✨Trận Thành cổ Quảng Trị

Trận Thành cổ Quảng Trị

Trận Thành cổ Quảng Trị () là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam với Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại khu vực thành cổ Quảng Trị vào năm 1972. Đây là một trong những trận chiến ác liệt nhất của Chiến dịch Xuân Hè 1972 trong Chiến tranh Việt Nam.

Trận chiến kéo dài trong suốt 81 ngày đêm, sau khi liên tiếp đưa vào các đơn vị bộ binh cũng như sử dụng hỏa lực bom đạn cực kỳ lớn, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã thành công trong việc tái chiếm lại Thành cổ nhưng vẫn không thể giành lại nửa Bắc của tỉnh Quảng Trị. Về mặt chiến lược, sự kháng cự mạnh mẽ của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam đã khiến kế hoạch tái chiếm thành cổ của đối phương bị kéo dài tới 3 tháng so với kế hoạch ban đầu là 2 tuần.

Bối cảnh

Năm 1972, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tổ chức tổng tấn công trên 3 chiến trường chính: Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ (Bình Long), trong đó hướng chủ yếu là tỉnh Quảng Trị. Lúc này Hội nghị Paris đang ở thế có lợi cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đẩy lùi được Chiến dịch Lam Sơn 719 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa cùng các chiến thắng khác của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Đắk Tô, Bắc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Sức ép về việc phải giành được một chiến thắng có tính biểu tượng lên Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Hoa Kỳ nhằm lấy lại thế thượng phong trên bàn đàm phán ngày một gia tăng.

Thành cổ Quảng Trị nằm gần Quốc lộ 1, đây là tiền đồn phòng thủ của Vùng I chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa. Giành được Thành cổ sẽ có giá trị lớn về tính biểu tượng. Tin tức về việc Quảng Trị rơi vào tay Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tác động mạnh mẽ tới chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Ngày 25 tháng 5 năm 1972, Tổng thống Thiệu đưa ra cam kết bằng mọi giá tái chiếm Quảng Trị cũng như trách móc phía Hoa Kỳ đang bỏ rơi đồng minh. Lúc này, trong Quốc hội Hoa Kỳ, tiếng nói đòi rút quân Mỹ khỏi Việt Nam ngày càng gia tăng.. *Hơn 950.000 viên đạn pháo 105 mm, 55.000 viên đạn pháo 155 mm, 8.164 viên đạn pháo 175 mm, hơn 615.000 viên đạn hải pháo oanh kích (trung bình mỗi chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải hứng chịu khoảng 110 viên đạn pháo). Tính riêng từ ngày 9 tháng 9 đến ngày 16 tháng 9 năm 1972, chỉ trong 1 tuần quân Mỹ đã sử dụng: 95.570 viên đạn pháo 105 ly; 11.002 viên đạn pháo 155 ly; 2.630 viên đạn pháo 175 ly; 14.223 viên đạn pháo từ hạm đội 7 và 163 lần/chiếc máy bay phản lực Mỹ.

Riêng ở khu vực thị xã Quảng Trị, tổng số bom đạn mà Mỹ sử dụng trong 81 ngày đêm bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Nhật Bản. Có ngày số bom Mỹ ném ở Quảng Trị vượt xa số bom Mỹ ném trên toàn miền Nam trong các năm 1968–1969. Dữ dội nhất là ngày 25/7, thị xã phải chịu 35.000 quả đạn pháo của Mỹ, chưa kể bom từ máy bay. Thành cổ Quảng Trị chỉ rộng 3 km vuông và vùng ven có ngày phải chịu hơn 20.000 quả đạn đại bác cỡ lớn. Với việc huy động một số lượng bom đạn khổng lồ, quân Mỹ hoàn toàn có ưu thế áp đảo về hỏa lực.

Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam: Lực lượng phòng thủ trên toàn thị xã Quảng Trị bao gồm Trung đoàn 48 (sư đoàn 320B), Trung đoàn Triệu Hải, tức E27 sư đoàn 320B (sau này là F390) Trung đoàn 95 (sư đoàn 325) Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, 2 tiểu đoàn địa phương đóng ở Quảng Trị. Chi viện trực tiếp cho lực lượng này là các đơn vị còn lại của Sư đoàn 325 và Sư đoàn 312. Ngoài ra, sườn phía tây thị xã do trung đoàn 88 (thiếu) của sư đoàn 308 chốt giữ.

Để chống lại cuộc bắn phá dữ dội chưa từng có, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ có trong tay một vài xe tăng và một số đơn vị pháo phòng không, lực lượng tác chiến chủ yếu là bộ binh. Với mật độ hỏa lực hạng nặng dày đặc của đối phương, ước tính có tới hơn 80% thương vong của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong trận đánh là bởi các đợt oanh tạc và pháo kích, chỉ có một phần nhỏ là trong các cuộc đọ súng bộ binh.

