✨Nguyễn Hy Quang

Nguyễn Hy Quang

Nguyễn Hy Quang (1634-1692), húy Vẹ, tự Hy Quang, là một nhà giáo, đại thần nhà Lê trung hưng đã phụ đạo cho Thái phó Lương Mục Công Trịnh Vịnh, đích tôn của chúa Trịnh Tạc, dạy con Thái phó là Trịnh Bính (Tấn Quang Vương). Trong 18 năm làm việc ở cung đình, ông đã đóng góp nhiều mưu lược lớn cho triều đình và được phong tước Quận công, sau khi mất được gia phong Trung đẳng phúc thần, Trực ôn Văn Nhã đại vương.

Nguyễn Hy Quang được thờ trong đình Trung Tự, quê hương của ông.

Quê hương và dòng họ

Nguyễn Hy Quang, tên huý là Vẹ, tự Hy Quang, sinh ngày 28 tháng 3 năm Giáp Tuất, niên hiệu Đức Long thứ 5 (25 tháng 4, năm 1634), quê ở làng Trung Tự, phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, kinh thành Thăng Long. Đây vốn là một trong 36 phường của Kinh đô Thăng Long thời Lê.

Dòng họ Nguyễn ở phường Đông Tác của gia đình ông đã đến định cư tại Thăng Long từ giữa thế kỉ XV (Lê sơ) và đến Nguyễn Hy Quang là đời thứ 7. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ XVI, viên Thái phó là Việt Quận công lấy đất của họ này để lập quân doanh ở tây bắc Trung Tự. Do bị mất đất, người dân làng Trung Tự phải sang trú nhờ làng Kim Hoa kế bên. Nguyễn Hy Quang là đời thứ 4 trú nhờ tại làng Kim Hoa.

Sự nghiệp

Con đường khoa cử

Nguyễn Hy Quang ra đời trong cảnh nghèo khó. Có lần, một thầy tướng trông thấy ông ở Hồ Dâm Đàm khen rằng: "Đây là bậc hiền năng như Trương Lương đời Hán, Ngụy Trưng đời Đường. Ngày sau tất sẽ làm việc lớn phò vua giúp nước".

Thuở nhỏ, Nguyễn Hy Quang học nhà, sau theo học thầy Nguyễn Tự Huy (người huyện Đông Sơn, Thanh Hóa). Theo thầy hai năm, Hy Quang chuyển sang học quan Trưởng sử họ Trần (người huyện Chương Đức). Sau đó, Hy Quang về nhà tự học thêm 3 năm nữa. Ông cần cù học tập đêm ngày, đặc biệt là rất chú trọng học kỹ các môn thiết thực với việc kinh luân. Hiếu học và minh mẫn hơn người, ông thông Nho thạo Nôm, giỏi nhiều môn văn, sử, thiên văn, y lý, phong thủy.

Vì thế, Đề đốc Văn Phụng hầu Phạm Công Túc, người làng Kim Hoa ở bên cạnh đã gả con gái cho.

Năm 23 tuổi (1657), ông tham dự kì thi Hương khoa Đinh Dậu và đỗ Giải nguyên nhưng sau đó thi Hội không đậu. Năm 1670, ông đỗ khoa Sĩ Vọng. Được bổ làm Giáo thụ phủ Thường Tín, chỉ sau hai năm tiếng đồn về tài năng và tính cương trực cùng lối sống thanh bạch cần cù của ông đã lan xa.

Trở thành bậc sư thần

Năm 1673, chúa Tây Vương Trịnh Tạc cho đặc triệu ông vào phủ làm tân khách giúp Thái phó Lương Mục Công Trịnh Vịnh là đích tôn của Chúa, con trưởng của Thế tử Nguyên soái Điển quốc chính Trịnh Căn. Năm Chính Hòa thứ 5 (1684) Nguyễn Hy Quang được cử giữ chức Lang trung bộ Lại kiêm Tri bộ Hộ.

Lúc này theo chế độ các chúa Trịnh, khi con hay cháu có khả năng làm được việc nước thì cho lập phủ riêng để tham dự hoặc nắm chính quyền, Chúa đang chuẩn bị cho đích tôn ra mở phủ. Nguyễn Hy Quang được giao thêm việc dạy Trịnh Bính, con của Thái phó. nhỏ|phải|Đình làng [[Trung Tự - nơi thờ thần Cao Sơn cùng Tuệ Minh Công chúa và Nguyễn Hy Quang.

