✨Nguyễn Thân

Nguyễn Thân

Nguyễn Thân (chữ Hán: 阮紳, 1854–1914), biểu tự Thạch Trì (石池), là võ quan nhà Nguyễn dưới triều vua Đồng Khánh, từng phối hợp với thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương. Ông được xem là cộng sự đắc lực của thực dân Pháp vào những năm cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam, bị người Việt coi là Việt gian tiêu biểu trong giai đoạn lịch sử này.

Nguyễn Thân đã mang quân đánh dẹp thành công các phong trào kháng chiến chống Pháp của người Việt, giúp thực dân Pháp cai trị Việt Nam yên ổn trong nhiều năm. Nhờ những chiến công khi phục vụ cho Pháp, ông đã được trao nhiều huy chương danh giá của nước Pháp và làm Phụ chính đại thần. Ông cùng với Nguyễn Trọng Hợp là hai người nắm đại quyền trong triều đình An Nam lúc đó. Nguyễn Thân sau đó về hưu và chết bởi bệnh điên.

Tiểu sử

Nguyễn Thân (1854–1914) có tên tự là Nho Bá, hiệu Thạch Trì, quê ở làng Thạch Trụ, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, là con trưởng của Nguyễn Tấn và là người con duy nhất của mẹ mình, bà Lê Thị Bình.

Cha là Nguyễn Tấn, một võ quan triều Tự Đức, nhờ dùng mưu kế, thu phục được các sắc dân ở Đá Vách (Quảng Ngãi). Tương truyền Nguyễn Tấn ăn đường Phèn, người Đá Vách tưởng ông ăn đá cuội, nên tôn ông làm "thần tướng". Theo lời của Nguyễn Thân: Cha tôi làm tướng trông coi vùng núi Quảng Ngãi, Bình Định và Quảng Nam.

Cha mất năm Nguyễn Thân 17 tuổi, sau đó kế nhiệm chức của cha, các bộ tộc này lại nổi dậy, triều đình sai Nguyễn Thân đi đánh dẹp, biết ông là con của "thần tướng", họ lui quân. Lập được công, Nguyễn Thân trở nên nổi tiếng .

Sự nghiệp

Đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch (tức 5-6 tháng 7 năm 1885), Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, đem quân tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá (Huế). Đến sáng thì đối phương phản công, quân Nguyễn thua, phải đưa vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị. Ngay sau đó, nghĩa quân chiếm thành Bình Định, làm căn cứ kháng Pháp. Nguyễn Thân cũng có ý muốn chiếm tỉnh thành này, để làm nơi cát cứ, nhưng vì chậm chân hơn.

Đại thần Tôn Thất Thuyết dẫn theo vua Hàm Nghi để kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp, toàn xứ Trung Kỳ rơi vào rối loạn và các cuộc nổi dậy nổ ra khắp nơi.. Nhưng sau khi suy tính thiệt hơn, ông rời khỏi Nghĩa hội để phục vụ cho vua Đồng Khánh đang hợp tác với thực dân Pháp.

Năm 1885, vua Đồng Khánh sai Nguyễn Thân đem quân đàn áp cuộc khởi nghĩa ở Quảng Ngãi do Lê Trung Đình hay Cử Đình-Nguyễn Tự Tân hay Tú Tân chỉ huy với 2.000 lính triều đình. Nguyễn Thân chiếm lại được thành Quảng Ngãi, bắt giữ 14 người thủ lĩnh và chặt đầu tại trận..

Phụ chính đại thần là những người chấp chính ở triều đình An Nam khi vua còn nhỏ, thời vua Thành Thái, có 3 vị phụ chính đại thần. Đệ nhất phụ chính là Tuy Lý Vương Miên Trinh, người không có thực quyền; Đệ nhị phụ chính là Nguyễn Trọng Hợp; Đệ tam phụ chính là Nguyễn Thân. Nguyễn Trọng Hợp và Nguyễn Thân là hai người nắm đại quyền trong triều đình.