Diễn biến

Phòng ngự của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam

Bắt đầu từ ngày 26 tháng 6 năm 1972, Không quân Hoa Kỳ bắt đầu ném bom rải thảm Quảng Trị để chuẩn bị các hoạt động của bộ binh. Mục tiêu của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa là phải giành chiến thắng trước ngày 13 tháng 7, lúc Hội nghị Paris nhóm họp trở lại. Ngày 28 tháng 6 năm 1972, tướng Ngô Quang Trưởng phát lệnh khởi binh chiến dịch Lam Sơn 72 trên hai hướng. Chiều 28 tháng 6, sau khi vượt sông Mỹ Chánh, QLVNCH đã cô lập được một bộ phận của các sư đoàn 304 và 308 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở nam Sông Mỹ Chánh. Hướng Đông, ngày 29 tháng 6, các lữ TQLC 147 và 258 tấn công các khu vực Diên Khanh, Xuân Viện, Kim Giao (thuộc huyện Hải Lăng), phối hợp với Lữ TQLC 369 từ Mỹ Thủy và Cổ Lũy đánh ra. Từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 7, sau khi nhổ từng chốt chặn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên khoảng cách từng hecta một, chịu thương vong hơn 300 quân, Lữ dù 1 và Liên đoàn 1 Biệt động quân đã có mặt ở ngoại vi thị xã Quảng Trị nhưng không lọt vào được. Ngay lập tức, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam điều động Sư đoàn 325 và Sư đoàn 312 vào tham chiến cùng với các lực lượng tại chỗ để giữ Quảng Trị. Ngày 29 tháng 6, trong cuộc họp nội các, Tổng thống Thiệu thừa nhận Chiến dịch Lam Sơn 72 mới chỉ làm chậm bước tiến của Quân Giải phóng. Việt Nam Cộng hòa lúc này tiến hành trưng binh và cho phép quân nhân lựa chọn binh chủng ưa thích nhưng do tình thế chiến trường nên nhiều người đã không quyền được lựa chọn.

Đến lúc này, thời hạn chiếm lại Thành Cổ mà Mỹ hoạch định đã sắp hết, nhưng đà tiến vẫn bị chặn đứng. Quân Mỹ liền tăng cường hỏa lực, nâng tổng số đạn pháo đánh phá thị xã từ 8.000 viên/ngày lên 15.000 viên/ngày, cao điểm có ngày lên tới 30.000 viên/ngày, sử dụng 40 đến 60 lần/chiếc máy bay phản lực một ngày, dùng bom khoan đánh phá hầm hào tường thành, tăng số phi vụ máy bay B-52 ném bom dọc bờ tả ngạn sông Thạch Hãn và hậu phương để ngăn chặn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tăng cường quân số, vận chuyển tiếp tế.

Ngày 13 tháng 7, một máy bay trực thăng chở đại tá Nguyễn Trọng Bảo, tham mưu phó sư dù và 8 sĩ quan tham mưu đi đốc thúc việc cắm cờ hòng gây thanh thế tại bàn đàm phán ở Paris. Chiếc trực thăng bị một trận địa súng máy 12,7 mm của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam do Bùi Trung Thành chỉ huy tiêu diệt ngay tại thị xã Quảng Trị cùng tất cả số sĩ quan trong trực thăng. Rạng sáng 14 tháng 7, một đội biệt kích đột nhập vào phía đông Thành cổ bằng cách luồn lách qua một nghĩa địa của cộng đồng Thiên chúa giáo phía Nhà thờ Tri Bưu rồi men theo các đường cống thoát nước để leo lên Thành cổ, định cắm cờ và chụp ảnh để có lý do tuyên truyền, nhưng chưa kịp cắm thì bị đại đội 14 trung đoàn 48 phát hiện và tiêu diệt một số, số còn lại phải rút chạy bỏ lại lá cờ. Mũi đột kích sâu của sư dù và thiết đoàn 20 cũng bị đẩy lùi.

Ý định của Quân lực Việt Nam Cộng hoà chiếm thị xã trước ngày 13 tháng 7 để mặc cả tại Hội nghị Paris đã không thực hiện được. Thương vong mỗi bên lên đến hàng nghìn người. Sau mười ngày liên tục tiến công Thị xã, sư đoàn dù chịu tổn thất khá lớn. Quân lực Việt Nam Cộng hoà bị thương vong 1.071 binh lính, tiểu đoàn dù 1 và 5 bị tổn thất nặng, bị cháy 3 xe tăng, rơi 2 máy bay (1 phản lực, 1 trực thăng) và bị phá hủy nhiều vũ khí phương tiện kỹ thuật khác.

Ngày 14 tháng 7, Sư dù và Sư TQLC Quân lực Việt Nam Cộng hoà tổ chức tấn công đợt 2 nhằm chiếm thị xã trước ngày 18 tháng 7 và cùng lắm phải trước ngày 27 tháng 7. Lữ đoàn dù 1 đánh Quy Thiện, Trì Bưu, Lữ dù 2 đánh Tích Tường, Như Lệ. Các lữ đoàn TQLC 147 và 369 tiến sát sông Vĩnh Định, chiếm An Tiêm, Nại Cửu và Bích La Đông. Trong trận này, Lữ đoàn 369 TQLC tổn thất 2 đại đội và 11 trực thăng ở Nại Cửu. Đến ngày 16 tháng 7, Lữ dù 1 đã chiếm được các làng Trì Bưu, Cổ Thành; Trung đoàn 18 (Sư 325) bị tổn thất nặng phải rút ra Ái Tử - Đông Hà, Bộ tư lệnh B5 điều Trung đoàn 95 (Sư đoàn 325) vào thay. Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã hình thành thế bao vây ba mặt quanh thị xã Quảng Trị nhưng chưa vào được nội đô. Để ngăn đường tiếp vận của Quân Giải phóng, Hoa Kỳ liên tục ném bom, nã pháo hạm, pháo hạng nặng Quốc lộ 1 và khu vực quanh Thành cổ cũng như quanh khu vực Thị xã Quảng Trị.