Ông có đóng góp lớn đối với làng Trung Tự trong việc đòi lại đất bị quan lại lấn chiếm từ nhiều đời trước. Sau khi đỗ Giải Nguyên năm 1657, ông đã vận động đoàn kết các dòng họ trong làng, tìm cách đòi lại đất cũ. Ông tâm sự trong thơ:

Trải qua 3, 4 lần xét xử, đến năm 1674, sau khoảng 80 năm phải "ở nhờ", người dân Đông Tác - Trung Tự đã được trở về phục nghiệp trên đất cũ của mình. Năm 1674, ông bỏ tiền lương cùng dân làng Trung Tự sửa sang làng xóm, làm đẹp bộ mặt quê hương. Biết đó là nơi có nền đất yếu, Trịnh Bính cho quân dẫn theo đàn voi đến khu đất dậm nền nhà cho vững chắc để trả ơn thầy dạy.

Tháng 6 âm năm 1691, ông được thăng Công khoa Đô cấp sự trung, tước Hiển Phương bá. Nhưng cùng năm ấy, Nguyễn Hy Quang xin nghỉ hưu.

Trước tác

Chúa Trịnh qua nhiều lần đàm đạo tỏ ý hài lòng về ông và tặng thơ. Ông nhân đó soạn dâng Chúa bản "Quân thần luận" mong góp phần chấn chỉnh kỷ cương đất nước và yên dân. Bản "Quân thần luận" đã nêu rõ các đạo lý về quan hệ vua tôi, vấn đề hiểu biết và dùng người, vấn đề yên dân. Ông viết:

Đặc biệt Quân thần luận cũng nêu ra hai vấn đề nóng hổi đương thời: Việc binh và việc hình cần phải thiết thực. Chúa Trịnh Tạc tán thưởng và ban khen, thăng làm Lang trung bộ Lại kiêm tri bộ Hộ. Chúa khen: "Bản Thập Tiệm của Ngụy Trưng cũng không hơn được"..

Nguyễn Hy Quang hay làm thơ Chữ Nôm và có soạn sách. Ông để lại cuốn sách "Quốc âm sự dẫn", được coi là của gia bảo của dòng họ Nguyễn làng Trung Tự. Đặc biệt, bài thơ "Cảm tác" bằng chữ Nôm được sáng tác khi xây xong nhà ngay trước hồ Ba Mẫu ngày nay là một trong những áng thơ Nôm thể lục bát cổ xưa nhất còn lưu giữ lại được cho đến ngày nay, có niên đại rõ ràng (1674). Bài thơ đó như sau:

Qua đời

Năm 1692, ông lâm trọng bệnh. Cảm công ơn dạy dỗ của ông, Tiết chế kiêm Tổng Chính quyền Trịnh Bính đã tận tình chăm sóc thầy, thậm chí đích thân xuống lập đàn cầu trời và tự mình viết bài "mật đảo văn" cho thầy qua khỏi. Ông mất ngày 06 tháng 5 năm Nhâm Thân đời Lê Chính Hòa (1692).

Vinh danh

Sau khi qua đời, ông được chúa Trịnh truy tặng hàm Thị lang, gia phong Thượng thư, tước Hiển Quận Công.

Năm 1745 niên hiệu Cảnh Hưng, ông được phong Trung đẳng phúc thần, tặng phong mỹ tự Trực Ôn Văn Nhã Thông mẫn Tài tuấn, Đại độ Khoan hòa Đại vương.

Năm 1783, Đoan Nam vương Trịnh Khải ra lệnh sai quan đến tế theo lễ Thiếu lao cho dân hai phường Đông Tác và Kim Hoa là dân tạo lệ, 99 suất đinh, được miễn phu dịch, để trông nom đền miếu, hàng năm Xuân - Thu hai kỳ tế lễ).