Đương thời nhân dân nguyền rủa Nguyễn Thân không hết lời vì những hành động tàn bạo và việc làm tay sai cho Pháp của ông ta. Chính Nguyễn Thân đã tự kể công với Pháp trong bức thư gửi cho Toàn quyền Paul Doumer: :"Lúc ấy (1886) tôi ra Quảng Nam đánh đám giặc Văn thân là Hường Hiệu chống cự với nhà nước Bảo hộ bấy lâu... tôi bắt được 25 tên phó tướng, Hường Hiệu trốn thoát, chạy vô núi Ngũ Hành, sau tôi cũng bắt sống được bỏ vô trong cũi mà giải về Huế. :Thưởng đền tấm lòng tận trung của tôi đối với nước Pháp, chính phủ cộng hòa lúc bấy giờ ban tặng Bắc đẩu bội tinh ngũ hạng cho tôi. :Cách đó ít lâu, tỉnh Bình Định lại có loạn dấy lên nữa, nhà nước sai tôi đi tiễu phỉ lần thứ nhì, tôi dẹp được giặc giã, tỉnh này yên hẳn từ đó. Nhân việc đánh giặc thành công, quan Toàn quyền Picquet và quan Khâm sứ Hector tư xin chánh phủ cộng hòa ban thưởng cho tôi Bắc đẩu bội tinh tứ hạng... :Về sau tôi được chỉ triệu về Huế, lãnh chức Binh bộ Thượng thư. Quan Toàn quyền De Lanesan thương thuyết với trào đình khâm phái tôi vô làm tổng thống tỉnh Bình Định. Rồi đó tôi được phong chức Khâm sai đại thần đem quân ra đánh dẹp Văn thân Nghệ Tĩnh. Vì có quan Toàn quyền Rousseau và Khâm sứ Brière nói với triều đình, nên chỉ tôi được lãnh cái trọng trách ấy. Sở dĩ tôi phụng mạng đem quân ra Nghệ Tĩnh là cốt để tróc nã tướng giặc Văn thân Phan Đình Phùng khởi loạn ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã 10 năm, mặc dầu nhà nước đã ra sức đánh dẹp mãi mà không được. :(…) Nhân tôi có công lao như thế, chánh phủ cộng hòa thưởng cho tôi Bắc đẩu bội tinh tam hạng và đức hoàng đế vời tôi về kinh làm phụ chính đại thần".

Năm 1902, Nguyễn Thân vì việc tranh chấp quyền lực và bổng lộc với Hoàng Cao Khải bị bãi chức, buộc trong vòng 24 tiếng đồng hồ phải dọn ra khỏi cung.

Cái chết

Nguyễn Thân rời kinh về nghỉ hưu. Ngày 18 tháng 9 năm 1914 tức tháng 7 năm Giáp Dần, Nguyễn Thân chết trong bệnh viện ở Kinh, tạm quàn quan tài ở sảnh đường bộ Binh. Vua rất thương tiếc, chuẩn cho gia hàm Thái phó, cùng ban tế cấp tuất, hộ tống đều rất ưu hậu.

Khi hay tin Nguyễn Thân qua đời, triều đình nhà Nguyễn liền cử Tiến sĩ Phạm Tuấn viết câu đối để viếng Nguyễn Thân. Ngẫm nghĩ thấy Nguyễn Thân là kẻ tay sai, phản bội, gây nhiều tội ác với nước, với dân, Phạm Tuấn liền viết hai câu đối đầy mỉa mai, thâm thúy: :“Sinh ông, tử như ông, sinh tử như ông bất :Công cái thế, danh cái thế, công danh cái thế vô”.

Nghĩa là: :“Sống như ông, chết như ông, sống chết như ông không ai có :Công nhất đời, danh nhất đời, công danh nhất đời rõ không”.