Ở Long Quang, tuyến phòng thủ đầu tiên của Quân Giải phóng, ngày 22 tháng 7, Quân lực Việt Nam Cộng hoà ồ ạt sử dụng xe tăng và pháo binh tấn công chính diện kết hợp máy bay ném bom để chọc thủng tuyến phòng thủ này. Đồng thời Quân lực Việt Nam Cộng hoà tổ chức mũi thọc sườn tuyến phòng thủ, tập kích bí mật trong đêm, đào hào để siết vong vây đối với QGP và sử dụng bộ binh để kéo QGP khỏi nơi ẩn nấp sau đó sử dụng bom và pháo binh để tiêu diệt. Tuy nhiên, ý đồ đánh nhanh thắng nhanh của Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã bị bẻ gãy. Lúc này, phía Việt Nam Cộng hoà và Hoa Kỳ xuất hiện mâu thuẫn khi phái đoàn Hoa Kỳ tại Hội nghị Paris đã bí mật gặp phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà phía Việt Nam Cộng hoà không được biết.

Hầm dinh Tỉnh trưởng cũng là nơi Quân Giải phóng tập trung thương binh trước khi vận chuyển khỏi chiến trường. Tại bến Vượt, nơi chuyển quân giữa hai bờ Thạch Hãn cũng là nơi hứng chịu nhiều trận pháo kích nhất. Nhiều thương binh của Quân Giải phóng đã bị thiệt mạng bởi bom và pháo kích khi đang được vận chuyển khỏi chiến trường. Khúc sông ở bến Vượt chính là nguồn tiếp vận duy nhất của Quân Giải phóng trong Thành cổ khi chiếc cầu sắt đã bị đối phương phá hủy. Bom và đạn pháo có ngày đã gây thương vong cho một Đại đội Quân Giải phóng ở bến sông. Do hỏa lực bờ Bắc sông Thạch Hãn của Quân Giải phóng rất mạnh, khiến cho QLVNCH và Hoa Kỳ không thể tiếp cận bằng bộ binh mà phải sử dụng pháo hạng nặng và máy bay ném bom tầm xa để tấn công theo tọa độ. Thế trận thực sự nghiêng về Hoa Kỳ và VNCH khi họ kiểm soát được cả ba mặt của Thành cổ lẫn kiểm soát trên không, nhưng Quân Giải phóng vẫn giữ được Thành cổ trong suốt ba tháng.

Trận chiến trong thị xã

nhỏ|trái|"Nụ cười bên thành cổ Quảng Trị" (bộ đội), tác giả [[Đoàn Công Tính]] Từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 8 năm 1972, các chốt trong thị xã đều được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giữ vững. Đêm đêm, Quân Giải phóng tập kích ở Tri Bưu, ở Thạch Hãn, chùa Bà năm, diệt một số lính khiến quân đối phương không tiến được.

Quân Giải phóng được bổ sung vào Thành đều đặn theo kế hoạch. Mỗi đêm vào trung bình được 40-50 người (đã trừ số người đào ngũ, lạc ngũ hoặc bị thương từ bên kia bờ sông, chiếm khoảng 30-40%). Hàng ngày thuyền gắn máy hậu cần từ Tả Kiên bí mật bơi vào thành, tiếp tế lương thực, đạn dược, thuốc men, kể cả quà Quốc khánh từ hậu phương tới. Dù vậy, do áp lực liên tục từ đối phương, giao thông hào chiến đấu bị bom đạn bắn phá liên tục, nên hệ thống phòng thủ ngày càng lỏng dần. Tân binh được tăng cường cho các đơn vị phòng thủ chỉ đủ để bù đắp số thương vong trong chiến đấu.

Vào cuối tháng 8, hỏa lực của QLVNCH lại được Hoa Kỳ tăng cường thêm. Hai bên giành nhau từng mét đất. Lúc này, QLVNCH bắt đầu suy kiệt khi liên tục bị Quân Giải phóng tập kích đêm. Tới trung tuần tháng 9, cả hai bên đều gồng mình khiến cuộc giao tranh cực kỳ khốc liệt.

Đợt từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 9 năm 1972, trời mưa to, nước sông Thạch Hãn lên nhanh, chảy xiết, ảnh hưởng đến tăng cường cung cấp và quân số. Có đêm trôi dạt hàng chục chiến sĩ vượt sông. Công sự chốt bị sụt lở nhiều. Bộ đội tiếp tục giữ các chốt trên các hướng. Tiểu đoàn 4 E95 tập kích khu tam giác Thạch Hãn, chiếm một số công sự của đối phương, cải thiện thế phòng thủ ở đó. Tiểu đoàn đặc công mặt trận phối hợp với đại đội đặc công sư đoàn 325 chuẩn bị đánh khu quận lỵ Mai Lĩnh nhưng thất bại.

Ngày 4 tháng 9 năm 1972, E88 F308 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam rút khỏi khu Thạch Hãn tây và khu giáp sông ở thôn Đệ Ngũ-trường Bồ Đề làm sườn phía nam bị hở. Một số thành viên trung đoàn 88 trong đó có trung đoàn phó Phan bị thương tạt vào sở chỉ huy Thành cổ. Bộ chỉ huy quyết định tổ chức đưa số này vượt sông lũ ra hậu phương. Để đối phó với tình hình quan trọng này, họ sử dụng một bộ phận tiểu đoàn 7, trung đoàn 18 và tiểu đoàn 4, trung đoàn 95 ra chiến đấu thay thế trung đoàn 88 ở khu vực đó để giữ sườn phía nam thị xã.