Tại kì họp thường kì tháng 10 năm 2011, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định đặt tên phố Nguyễn Hy Quang cho một tuyến phố nằm trên địa bàn quê hương ông tại quận Đống Đa - Hà Nội. Ngày 9/12/2020, HĐND thành phố Hà Nội đã thông qua Nghị quyết về việc đặt tên phố Nguyễn Hy Quang cho đoạn phố thuộc quận Đống Đa: đoạn từ ngã ba giao cắt phố Nguyễn Lương Bằng tại số nhà 60-62, đến ngã ba giao phố Hoàng Cầu tại số nhà 9 (hiện là ngõ 9 Hoàng Cầu), dài 485m; rộng 9-11m.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Hy Quang** (1634-1692), húy **Vẹ**, tự **Hy Quang**, là một nhà giáo, đại thần nhà Lê trung hưng đã phụ đạo cho Thái phó Lương Mục Công Trịnh Vịnh, đích tôn của chúa Trịnh
**Mã Hy Quảng** (, ?-25 tháng 1 năm 951 và là em trai cùng mẹ với Mã Hy Phạm- con trai thứ tư của Mã Ân, hai người là con của Trần phu nhân. Do
**Dòng họ Nguyễn Đông Tác** là một trong những dòng họ định cư lâu đời nhất tại khu vực Thăng Long - Hà Nội liên tục từ thế kỉ 15 cho đến hiện nay. Địa
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Trù** (chữ Hán:阮儔, 1668-1738), tự **Trung Lượng**, hiệu **Loại Phủ**, **Loại Am**, người phường Đông Tác (Trung Tự), huyện Thọ Xương thuộc kinh thành Thăng Long, là một đại thần dưới triều Lê Trung
**Nguyễn Văn Lý** (chữ Hán: 阮文理; 1795-1868), húy **Dưỡng**, thường được gọi là **"Cụ Nghè Đông Tác"**, tự **Tuần Phủ**, hiệu **Chí Đình**, **Chí Am**, **Chí Hiên**, biệt hiệu **Đông Khê**, là một danh sĩ,
**Nguyễn Hữu Cầu** (1879-1946), hiệu **Giản Thạch**, thường được gọi "Ông Cử Đông Tác" là một nhà nho tiến bộ, đồng sáng lập viên trường Đông Kinh Nghĩa Thục (viết tắt ĐKNT) năm 1907 tại
thumb|right|Quang học nghiên cứu hiện tượng [[tán sắc của ánh sáng.]] **Quang học** là một ngành của vật lý học nghiên cứu các tính chất và hoạt động của ánh sáng, bao gồm tương tác
**Quang học** là một lĩnh vực vật lý học, chuyên nghiên cứu về ánh sáng, cụ thể la nguồn gốc và cách truyền ánh sáng, cách thức nó biến đổi cùng vời những hiện tượng
**Hy Lạp**, quốc hiệu là **Cộng hòa Hy Lạp**, là một quốc gia nằm ở phía nam bán đảo Balkan, giáp với Albania, Bắc Macedonia và Bulgaria về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ và biển
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nguyễn Tư Giản** (阮思僩, 1823–1890), trước có tên: **Văn Phú**, **Địch Giản**, sau mới đổi lại là **Tư Giản**, tự: **Tuân Thúc**(洵叔), **Hy Bật**, hiệu: **Vân Lộc**(雲麓) và **Thạch Nông**(石農). Ông là một danh sĩ
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Thân** (chữ Hán: 阮紳, 1854–1914), biểu tự **Thạch Trì** (石池), là võ quan nhà Nguyễn dưới triều vua Đồng Khánh, từng phối hợp với thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong
**Lịch sử Hy Lạp** tập trung vào phần lịch sử trên lãnh thổ đất nước Hy Lạp hiện đại, cũng như phần lịch sử của người Hy Lạp và các vùng đất mà họ đã
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
Một đoạn Trường lũy Quảng Ngãi **Trường Lũy Quảng Ngãi**, **Trường Lũy Quảng Ngãi-Bình Định** hay **Tĩnh Man trường lũy** (gọi theo sử Nhà Nguyễn), gọi tắt là **Trường Lũy**, là một công trình kiến
**Nguyễn Quang Hải** (sinh ngày 1 tháng 11 năm 1985 tại Nha Trang, Khánh Hòa) là một cựu cầu thủ bóng đá từng chơi cho Khatoco Khánh Hòa, Navibank Sài Gòn, Vicem Hải Phòng, Than
nhỏ|244x244px|Chân dung Phó bảng Nguyễn Văn Mại **Nguyễn Văn Mại** (chữ Hán: 阮文邁; 1858-1945), tự **Tiểu Cao** (小皋), hiệu **Lô Giang** (蘆江), là một danh sĩ và nhà khoa bảng Việt Nam. Ông từng là
