Nguyễn Hữu Cầu (1879-1946), hiệu Giản Thạch, thường được gọi "Ông Cử Đông Tác" là một nhà nho tiến bộ, đồng sáng lập viên trường Đông Kinh Nghĩa Thục (viết tắt ĐKNT) năm 1907 tại Hà Nội.
Quê hương và dòng họ
Ông là con trai út của cụ Ứng Lân Nguyễn Thụy và là cháu nội của tiến sĩ (năm 1832) Nguyễn Văn Lý, tức cụ Nghè Lý, hoặc cụ Nghè Đông Tác, là hậu duệ đời thứ 13 của dòng họ Nguyễn Đông Tác.
Dòng họ Nguyễn Đông Tác là một trong những dòng họ khoa bảng và lâu đời nhất tại Thăng Long với những tên tuổi như Nguyễn Hy Quang, Nguyễn Trù, Nguyễn Văn Lý...
Ông sinh tại xóm Cam Đường, làng Trung Tự, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông cũ; nay thuộc địa bàn tổ dân phố 81A phường Kim Liên (gần phố Đông Tác), quận Đống Đa, Hà Nội. Tên khai sinh là Khai ("mở"), tên đi thi là Hữu Cầu, hiệu Giản Thạch (hòn đá dưới suối), về già lấy hiệu Đông Trì (cái ao phía đông); bà con xóm làng quen gọi là cụ Cử Cầu hoặc cụ Cử Đông Tác (Đông Tác là tên một phường thuộc thành Thăng Long, trong đó có làng Trung Tự).
Ông đỗ cử nhân Hán học khoa thi năm Bính Ngọ (1906).
Sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống trung nghĩa, yêu nước, lại được đọc các "Tân thư" chữ Hán từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam, Nguyễn Hữu Cầu tiếp thu ảnh hưởng tư tưởng Duy Tân của Nhật Bản, Trung Quốc, đồng thời chịu tác động của các chí sĩ cách mạng tiên tiến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Ông cùng với các bạn đồng chí như Lê Đại, Lương Văn Can, Dương Bá Trạc, Nguyễn Kỳ, Vũ Hoành, Hoàng Tăng Bí v.v.. sáng lập trường Đông Kinh nghĩa thục (ĐKNT) và trường này bắt đầu hoạt động từ tháng 3 năm 1907.
Nguyễn Hữu Cầu cùng Lê Đại, Lương Văn Can là 3 biên tập viên chính làm việc trong Ban Tu Thư của ĐKNT, chuyên việc biên soạn hoặc biên dịch các tài liệu tuyên truyền, giáo dục và giảng dạy theo lối mới của ĐKNT. Các tài liệu trên hầu hết không ký tên soạn giả hoặc dịch giả để đề phòng thực dân Pháp, khi chúng đóng cửa trường và đàn áp phong trào này thì đều bị tịch thu, tiêu hủy và cấm tàng trữ, lưu hành, cho nên chỉ còn sót lại vài cuốn (năm 1995, Cục Lưu Trữ Nhà nước Việt Nam cùng Viện Viễn Đông Bác Cổ và nhà xuất bản Văn hoá đã in sách "Văn thơ ĐKNT", trong đó có 3 tài liệu quan trọng là Tân đính Luân lý giáo khoa thư, Quốc dân Độc bản và Quốc dân Tập độc, viết bằng chữ Hán, được dịch ra tiếng Việt và Pháp)
Bị thực dân Pháp tù đày
Từ năm 1908 trở đi, thực dân Pháp bắt đầu bắt giam các yếu nhân ĐKNT với các tội danh không liên quan tới hoạt động của ĐKNT: Nguyễn Quyền, Lê Đại bị bắt vì liên quan vụ "Đầu độc Hà thành" (1908); Nguyễn Hữu Cầu bị bắt năm 1915 vì việc tổ chức đưa người ra nước ngoài học làm cách mạng bị bại lộ; ông bị kết án 5 năm tù và 5 năm quản thúc, với tội danh "Có âm mưu lật đổ chính phủ Bảo hộ".
Đầu tiên ông bị giam tại nhà tù ở Bắc Giang. Năm 1917, khi nổ ra cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên của Đội Cấn, vì sợ các chính trị phạm ở Bắc Giang nổi lên hưởng ứng khởi nghĩa nên Pháp đã đưa Nguyễn Hữu Cầu đi đày tại nhà tù Côn Đảo. Ông bị giam cho tới khi mãn hạn tù và trở về quê năm 1920, nhưng bị quản thúc và cấm lên Hà Nội.