Ngày 7 tháng 9 năm 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến công đợt 6, mở đầu bằng đòn tập kích hỏa lực "Phong lôi 2". Không quân, hải quân Hoa Kỳ, pháo binh Việt Nam Cộng hòa bắn suốt 48 giờ liền vào tất cả các trận địa của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, tập trung đánh vào khu Thành cổ, các bến vượt sông, đường cơ động lực lượng và vận chuyển. Oanh tạc cơ B-52 của Mỹ rải thảm tả ngạn sông Thạch Hãn, tập trung vào khu Nhan Biều-Ai Tử và các trận địa pháo của đối phương. Tính toàn bộ trong 81 ngày đêm của trận Thành cổ, các lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã dội xuống địa điểm thị xã (rộng chưa đầy 3 km²) và vùng lân cận tổng cộng 120.000 tấn bom, trong đó mỗi ngày có từ 70 đến 90 lượt máy bay ném bom B52 tham chiến. "Đây là kế hoạch chi viện hỏa lực cao nhất của Mỹ trong một trận đánh. Tính từ ngày 9 tháng 9 đến ngày 16 tháng 9, Mỹ sử dụng pháo hạm bắn 123.725 viên đại bác vào thị xã (trong đó có 52.573 viên vào Thành cổ); sử dụng 2.244 lần chiếc máy bay ném bom, trong đó có ngày huy động tới 100 lần chiếc máy bay ném bom chiến lược B-52.".

Đêm 7 tháng 9, tiểu đoàn K2 E48 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tập kích khu Hành Hoa, chiếm một số công sự, cải thiện thế phòng thủ ở Tri Bưu. Tiểu đoàn 5 trung đoàn 95 tập kích khu nhà thờ Tin Lành, thương vong một số (tiểu đoàn trưởng đơn vị này cũng chết) nhưng đã chiếm được.

Tiểu đoàn 4 E95 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chặn đánh 3 tiểu đoàn đối phương ở khu Tin Lành, quyết liệt giành đi giật lại từng công sự. Quân lực Việt Nam Cộng hòa thiệt hại một đại đội, nhưng chiếm được khu Mỹ Tây. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bị thương vong 30 người, hỏng một cối 82 ly, một súng 12 ly 7, một đại liên, một B-40, một B-41. Đến đêm 9 tháng 9, tiểu đoàn 4 cùng tiểu đoàn 5 E95 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tập kích chiếm lại khu Mỹ Tây, đẩy Quân lực Việt Nam Cộng hòa chạy về nam sông con. Đêm 9 tháng 9, sau khi được củng cố, K8 vào thành. Quân Giải phóng bắt đầu tiến hành rút quân.

Về phía Quân lực Việt Nam Cộng hoà, tuy chiếm được thành cổ nhưng cũng phải trả giá đắt. Kế hoạch chiếm thị xã trước ngày 13/7 để mặc cả tại Hội nghị Paris không thực hiện được mà còn phải mất gấp 5 lần thời gian định trước. Để chiếm lại thành cổ, chỉ riêng sư đoàn Thủy quân Lục chiến trong 7 tuần cuối trận đánh có 3.658 binh sĩ thương vong, chiếm 25% tổng quân số (tổng thương vong là hơn 5.200 chiếm 35% quân số), các đơn vị Dù cũng chịu thiệt hại nặng tương đương. Tổng quân số tử trận của các đơn vị lên tới 7.756 người, hàng ngàn lính khác bị thương.

Thiệt hại lớn của các đơn vị tinh nhuệ này khiến Quân lực Việt Nam Cộng hoà cũng không còn đủ sức tấn công tiếp lên phía bắc, các chiến dịch Lam Sơn 72A và các cuộc hành quân "Sóng thần" để tái chiếm bờ bắc Thạch Hãn nhanh chóng bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh bại. Hai bên quay về giữ thế giằng co cho đến khi hiệp định Paris được ký kết vào ngày 31 tháng 1 năm 1973.

Kết quả

Đài tưởng niệm trong thành cổ Quảng Trị Sau 12 tuần lễ liên tục tổng công kích với sự hỗ trợ hỏa lực tối đa của quân đội Hoa Kỳ, đến giữa đêm ngày 15 rạng ngày 16 tháng 9 năm 1972, lực lượng Thủy quân Lục chiến đã tiến vào thị xã Quảng Trị và kiểm soát toàn bộ khu vực Cổ Thành. Rạng sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972, hai tiểu đoàn 3 và 6 Thủy quân Lục chiến từ các vị trí vừa chiếm được trong Cổ Thành, đã bung ra lục soát và đánh các chốt còn lại của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đến 8 giờ sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972, một toán Cọp Biển của tiểu đoàn 6 Thủy quân Lục chiến đã dựng cờ của Việt Nam Cộng hòa trên cổng tường phía Tây Cổ Thành Quảng Trị, biểu tượng cho việc Quân lực VNCH đã hoàn tất cuộc tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Trong trận chiến này, Hoa Kỳ đã ném xuống Quảng Trị khoảng 120 nghìn tấn bom, tương đương với sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hiroshima (Nhật Bản) năm 1945 và đã phá hủy hoàn toàn 1 vạn ngôi nhà và tòa Thành cổ.