**Nguyễn Nghiễm** (阮儼, 14 tháng 4 năm 1708 – 7 tháng 1 năm 1776) là quan chức, sử gia, nhà thơ thời nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông có công ổn
**Đình Quang** (16 tháng 7 năm 1928 – 12 tháng 7 năm 2015) là đạo diễn sân khấu, nhà viết kịch, nhà nghiên cứu lý luận sân khấu, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông
**Nguyễn Xuân Vinh** (3 tháng 1 năm 1930 – 23 tháng 7 năm 2022) nguyên là sĩ quan Không quân cao cấp của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất
thumb|Dây cầu nguyện đen trong môn phái [[Chính thống giáo Đông phương]] thumb|left|Dây cầu nguyện đa dạng màu sắc **Dây cầu nguyện** ( - _komboskini_; - _chotki_ (most common term) or - _vervitsa_ (literal translation);
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp thủ đô Hà Nội, phía đông giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh
**Đồng Hỷ** là một huyện nằm ở phía đông bắc tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. Trụ sở Bộ Tư lệnh Quân khu 1 đóng trên địa bàn huyện. ## Địa lý Huyện Đồng Hỷ nằm
**Lý Quang Bật** (chữ Hán: 李光弼; 708-15/8/764) là danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công dẹp loạn An Sử, trung hưng nhà Đường. ## Thân thế Lý Quang Bật là
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Mã Hy Phạm** () (899, và chưa hoàn toàn kiểm soát được Vũ An- sau trở thành trấn trung tâm của nước Sở, song đang dần củng cố quyền lực. Mã Hy Phạm và thứ
Thượng thư **Trương Công Hy** (1727-1800) tước hiệu Đặc tấn Kim tử Vinh lộc thượng đại phu, Binh bộ thượng thư, Hình bộ thượng thư Thùy ân hầu hai triều chúa Nguyễn và Tây Sơn.
**Trận Thành cổ Quảng Trị** () là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam với Quân đội
**Nguyễn Quang Toản ** (chữ Hán: 阮光纘, 1783 – 1802), là vị hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của vua Quang
**Bạc Hy Lai** (sinh ngày 3 tháng 7 năm 1949) là một cựu chính trị gia Trung Quốc. Ông nổi lên trên chính trường từ nhiệm kỳ làm thị trưởng thành phố Đại Liên và
**Đồng Hỷ** là một xã thuộc tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. ## Địa lý Xã Đồng Hỷ có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Văn Hán *Phía tây giáp xã Vô Tranh và
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Vũ Quang** là một huyện miền núi biên giới thuộc tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Vũ Quang nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Hà Tĩnh, có vị trí địa lý:
**Nguyễn Văn Trỗi** (1 tháng 2 năm 1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một chiến sĩ biệt động thành phố Sài Gòn, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đã
**Lâm Quang Ky** (1839 - 1868), tên cũ là **Lâm Văn Ky**, tự **Hưng Thái**; là Phó tướng của Nguyễn Trung Trực trong phong trào kháng Pháp vào nửa cuối thế kỷ 19 ở Nam
**Sử Hy Nhan** (chữ Hán: 史希顏; ? - 1421) vốn tên là Trần Hy Nhan, nhưng rất giỏi Sử nên được vua Trần ban cho họ Sử. Ông là nhà văn, nhà sử học nổi
nhỏ|phải|Tượng Phật với vầng hào quang ngũ sắc còn gọi là Phật Quang **Vầng hào quang** (từ tiếng Hy Lạp là ἅλως, _halōs_; còn được gọi là _Nimbus_, _Aureole_, vầng vinh quang) là hình dạng
Lá cây: nơi thực hiện quá trình quang hợp ở thực vật. **Quang tổng hợp** hay gọi tắt là **quang hợp** là quá trình thu nhận và chuyển hóa năng lượng ánh sáng Mặt trời
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Quảng trường Concorde** (, phiên âm tiếng Việt là **Quảng trường Công-coóc**) - _tiếng Việt:_ **_Quảng trường Hòa Hợp_** là một trong những quảng trường nổi tiếng của Pháp tại Paris, nằm ngay bên bờ
**Nguyễn Công Cơ** (Chữ Hán: 阮公基; 1675 - 5/12/1733), tên huý **Tự Cẩm**, hiệu **Cảo Hiên**, tự **Nghĩa Trai**, là một nhà khoa bảng, nhà ngoại giao và danh thần dưới thời Lê Trung Hưng,
**Phan Khắc Hy** (1 tháng 1 năm 1927-20 tháng 9 năm 2024) là một cựu sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh