa. Điều đó có ý nghĩa rất thiết thực với các chúa Nguyễn trong hoàn cảnh phải tập hợp những người di cư từ phía Bắc vào Thuận – Quảng để chống lại chúa Trịnh hùng mạnh hơn nhiều ở Đàng Ngoài.

Giai thoại kể rằng Nguyễn Hoàng vốn không ưa đạo Phật vì khi còn ở Thanh Hóa, trong một lần giả ốm mệt dạo chơi, Nguyễn Hoàng bị một nhà sư làm nhục. Nhưng khi trấn thủ Thuận – Quảng, Nguyễn Hoàng ý thức được vai trò của đạo Phật trong việc quy tụ nhân tâm ở vùng đất mới mở và ông đã thay đổi tư tưởng. Điều đó được các đời chúa Nguyễn sau kế tục.

Số lượng chùa mới ở Đàng Trong thậm chí nhiều hơn ở Đàng Ngoài cùng thời. Số thống kê cho thấy: trong số 73 chùa xây cất từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 tại Đại Việt thì ở Đàng Trong là 48 ngôi.

Những ngôi chùa được xây cất hoặc tu bổ thời kỳ này tiêu biểu là:

  • Chùa Sùng Hóa ở xã Triêm Âm, huyện Hòa Vang xây năm 1602;
  • Chùa Hóa Vinh ở gần cửa Tư Dung xây dựng năm 1667;
  • Chùa Túy Vân ở xã Vĩnh Hiền, huyện Phúc Lộc - Thừa Thiên Huế xây dựng cuối thế kỷ 17 thời Nguyễn Phúc Chu;
  • Chùa Báo Quốc tại Thừa Thiên Huế xây dựng cuối thế kỷ 17 thời Nguyễn Phúc Chu;
  • Chùa Từ Đàm Quốc tại Thừa Thiên Huế xây dựng năm 1695;
  • Chùa Hoàng Giác ở xã Hiền Sĩ, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế xây dựng năm 1721

Hệ thống chùa chiền ngày càng thêm dày đặc, phong phú. Năm 1750, Pierre Poivre ghi nhận rằng chỉ riêng tại Huế và vùng phụ cận đã có gần 400 ngôi chùa miếu thờ Phật. Do vậy, đội ngũ tăng ni trở nên đông đảo đến mức có lúc sư sãi chiếm hơn một nửa người đi đường.

Giáo sĩ Busomi trong thời gian 20 năm truyền giáo đã lập ra Giáo hội Đàng Trong. Thành phần các giáo sĩ lúc đó có 21 người: 17 linh mục và 4 thày cả; trong đó có một người Pháp, 5 người Ý, 5 người Nhật, còn lại là người Bồ Đào Nha. Đến năm 1639, số tín đồ Công giáo là 15.000 người và nhiều nhà thờ được xây dựng tại Quảng Nam, Đà Nẵng.

Tuy nhiên, cũng như ở Đàng Ngoài, do đạo Công giáo có những tư tưởng trái với đạo Nho và tập quán truyền thống của người Á Đông như phản đối tục thờ cúng tổ tiên và các giáo lý luân thường… nên dần dần đạo Công giáo cũng bị cấm đoán ở Đàng Trong. Sau khi bị trục xuất ở Đàng Ngoài năm 1630, đến năm 1645 Alexandre de Rhodes bị chúa Nguyễn trục xuất ra khỏi Đàng Trong. Công giáo bị cấm ở toàn lãnh thổ Đại Việt.

Sau đó các giáo sĩ vẫn tìm nhiều cách nối lại hoạt động truyền giáo ở Đàng Trong, như vận động sự hỗ trợ của Tòa thánh Vatican, cử các giáo sĩ sang Xiêm chờ cơ hội trở lại Đại Việt... Alexandre de Rhodes được các giáo sĩ bề trên của dòng Tên ở Ma Cao phái sang La Mã đệ trình lên giáo hoàng Innôcentê X xin thêm giáo sĩ sang Viễn Đông giảng dạy, nhưng đề nghị của ông không được thực hiện vì người Bồ Đào Nha độc chiếm quyền truyền giáo trên lãnh thổ mà họ được giáo hoàng cho phép. Sau khi Alexandre de Rhodes qua đời (1660), do ảnh hưởng của nước Pháp đang lớn mạnh về kinh tế nhờ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giáo sĩ Lambert người Pháp được giáo hoàng cử sang phụ trách truyền giáo ở Đàng Trong. Tuy nhiên, vì việc cấm đạo ráo riết ở Đại Việt, các giáo sĩ chỉ đến Xiêm La và chờ cơ hội vào và truyền giáo ở Đại Việt.