Vài phút sau đó, chuẩn tướng Bùi Thế Lân – tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến – đã báo tin tái chiếm thành công Thành cố đến trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân đoàn 1 kiêm tư lệnh chiến dịch tái chiếm Quảng Trị. Ông này đã gọi máy về Sài Gòn để tường trình lên Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và đại tướng Tổng tham mưu trưởng, sau đó tướng Ngô Quang Trưởng đã gửi bưu điệp tuyên dương công trạng Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Theo ghi nhận của trung tướng Ngô Quang Trưởng, trong 10 ngày cuối của trận chiến tại trung tâm thị xã Quảng Trị và Cổ Thành, có 2.767 binh sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã chết, 43 bị bắt sống. Về phía Thủy quân Lục chiến của Quân lực VNCH, trung bình mỗi ngày có 150 binh sĩ Cọp Biển chết trận, chưa tính tổn thất của các đơn vị khác. Chiều ngày 16 tháng 9 năm 1972, sau khi đánh bật Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ra khỏi trung tâm thị xã và tái chiếm toàn khu vực Cổ Thành, 6 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đã bung rộng để triệt hạ các chốt kháng cự cuối cùng trong Cổ Thành và nới rộng vùng kiểm soát.

Theo cuốn Một thời hoa lửa của Nhà xuất bản Trẻ thì từ mồng 10 tháng 9, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bị thương vong nhiều. Như hai tiểu đoàn mới vào thành (K3 và K8) cũng đã tổn thất nặng. Riêng Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 95 vào thành chiến đấu ngày 13 tháng 7 có quân số gần đủ, với 67 đảng viên và nhiều vũ khí, khí tài mạnh; đến ngày 10 tháng 9 đã chết trên 100 người, bị thương trên 700 (tính cả số bổ sung từng ngày) và lúc rút ra chỉ còn 12 đảng viên chưa bị thương vong. Đài chứng tích sinh viên - chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị Do đó hành động của tư lệnh chiến dịch vào buổi giao ban sáng 16 tháng 9 và tiếp sau đó lệnh phòng ngự tả ngạn sông Thạch Hãn vào chiều 16 tháng 9 là thích hợp với tình hình thực tế. Kết thúc trận đánh, chỉ riêng Sư đoàn Thủy quân Lục chiến của VNCH đã có hơn 5.000 thương vong, trong đó 3.658 thương vong trong 7 tuần cuối trận đánh, chiếm 25% quân số toàn sư đoàn, tổng số thiệt mạng của tất cả các đơn vị VNCH là 7.756, cùng với nhiều ngàn lính khác bị thương. Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tử trận khoảng 4.000 người Cả hai bên đều bị tổn thất lớn sau trận đánh này.

Tuy để mất thị xã Quảng Trị và Thành cổ nhưng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn giữ được hai căn cứ bàn đạp Tích Tường, Như Lệ, Phước Môn, Tân Téo phía Tây và Bích La, An Lộng, Chợ Sãi, Nại Cửu, Long Quang ở phía Đông trên hữu ngạn sông Thạch Hãn. Ngoài ra, sư đoàn 324 vẫn chiếm giữ các vị trí cực tây Quảng Trị. Đây là những mục tiêu mà quân đội VNCH đã tiếp tục tìm cách giành lại bằng các chiến dịch trong giai đoạn sau, nhưng các chiến dịch này đều bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bẻ gãy cho tới khi Hiệp định Paris được ký kết.

Đánh giá

Tướng Lê Phi Long của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam năm 2008 có nói: "Chiến dịch Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ lại tôi rất đau lòng. Mãi đến bây giờ (2008), tôi và nhiều đồng nghiệp vẫn chưa hiểu vì sao ta phải cố thủ thành cổ với một giá đắt như vậy? Có cán bộ cấp trên giải thích rằng do yêu cầu của đấu tranh ngoại giao, cần giữ vững thành cổ để phối hợp với cuộc đàm phán tại hội nghị Paris...".

Ghi lại cuộc chiến đấu của sư đoàn Thủy quân Lục chiến tại mặt trận trung tâm thị xã Quảng Trị và Cổ Thành từ khi thay thế lực lượng Nhảy Dù vào ngày 27 tháng 7 năm 1972, trung tá Trần Văn Hiển, nguyên trưởng phòng 3 bộ Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đã viết: "Trong suốt 7 tuần lễ chiến đấu dưới những làn mưa đạn pháo nặng nề của đối phương, tính trung bình cứ 4 lính Thủy quân Lục chiến có một người tử trận. Tính từ tháng 6 năm 1972 đến ngày chiếm được thành cổ, về quân số, Thủy quân Lục chiến bị tổn thất trên 5 ngàn, trong đó có 3.658 lính tử trận".