Sự nghiệp thơ văn và y học
Tết đầu tiên sau khi ra tù, ông khai bút viết "Vãng sự hỗn như mộng. Tình si vị tận hôi", tức "Chuyện cũ dường như mộng. Tình si chửa hẳn tan", ý nói chưa quên việc lớn là cứu nước. Trong bài thơ vịnh mùa hạ của ông có câu: "Tiểu toạ nam phong khán quốc sử. Nhất thanh đỗ vũ đáo trì đường" (Ngồi hóng gió nam xem sử Việt. Bỗng dưng tiếng quốc đến ao nhà".
Tuyết Trai Dương Bá Trạc đến rủ viết cho tạp chí Nam Phong nhưng Nguyễn Hữu Cầu từ chối không hợp tác với Pháp mà tự dịch bộ "Hoàng Hán Y Học", thuê nhà ở Ngã tư Sở (ngày đó thuộc Hà Đông), mở hiệu thuốc Bắc có tên "Lợi Nhân Đường", vừa xem mạch, kê đơn, bốc thuốc vừa dạy Đông y cho các học trò.
Thỉnh thoảng ông còn viết văn thơ bằng chữ quốc ngữ và chữ Nôm, nhưng chủ yếu vẫn bằng chữ Hán, trong đó người đương thời thường nhắc đến cuốn "Y tục luận" (Bàn về cách chữa bệnh cho đời). Ông sở trường về câu đối, nổi tiếng nhất là đôi câu đối chữ Nôm táo bạo đã được Ban Tổ chức Lễ Truy điệu Phan Chu Trinh (1926) tại Hà Nội chọn và treo trước lễ đài: "Ấy ai gánh nước Tây Hồ, tưới vun cõi Lạc trời Hồng, nảy mầm ái quốc. Ngán lũ gọi hồn Nam Việt, nhìn nhận sông Lô núi Tản, vắng bạn đồng thanh". Trên bức tường hoa trước sân nhà, Nguyễn Hữu Cầu cho đắp nổi đôi câu đối chữ Nôm: "Yêu hoa phải mượn tường ngăn gió. Thích nước nên xây bể cạnh nhà", với ẩn ý "Yêu nước".
Năm 1938 ông đoạt giải ba cuộc thi viết về phụ nữ do Hội Khai trí Tiến Đức tổ chức, với tập thơ lục bát "Tân Nữ Huấn ca" (Bài ca dạy người phụ nữ mới) gồm những tư tưởng rất tiến bộ và viết bằng chữ quốc ngữ nên được nhà xuất bản Nhật Nam in ngay.
Lâm bệnh và qua đời
Từ 1943, do bệnh cũ tái phát, ông bị liệt chân, phải về quê dưỡng bệnh. Khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Nguyễn Hữu Cầu bảo con cháu sửa mâm cỗ cúng để ông báo cáo tổ tiên việc nước nhà lại được độc lập.
Ông mất ngày ngày 13 tháng 7 năm 1946, để lại lời trăng trối với các con: "Anh nào làm được việc thì liệu ra mà gánh vác. Việc tang phải làm thật đơn giản để đem số tiền định dùng vào việc ma chay ấy giúp Quỹ Quốc phòng".
Đánh giá
Cụ Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có gửi câu đối phúng như sau: "Quân diệc quy tự Côn Đảo thiên nhiên học hiệu đường, bễ nhục sinh bi, lão bệnh bất vong thân hậu quốc. Ngã bất liệu vi Trịnh Ngũ yết hậu thi tể tướng, tiêu hà kỷ lạn, dịch kỳ phiên tác cục trung nhân", (dịch ý: "Ông cũng từ trường học thiên nhiên Côn Đảo về, đau lòng vì không hoạt động gì, già ốm không quên việc nước cả sau khi đã thác. Tôi chẳng ngờ làm Tể tướng như ông Trịnh Ngũ viết thơ yết hậu, cán rìu tiều phu sắp nát, đánh cờ lại làm người trong cuộc".
Ông Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực Quốc hội khóa I có viết bài "Một gương mặt đại sĩ phu" (Une grande figure de lettré) đăng trên báo tiếng Pháp "Le Peuple" số ra ngày ngày 4 tháng 8 năm 1946 (xuất bản tại Hà Nội, do ông Lưu Văn Lợi làm chủ nhiệm), ca ngợi Nguyễn Hữu Cầu là một nhà yêu nước vĩ đại và một nhà thơ ưu tú của dân tộc.
Sinh thời, Nguyễn Hữu Cầu yêu chuộng sự bình đẳng không phân biệt nam nữ hay tuổi tác, bạn bè cần đến đều giúp ngay không từ nan. Ông học rộng, ưa đổi mới, văn thơ đầy lòng yêu nước, khẳng khái trầm hùng, chỉ chú trọng ở ý, không thích phù phiếm nhưng đồng thời rất khiêm tốn, chẳng mấy khi chê bai. Hầu hết tác phẩm của ông bị thất lạc sau các sự kiện ĐKNT và Toàn quốc kháng chiến, nhưng nhìn chung đã được các học giả nổi tiếng thời trước như Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng (xem "Thi tù tùng thoại"...), Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố, Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm, v.v. nhắc tới và đánh giá cao. Tiểu sử Nguyễn Hữu Cầu đã in trong các sách "Danh nhân Hà Nội" (tập II, Hội Văn nghệ HN xuất bản) và "Tác gia Thăng Long - Hà Nội" (Tô Hoài-Nguyễn Vinh Phúc... biên soạn).
Tác phẩm
- Y tục luận (Hán ngữ)
- Giản Thạch văn tập (Hán ngữ)
- Hoàng Hán Y Học (biên dịch)
- Tân nữ huấn ca (quốc ngữ)
- Đông Trì thi tập (Hán ngữ)
Hậu duệ
Nguyễn Hữu Cầu có tám con gồm 4 trai và 4 gái.
Con trai trưởng là Nguyễn Hữu Tảo (1900-1966), một nhà giáo dục nổi tiếng trong ngành sư phạm Việt Nam. Cụ Nguyễn Hữu Tảo là có nhiều người học trò xuất sắc như Trường Chinh - Cố Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Con trai thứ hai Nguyễn Hữu Kha, tức Thiều Chửu (1902-1954), là một học giả và cư sĩ đạo hạnh, người phụ trách xuất bản nhà in Đuốc Tuệ (1936-1945) và cây bút chủ lực của báo Đuốc Tuệ, đã để lại khoảng 80 tác phẩm văn hóa và Phật giáo.
Con trai thứ ba là Nguyễn Xuân Nghiêm, liệt sĩ kháng Pháp, hy sinh năm 1950.
Con gái Nguyễn Thị Quy (1915-1992) là người có sáng kiến làm Bảng tra chữ theo âm Hán-Việt, dùng tra chữ Hán rất tiện và nhanh hơn tra theo bộ thủ khi lần đầu xuất bản Tự điển Hán Việt của Thiều Chửu tại Sài Gòn năm 1966.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Hữu Cầu** (1879-1946), hiệu **Giản Thạch**, thường được gọi "Ông Cử Đông Tác" là một nhà nho tiến bộ, đồng sáng lập viên trường Đông Kinh Nghĩa Thục (viết tắt ĐKNT) năm 1907 tại
**Nguyễn Hữu Cầu** (chữ Hán: 阮有求; 1712 – tháng 3 1751) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ 18. ## Xuất thân Ông là người xã
thumb|Ảnh chụp tại [[công viên Văn Thánh tháng 04 năm 2014]] nhỏ|Ông Nguyễn Hữu Cầu **Nguyễn Hữu Cầu** (năm 1947 - ngày 19 tháng 12 năm 2022), cựu sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Nguyễn Hữu Huân** (chữ Hán 阮有勳, 1830-1875) là một sĩ phu yêu nước và là một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ (Việt Nam) vào nửa cuối thế kỷ 19.
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Hữu Trí** (?-1916) là một cộng sự đắc lực của thủ lĩnh Phan Xích Long. Năm 1916, ông bị quân Pháp bắn chết tại trận khi đang cầm quân tấn công vào Sài Gòn
**Nguyễn Hữu Tảo** (1900-1966), là một nhà giáo Việt Nam trong thế kỉ 20, người đặt nền móng cho bộ môn Tâm lý - Giáo dục học Việt Nam. Ông cũng là thầy dạy của
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**_Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên_** () là một phim truyền hình do Michael Landon tổng đạo diễn, được xuất phẩm trong giai đoạn 1974—1983 trên sóng NBC. ## Lịch sử Thập niên 1970, hoàn
**Nguyễn Hữu Liêu** (阮有僚, 1532-1597) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là người làng Tây Đam, nay là xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông
**Nguyễn Hữu Hào** (chữ Hán: 阮有豪, 1642 - 1713) là một tỳ tướng của chúa Nguyễn. Ngoài vai trò cầm quân, ông còn là thi sĩ với tác phẩm _Song Tinh bất dạ_ và một
**Nguyễn Hữu Bài** (chữ Hán: 阮有排; 28 tháng 9 năm 1863 - 28 tháng 7 năm 1935), Phước Môn Quận công, là một đại thần nhà Nguyễn và là một nhà cách mạng ôn hòa
**Nguyễn Hữu Tuệ** (1871-1938), tên thường gọi là **Lý Tuệ**, là người tham gia tích cực trong các hoạt động xuất dương của phong trào Đông Du và hội Duy Tân. Những đóng góp của
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Nguyễn Hữu Đang** (1913–2007) là một nhà báo, từng bị thực dân Pháp bắt tù 1930, cũng từng là thứ trưởng Bộ Thanh Niên, tham gia Mặt Trận Dân chủ Đông Dương (1937–1939), một trong
**Nguyễn Hữu Hạnh** (26 tháng 8 năm 1924 – 29 tháng 9 năm 2019) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng, tình báo viên
**Nguyễn Hữu Hanh** (sinh 1923) là một chuyên gia kinh tế, tài chánh đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong cả thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa cũng như trên
**Nguyễn Hữu Trí** (1917-1979) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông là tác giả của bài hát nổi tiếng "Tiểu đoàn ba lẻ bảy" viết về Tiểu đoàn 307 thời chống Pháp. ## Cuộc đời
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**_Em còn nhớ hay em đã quên_** là một bộ phim độc lập của Việt Nam sản xuất năm 1992, do Nghệ sĩ Nhân dân Nguyễn Hữu Phần biên kịch và đồng đạo diễn với
**Nguyễn Huy Oánh** (chữ Hán: 阮輝, 1713 - 1789), tự: **_Kinh Hoa_**, hiệu:**_Lưu Trai_**; là đại thần và là nhà văn thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Huy
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Tôn Thất Hiệp** (chữ Hán: 尊室協; 1653-1675) là một hoàng tử, con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Ông từng là Nguyên soái thống lĩnh quân Đàng Trong đánh nhau với quân Trịnh vào năm
**Nguyễn Quang Bích** (chữ Hán: 阮光碧, 1832 – 1890), còn có tên là **Ngô Quang Bích**, tự **Hàm Huy**, hiệu **Ngư Phong**; là quan nhà Nguyễn, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa
**Lăng Nguyễn Hữu Hào** là nơi chôn cất và thờ ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình - song thân của Nam Phương Hoàng Hậu - tọa lạc tại ngọn đồi ở phía
**Nguyễn Xuân Ôn** (1825 – 1889), hiệu **Ngọc Đường**, **Hiến Đình**, **Lương Giang** nhân dân thường gọi ông là **Nghè Ôn**; là quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở
**Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh**, còn được gọi là **Đình Bình Kính** thuộc địa phận phường Hiệp Hòa (Cù Lao Phố), Biên Hòa, Đồng Nai, Việt Nam. Là di tích lịch sử đã được Nhà
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
**Dòng họ Nguyễn Đông Tác** là một trong những dòng họ định cư lâu đời nhất tại khu vực Thăng Long - Hà Nội liên tục từ thế kỉ 15 cho đến hiện nay. Địa
Tọa lạc tại TP Cần Thơ, Công ty Cổ phần Thiên Quân được thành lập theo giấy phép đầu tư số 1801242122 do Sở kế hoạch và đầu tư TP Cần Thơ cấp lần đầu
**Nguyễn Danh Phương** (阮名芳, 1690-1751), hay còn gọi **Quận Hẻo**, là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ 18. ## Xuất thân Nguyễn Danh Phương là người
**Nguyễn Phi Khanh** (chữ Hán: 阮飛卿; tên thật là **Nguyễn Ứng Long** (阮應龍); năm sinh không chắc chắn. Một số nguồn cho là khoảng năm 1355. ## Thân thế Sử sách có chép rằng quan
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Câu lạc bộ bóng đá Công an Thành phố Hồ Chí Minh** là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đội bóng này là hậu thân của
thế=Groups of two to twelve dots, showing that the composite numbers of dots (4, 6, 8, 9, 10, and 12) can be arranged into rectangles but the prime numbers cannot|nhỏ| Hợp số có thể được
**Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật** là 1 trong 2 lĩnh vực của Giải thưởng Nhà nước, do Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định, tặng thưởng cho những tác giả
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
Tranh vẽ của Nhật Bản mô tả [[Khổng Tử, người sáng lập ra Nho giáo. Dòng chữ trên cùng ghi "_Tiên sư Khổng Tử hành giáo tượng_"]] **Nho giáo** (chữ Hán: ) hay **Nho gia**
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
nhỏ|upright=1.3|Hai [[Mái vòm của Nhà thờ Mộ Thánh, Mái vòm bên trên Rotunda ở trên nóc có lá cờ Thập Tự Thánh Georges và mái vòm nhỏ hơn ở phía trên Catholicon, Tháp giáo đường
**Nhà Kim** (, tiếng Nữ Chân: Tập tin:Amba-an Ancu-un.svg 1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu,
**Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Portugal_, ), quốc hiệu là **Cộng hòa Bồ Đào Nha** (, ) là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam của khu vực châu Âu, trên bán