Không chỉ bị chính quyền chúa Nguyễn ngăn cản, các giáo sĩ người Pháp gặp phải sự phản đối kịch liệt của các giáo sĩ dòng Tên người Bồ Đào Nha. Năm 1664 giáo sĩ Chevreuil cố gắng vào lãnh thổ Đàng Trong và gặp 3 giáo sĩ người Bồ cũng vào trước đó. Vì sự mâu thuẫn giữa Pháp và Bồ Đào Nha, một giáo sĩ người Bồ tìm cách hại Chevreuil. Chúa Nguyễn Phúc Chu tuy ra lệnh đuổi giáo sĩ nhưng lệnh không thi hành ngặt nghèo. Sang thời Nguyễn Phúc Chú thì Thiên chúa giáo được dung nạp trở lại, nhiều nhà thờ được xây dựng, ngay tại Thuận Hóa có 5 nhà thờ. Trong khi đó tại Đàng Ngoài, Thiên chúa giáo vẫn bị cấm gắt gao.

Tuy nhiên, các giáo sĩ do hiểu lầm lẫn nhau về nhiều vấn đề dẫn đến xung đột, mâu thuẫn nội bộ. Vì vậy, năm 1739, giáo hoàng Clêmentê XII cử hồng y người Pháp là Achards de la Baume đến Đàng Trong để ổn định tình hình, và đến năm 1740 thì chia khu vực địa phận cho từng dòng giáo sĩ phụ trách để tránh xung đột.

Nhưng đến năm 1750, chúa Nguyễn Phúc Khoát lại ra lệnh đuổi giáo sĩ, nhiều người bị bắt, bị đánh, nhiều nhà thờ bị phá. Cùng lúc, việc cấm đạo ở Đàng Ngoài vẫn thi hành gay gắt. Điều đó buộc các giáo sĩ phải trở về Ma Cao. Duy nhất giáo sĩ dòng Tên là Jean Koffer được giữ lại ở Đàng Trong và trên toàn lãnh thổ Đại Việt đương thời vì ông là thày thuốc chữa bệnh cho chúa Nguyễn.