Cũng theo cuốn Một thời hoa lửa của Nhà xuất bản Trẻ này thì:

:Các lực lượng trực tiếp phòng thủ thị xã đã cùng một ý chí sắt đá là kiên quyết giữ vững Thành cổ bằng mọi giá nhằm phục vụ yêu cầu đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Paris. Rất nhiều gương chiến đấu, phục vụ chiến đấu vô cùng anh dũng của cán bộ chiến sĩ, của các đoàn dân công hỏa tuyến, của nhân dân trong khu vực.
:Trong hơn 80 ngày đêm chiến đấu, chúng ta đã biết phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng bộ đội và nhân dân, tạo nên sức chiến đấu kiên cường, dẻo dai. Bên cạnh lực lượng bám trụ thị xã, phải tính đến sức mạnh của các sư đoàn chủ lực 308, 304, 320 đứng bên sườn địch từ hướng đường 1 và hướng ven biển, mở nhiều đợt tiến công vào sườn đội hình tiến công của địch; gây cho địch nhiều thiệt hại, làm chậm bước tiến của chúng, buộc chúng phải đối phó bị động.
:
:Ngoài ra phải nói đến nhiều đoàn tân binh từ nhiều tỉnh miền Bắc đã lần lượt vào thị xã để bổ sung kịp thời cho các đơn vị chiến đấu. Nhiều lực lượng dân quân du kích và nhân dân địa phương đã đấu tranh kiên cường bằng nhiều hình thức phong phú đa dạng ở vùng địch hậu Triệu Phong, Hải Lăng. Nhiều lực lượng dân công hỏa tuyến tại khu vực Tả Kiên, Ba Gơ, Đại Ang, Tân Vinh đã tận tình phục vụ cho Quảng Trị chiến đấu.

Báo Quân đội nhân dân số ra ngày ngày 9 tháng 8 năm 1972 viết: "Mỗi mét vuông đất tại Thành cổ Quảng Trị là một mét máu và sự hy sinh của các anh đã trở thành bất tử. Trong 81 ngày đêm, từ ngày 28 tháng 6 đến ngày 16 tháng 9 năm 1972, Thành cổ Quảng Trị đã phải hứng chịu 328.000 tấn bom đạn. Trung bình mỗi chiến sĩ phải hứng lấy 100 quả bom, 200 quả đạn pháo. Mỗi ngày có 1 đại đội vượt dòng Thạch Hãn để tiếp viện quân số, nhưng đêm nay một đại đội tiến vào thì ngày mai chỉ còn lại vài người sống sót". Một tờ báo của Mỹ đã bình luận: "Kỷ luật, lý tưởng và tinh thần xem thường cái chết đã kết hợp với nhau như thế nào mà các chiến sĩ quân Giải phóng vẫn chiến đấu dưới mưa bom B-52? Không có một nhà phân tích nào ở Mỹ có thể giải thích đầy đủ."

Theo lời cựu binh Đào Chí Thành thuộc Đại đội 14, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, các chiến sỹ Quân Giải phóng đã vào trận với một tinh thần rất hồn nhiên. Thậm chí, nhìn cảnh tượng chiến trường lúc đó, ông Thành còn tưởng mình đang tham gia một bộ phim. Theo lời cựu binh Trần Luân Tín, Đại đội thông tin số 18, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, ông thể ngờ rằng mình vừa bước ra khỏi trận chiến khốc liệt nhất trong toàn bộ cuộc chiến.

Ý nghĩa

Kết quả trận đánh tại Thành cổ Quảng Trị đã giúp cho phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giữ vững được thế thượng phong có được từ sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh bại Cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Kết quả tại Thành cổ đã tiếp tục khiến vị thế phái đoàn Hoa Kỳ bị suy yếu. Phía Hoa Kỳ đã phải chấp nhận bản dự thảo do phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra vào tháng 10/1972. Theo chính quyền Việt Nam, diễn biến tại Thành cổ Quảng Trị đã cho thấy lòng yêu nước, quyết tâm thông nhất đất nước, sự anh dũng của bộ đội Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng như sự bất khuất, kiên trung, quyết tâm cản bước quân Mỹ xâm lược của nhân dân Quảng Trị.

Sau chiến tranh

Hiện nay khu thành cổ Quảng Trị rộng 16 ha là một phần của Khu di tích Thành cổ Quảng Trị, được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia của Việt Nam. Do mật độ bom đạn rất cao và kéo dài nên hầu hết bộ đội Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tử trận trong Thành cổ Quảng Trị đều bị vùi lấp. Nơi đây được xây dựng thành nơi yên nghỉ chung cho những người đang nằm trong lòng đất với nhiều cây xanh, đài tưởng niệm, bảo tàng... Hiện đang có dự án đầu tư xây dựng khu di tích trở thành một công viên văn hóa, tưởng niệm với các hạng mục như đài tưởng niệm trung tâm, bảo tàng, đài chứng tích sinh viên, vườn hoa cảnh.

Đã có nhiều bài thơ, bài hát nói về sự khốc liệt và mất mát của trận Thành cổ Quảng Trị, trong đó người ta thường nhắc tới bốn câu thơ trong bài Lời gọi bên sông của Lê Bá Dương, một cựu chiến binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam từng tham gia trận đánh này:
Ngoaì ra khi chuẩn bị vào sâu trong mặt trận phía Nam ở Bắc Quảng Trị, Lê Bá Dương cũng có 2 câu thơ rất hay, được xem như là tuyên ngôn hay nhất bằng thơ của quân giải phóng Bắc Quảng trị:

Sau ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam, cựu chiến binh Lê Bá Dương và một số đồng đội của ông hàng năm đều về Quảng Trị ít nhất một lần để tưởng niệm những đồng đội Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã hy sinh và thả hoa xuống dòng sông Thạch Hãn. Xuất phát từ đó, những năm gần đây, hàng năm cứ vào ngày 27 tháng 7 (Ngày thương binh liệt sĩ Việt Nam) cũng là gần dịp rằm tháng bảy có lễ Vu Lan báo hiếu, chính quyền tổ chức lễ thả đèn, thả hoa trên sông Thạch Hãn để tưởng niệm những người đã nằm lại tại Thành cổ trong 81 ngày đêm của trận đánh.

Từ sau kỷ niệm 40 năm chiến đấu bảo vệ Thành cổ, ngoài những lễ thả hoa của các đoàn về thăm. Chính quyền, nhân dân thị xã thường xuyên tổ chức Chương trình "Đêm hoa đăng" vào ngày 14 âm lịch hàng tháng để tưởng niệm và tri ân những Anh hùng Liệt sĩ đã hy sinh trên dòng sông huyền thoại này. Chương trình đó đã trở thành nét Văn hóa mới của thị xã Quảng trị trong thời kỳ đổi mới.

Thư mục

Đại tá Nguyễn Việt – nguyên Tham mưu phó sư đoàn 325 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, [http://www.nxbtre.com.vn/uploads/free_books/mot%20thoi%20hoa%20lua.doc Nhớ lại trận chiến đấu bảo vệ thành cổ Quảng Trị 1972] [http://www.qdnd.vn/qdnd/sukiennhanchung.hoiuckyniem.20569.qdnd K3 - Tam Đảo còn - Thành cổ Quảng Trị còn], Đại tá Đỗ Văn Mến Vương Hồng Anh, [http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=122&nid=50823 Những Trận Đánh Cuối Cùng Của TQLC Ở Mặt Trận Cổ Thành] Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (2005)

👁️ 9 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Thành cổ Quảng Trị** () là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam với Quân đội
**Thành cổ Quảng Trị** hoặc **Cổ thành Quảng Trị** là một Di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4, tọa lạc ở trung tâm thị xã Quảng Trị, tỉnh
nhỏ|Bản vẽ thành Quảng Ngãi **Thành cổ Quảng Ngãi**, còn gọi là **Cẩm thành** hay **thành Gấm**, là một thành lũy được xây dựng vào năm 1807 thời nhà Nguyễn ở Quảng Ngãi, Việt Nam.
**Quảng Trị** là tỉnh ven biển gần cực nam của vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, tỉnh Quảng Trị mới là sáp
nhỏ|phải|[[Tượng đài "_Khát Vọng Thống Nhất Non Sông_"]] nhỏ|phải|Tượng đài _Giao bưu [[Dốc Miếu_]] nhỏ|phải|Thành cổ Quảng Trị **Du lịch Quảng Trị** là tên gọi chỉ chung về các ngành, nghề kinh doanh và các
**Chiến dịch Trị Thiên** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện vào năm 1972. Đây là một phần trong Chiến dịch Xuân hè
**_Mùi cỏ cháy_** (tựa tiếng Anh: **_The Scent of Burning Grass_**) là một bộ phim điện ảnh Việt Nam thuộc thể loại tâm lý xã hội và chiến tranh công chiếu vào năm 2012. Bối
nhỏ|Toàn cảnh thành cổ Sơn Tây nhìn từ trên cao (không ảnh) năm 2022.|303x303px nhỏ|Thành Sơn Tây, tháng 4 năm 1884, một trong 4 thành trong [[Thăng Long tứ trấn|303x303px]] nhỏ|Bản vẽ thành Sơn Tây
**Quảng Trị** là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía nam giáp thành phố Huế, phía đông giáp Biển Đông, phía tây giáp tỉnh Savannakhet của Lào. ##
**Quảng Trị** là một thị xã nằm ở phía nam tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Hiện nay, thị xã Quảng Trị không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, thị xã lại
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**Đông Hà** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Thành phố Đông Hà nằm ở ngã ba Quốc lộ 1 và Quốc lộ 9. Đông Hà là trung tâm chính
**Lệ Thủy** là xã của tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. ## Địa lý xã Lệ Thủy nằm ở trung tâm của vùng đồng bằng Lệ Thủy và miền Trung Quảng Trị, bên sông Kiến Giang
**Quảng Ninh** là một xã thuộc tỉnh Quảng Trị, Việt Nam được thành lập vào 16 tháng 6 năm 2025 từ việc hợp nhất thị trấn Quán Hàu, xã Vĩnh Ninh, xã Võ Ninh, xã
**_Cỏ lau_** (tiếng Anh: **The Wild Reed**) là bộ phim điện ảnh năm 1993 của Việt Nam do Vương Đức đạo diễn, kịch bản do Lê Hoài Nguyên chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên
Chiến trường Quảng Trị năm 1972 **Mặt trận Trị Thiên Huế năm 1972** là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972. Kết thúc năm 1972, với các diễn biến
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]] **Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư** là hệ thống các di tích về kinh đô Hoa
**_Mưa đỏ: Máu xương đổ xuống – Đất trời lưu danh_** (tên Tiếng Anh: **_Red Rain: Blood and Bone Spilled – Etched into Heaven and Earth_** hoặc **_Red Rain_**), hay gọi ngắn là **_Mưa đỏ_**,
Trận **pháo kích Quốc lộ 1** là một trận pháo kích tiến hành bởi Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) trong Chiến dịch Xuân - Hè 1972 thuộc Chiến tranh Việt Nam, trên đoạn
**Trần Viết Thọ** (1836-1899), tự: **Sơn Phủ**, hiệu: **Điềm Tĩnh cư sĩ**; là tu sĩ Tam giáo, và là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Trần Viết Thọ** là người
**Tôma Trần Văn Thiện** (sinh năm 1820 tại làng Trung Quán, xã Duy Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình - mất năm 1838 tại pháp trường ngoài thành cổ Quảng Trị) là một tín
Di tích cổng Bắc thành Đồng Hới nhỏ|Bản vẽ thành Đồng Hới **Thành Đồng Hới** hay **Thành cổ Đồng Hới**, còn gọi là **Thành cổ Quảng Bình**, là một di tích kiến trúc quân sự