Sau đó, các giáo sĩ phải sang Cao Miên ở gần Oudong, dựa vào người Việt lên đánh cá ở Cao Miên để bắt nối liên lạc. Sau đó, các giáo sĩ dựa vào tướng trấn thủ Mạc Thiên Tứ để truyền giáo tại vùng đất mới khai phá của chúa Nguyễn, lập được một chủng viện tại Hòn Đất. Năm 1767, hai thừa sai Pháp là Lefebre Piguel và Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) được cử sang bổ sung, truyền giáo cho người Việt, Hoa và Thái tại Nam Bộ. Nhưng chỉ được 2 năm, theo lệnh của chúa Nguyễn Phúc Thuần, trường tu và nhà cửa của giáo sĩ bị đốt phá, nhiều học trò bị giết. Pigneau de Béhaine phải dời trường sang Pondichéry (vùng Ấn Độ thuộc Pháp) năm 1770.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tôn giáo Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Trong nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chúa Nguyễn cai quản.
**Tôn giáo Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Ngoài nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chính quyền vua Lê
**Kinh tế Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. ## Nông
**Văn học Đàng Trong thời Lê trung hưng** là một giai đoạn của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Tiền tệ Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. Từ đầu
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
**Nghệ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các loại hình nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời Lê trung hưng trong vùng lãnh thổ do chúa Trịnh cai quản (phía bắc
**Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** có những biến đổi lớn so với thời Lê Sơ, do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây. Không
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Tôn giáo Đại Việt thời Trần** về cơ bản cũng giống như thời Lý, có ảnh hưởng lớn của Phật giáo. Tuy nhiên so với thời Lý, Nho giáo ngày càng có vai trò lớn
Trong các **tôn giáo Đại Việt thời Lý**, Phật giáo về cơ bản là tôn giáo có ảnh hưởng nhiều nhất, ngoài ra Nho giáo và Đạo giáo cũng có tác động đến đời sống
**Hà Tông Mục** (1653–1707), tự **Hậu Như**, hiệu **Thuần Như**, **Chuyết Trai**, **Đôn Phủ**, là một Tiến sĩ, một danh thần nổi tiếng thời Lê trung hưng, có nhiều công trạng đối với đất nước.
**Tôn giáo tín ngưỡng Đại Việt thời Mạc** về cơ bản vẫn như thời Lê Sơ, chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian, Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Tuy nhiên, đã có
**Ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ** phản ánh quan hệ ngoại giao của chính quyền nhà Lê sơ với các nước lân bang trong giai đoạn từ năm 1428 đến năm 1527 trong lịch
**Tôn giáo tại Việt Nam** khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Nguyên thủy và một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,
nhỏ|Đàng Ngoài và [[Đàng Trong (1757)]] nhỏ|phải|Bản đồ lãnh thổ Đàng Ngoài (Tonkin), cùng [[Đàng Trong (Cochinchina) và Lào, năm 1771.]] phải|nhỏ|Bản đồ vẽ [[Vân Nam, Ai Lao (phía dưới) và Miền Bắc Việt Nam
phải|Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688. **Ải Lê
**Nguyễn Đăng** (1577-?) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Nguyễn Đăng người làng Đại Toán, huyện Quế Dương, nay là thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
Quốc giáo của nhà Thương () là một tôn giáo cổ đại của Trung Quốc, trong đó các tín đồ được đào tạo giao tiếp với nhiều vị thần, bao gồm tổ tiên và các
**Tôn giáo tại Hoa Kỳ** đặc trưng bởi sự đa dạng các niềm tin và thực hành tôn giáo. Theo các cuộc thăm dò ý kiến gần đây, 76% tổng số dân Hoa Kỳ nhận
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Nguyễn Công Cơ** (Chữ Hán: 阮公基; 1675 - 5/12/1733), tên huý **Tự Cẩm**, hiệu **Cảo Hiên**, tự **Nghĩa Trai**, là một nhà khoa bảng, nhà ngoại giao và danh thần dưới thời Lê Trung Hưng,
nhỏ||315x315px nhỏ|255x255px|Đền thờ Ninh Tốn **Ninh Tốn** (chữ Hán: 寧遜, 1744-1795), tự **Khiêm Như** sau đổi là **Hi Chí**, hiệu **Mẫn Hiên**, **Chuyết Sơn cư sĩ**, **Song An cư sĩ**; là nhà thơ, nhà sử
**Nguyễn Hy Quang** (1634-1692), húy **Vẹ**, tự **Hy Quang**, là một nhà giáo, đại thần nhà Lê trung hưng đã phụ đạo cho Thái phó Lương Mục Công Trịnh Vịnh, đích tôn của chúa Trịnh
phải|nhỏ|[[Lạc Sơn Đại Phật.]] **Tôn giáo tại Trung Quốc** là một cái nôi và ngôi nhà của một loạt các tôn giáo lâu đời nhất, truyền thống triết học của thế giới. Nho giáo và
Đền Thờ Hồ Sỹ Dương: Nơi Tôn Vinh Danh Nhân Lê Trung Hưng và Kiến Trúc Đền Thờ Cổ Nghệ An Trong lòng làng Hoàn Hậu (nay là thôn 5, xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh
**Nguyễn Tông Quai** (阮宗乖; trước đây có sách viết là **Nguyễn Tông Khuê** 阮宗奎, 1692 – 2 tháng 4 năm 1767),, hiệu **Thư Hiên** (舒翰); là nhà giáo, nhà thơ và là đại quan nhà
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Mạc ở Việt Nam với nhà Minh của Trung Quốc xung quanh vấn đề biên giới
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
Vườn hoa Thủy Vĩ thành phố Lào Cai, mang tên gọi của huyện (châu) Thủy Vĩ phủ Quy Hóa trấn Hưng Hóa Đại Việt- Việt Nam xưa, nằm dọc bờ trái dòng sông Nậm Thy
**Quyền động vật trong các tôn giáo Ấn Độ** là quan điểm, quan niệm, giáo lý, học thuyết của các tôn giáo lớn ở Ấn Độ bao gồm Ấn Độ giáo (Hindu giáo), Phật giáo
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật
**Đặng Tiến Đông** (1738–1794 hay 1797) làm quan thời Lê – Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của ông hiện vẫn
**Âm nhạc thời Phục Hưng** là âm nhạc được viết tại Châu Âu trong thời kỳ Phục Hưng. Các nhà nhạc sử học – với những bất đồng đáng kể – đều thống nhất cho
Phần lãnh thổ nhà Mạc và [[nhà Lê trung hưng quản lý vào năm 1590]] **Ngoại giao Việt Nam thời Mạc** phản ánh những hoạt động ngoại giao dưới triều đại nhà Mạc ở Đại
**Dương Trọng Tế** (, 1727-1787), trước có tên là** Dương Trọng Khiêm**, là một văn thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Cuộc đời Ông là người xã Lạc Đạo, huyện
[[Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1443) niên hiệu Đại Bảo thứ 3, là bia tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam.|phải]] **Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long**, hay **bia
Người Chăm theo tôn giáo chính là **Agama Cham** (tức là Chăm giáo). Tôn giáo Agama Cham (Chăm giáo) có hai môn phái gồm _Môn phái tín ngưỡng tôn giáo_ và _môn phái tín ngưỡng
**Phùng Khắc Khoan** (chữ Hán: 馮克寬;1528-1613), tự là **Hoằng Phu**, hiệu là **Nghị Trai**, **Mai Nham Tử**, tục gọi là **Trạng Bùng** (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan
**Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài** là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ
**Bang giao Đại Việt thời Lý** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Lý từ năm 1009 đến năm 1225 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm 1009, Lý
nhỏ|phải|[[Leonardo da Vinci, _Người đàn bà và con chồn_- Bảo tàng Czartoryski, Kraków, Ba Lan]] Filippo Brunelleschi, Lorenzo Ghiberti và Donatello là những người mở đường cho hướng đi mới trong nghệ thuật có tiền
Việc gọi tên **_Triết học phục hưng_** được sử dụng bởi các học giả để mô tả các tư tưởng của giai đoạn ở châu Âu khoảng giữa năm 1355 và 1650 (ngày nay dịch