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Trần Thanh Phương** (hay **Thanh Phương**, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1969) là một nam nhạc công, kĩ sư âm thanh, giám đốc âm nhạc, nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất thu âm người
**Trần Thanh Phong** (1926–1972) nguyên là Thiếu tướng Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tử nạn được truy thăng Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia được mở
Đây là các **trận đấu cờ vua giữa con người và máy tính** quan trọng. Máy tính lần đầu tiên có thể đánh bại những người chơi cờ mạnh vào cuối những năm 1980. nổi
**Trận thành Gia định** hay Trận Gia Định là một trận chiến diễn ra vào rạng sáng ngày 17 tháng hai năm 1859, giữa liên quân Pháp và Tây Ban Nha với quân đội vương
**Trần Thanh Vân** (sinh năm 1959) là chính trị gia và cựu kiểm sát viên người Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Ủy viên Ban thường vụ Thành ủy, Trưởng Ban Nội chính Thành
**Quảng Bình** là một tỉnh ven biển cũ nằm ở phía nam vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Đồng Hới. Nơi đây cũng là nơi
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**Thị trấn** là một đơn vị hành chính cấp xã từng tồn tại tại Việt Nam. Loại đơn vị hành chính này đã bị bãi bỏ vào ngày 17 tháng 6 năm 2025. Trước khi
**Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng hòa** (tiếng Anh: _Republic of Vietnam Marine Division_, **RVNMD**) là Lực lượng tác chiến đổ bộ đường thủy. Đây là một trong số những đơn vị
**Tử Cấm Thành** () là một khu phức hợp cung điện ở khu Đông Thành thuộc Bắc Kinh, Trung Quốc, với tổng diện tích 720.000 mét vuông (180 mẫu). Dù là khu phức hợp cung
**Trần Lựu** (chữ Hán: 陳榴; ?-?), còn được chép là **Lê Lựu** (黎榴), là một khai quốc công thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong số các tướng lĩnh
**Thành Điện Hải** là một di tích quốc gia đặc biệt tọa lạc tại thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Tòa thành được xây dựng lần đầu vào năm Gia Long thứ 12 (năm 1813)
Thành Tân Sở (dựa theo bản vẽ của A.Delvaux) **Thành Tân Sở** hay **Sơn phòng Tân Sở** là tên một tòa thành cổ của nhà Nguyễn; nay thuộc địa phận làng Đốc Kỉnh, xã Cam
**Trần Điền** (1911 - 1968) là một thượng nghị sĩ trong Quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Ông cũng là một trong các trưởng thế hệ sáng lập Hướng đạo Việt Nam. Ông bị phía
**Sông Thạch Hãn** (hay còn gọi là **sông Ba Lòng**, **sông Quảng Trị**) là con sông lớn nhất tỉnh Quảng Trị . Đây là con sông gắn liền với lịch sử Quảng Trị. Tại vùng
**Trận Sơn Tây (1883)**, là trận đánh mà quân đội viễn chinh Pháp tấn công vào thành cổ Sơn Tây, diễn ra từ ngày 13 tháng 12 năm 1883, kết thúc vào tối ngày 16
**Trần Quốc Thảo** (1915 - 1957) tên thật là **Hồ Xuân Lưu**, bí danh: **Đồ Em**, **Năm Hai** là nhà cách mạng Việt Nam quê ở làng Cổ Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị,
**Ngô Quang Trưởng** (23 tháng 05 năm 1929 – 14 tháng 07 năm 2007) là một cựu Trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Xuất thân từ những khóa đầu tại trường Sĩ quan
**Trần Xuân Hòa** (? - 1862), là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1862, ông bị quân Pháp bắt được khi đang cầm quân trấn giữ Định Tường, sau đó ông đã
nhỏ|Bản vẽ thành Vinh, Nghệ An **Thành cổ Nghệ An**, còn gọi là **Thành cổ Vinh**, là tên gọi di tích một tòa thành cổ được xây dựng dưới thời Nguyễn lịch sử Việt Nam,
**Trần Trọng Tân** (1926 – 2014), tên thật là **Trần Trọng Hoãn**, nguyên là Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, Phó bí thư Thành ủy Thành
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
**Quần thể di tích Cố đô Huế** hay **Quần thể kiến trúc cố đô Huế** là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian
**Sư đoàn Bộ binh 325** là một trong 6 đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, hiện nay là một sư đoàn bộ binh đủ quân thuộc biên chế
nhỏ|Bản vẽ thành Thanh Hóa **Hạc thành** hay **thành Thọ Hạc**, còn gọi là **Trấn thành Thanh Hóa**, **thành cổ Thanh Hóa**, là một thành lũy được xây dựng ở Thanh Hóa vào thời nhà
**Chùa Tịnh Quang** là một ngôi chùa nằm trên một vùng núi phía tây – nam làng Ái Tử, thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Đây là ngôi tổ đình duy nhất của tỉnh
nhỏ|Ông Trần Văn Lý Ông **Trần Văn Lý** (陳文理, 1901 – 1970) là một nhân sĩ, chính khách Việt Nam, quan nhà Nguyễn thời kỳ cuối, cựu Tổng đốc bốn tỉnh Tây nguyên, Thủ hiến