Hai câu đối của ông được triều đình cho thêu bằng chữ vàng trên tấm liễn được các quan đại thần mang tới phúng viếng. Từ nước Pháp nhận được tin cha mất, Nguyễn Hy là con trai Nguyễn Thân bay về nhưng tang sự của cha đã xong, chỉ còn nghe thiên hạ bàn tán về hai câu đối của kinh đô viếng cha mình. Đọc đi, đọc lại hai câu triều đình Huế dành tặng cha, thấy có điều gì không bình thường về các câu đối ấy, Nguyễn Hy quyết tâm tìm hiểu và biết được tác giả chính là tiến sĩ Phạm Tuấn, quan giáo lễ rất căm ghét cha mình, liền dâng đơn khởi kiện cho rằng Phạm Tuấn đã lăng mạ, xúc phạm cha mình, đề nghị công đường trị tội.

Hôm xử án, vị quan xét xử đặt lên bàn tấm liễn có hai câu đối viếng Nguyễn Thân, hỏi: “Nguyên cớ chi ông lại chơi khăm ông Nguyễn Thân?”, Phạm Tuấn mỉm cười, bình thản trả lời: “Các ông hãy xem hai câu đối ấy ai là người viếng? Rõ ràng là triều đình phúng điếu chứ tôi đây có can dự chi mô. Chữ thêu hai câu đối còn rành rành ra đó chứ mất đi đâu. Ai kiện thì cứ đi kiện triều đình còn tôi chẳng dính dáng chi ở đây cả”.

Dù quan xét xử hiểu hàm ý thâm sâu của hai câu đối viếng Nguyễn Thân, muốn bênh vực cho Nguyễn Hy nhưng trước sự tự bào chữa cho mình đầy lý lẽ thuyết phục, được nhiều người vỗ tay đồng tình nên đành hạ giọng. Dù rất muốn bênh vực gia đình Nguyễn Thân nhưng trước lý lẽ cứng cựa của ông, quan cũng đành bó tay. Còn gia đình Nguyễn Thân rất hậm hực nhưng cũng phải chịu thua.

Tự khắc bia đá ghi công

Trong sách Phan Đình Phùng của Đào Trinh Nhất, có một đoạn sử liệu như sau: :Phan Đình Phùng chết, nghĩa binh tự tan. Nguyễn Thân tự cho cái kết quả ấy là công trạng của mình, mặc dù từ khi kéo đại binh ra, không hề giáp trận với nghĩa binh của ông Phan lần nào. Ông ta cho làm một lá cờ bằng lụa đỏ thật lớn: "Tặc Phùng bố tử", nghĩa là "tên giặc Phùng sợ quá chết rồi", và sai lính vác lá cờ ấy, cưỡi ngựa lưu tinh chạy đêm ngày về kinh báo tiệp. Hơn thế nữa, Nguyễn Thân còn sai Tuần phủ Đinh Nho Quang soạn gắp bài văn bia, cho khắc vào đá, dựng trên Tùng Sơn: ::''Vệ giang chi anh, ::''Thạch trụ chi kinh. ::''Thế xuất tuấn kiệt, ::''Vị xã tắc sanh. ::''Tây bình hữu tử, ::''Đẩu nam đại danh. ::''Hồng Lam thiên cổ, ::''Bi kê tranh tranh." :::(Dịch nghĩa: Đại ý nói khí thiêng sông núi Vệ Giang, Thạch Trụ, (quê hương của Nguyễn Thân) chung đúc ra người anh tài, cha truyền con nối, vì giang sơn xã tắc mà đẻ ra để giúp giang sơn xã tắc. Cha trước đã anh hùng, giờ tới con cũng lập nên công nghiệp lớn (chỉ việc đánh dẹp Phan Đình Phùng), bia đá chép công, rạng tỏ đất Hồng Lam đến muôn đời.)

:Chỉ ba năm sau, bia đá ấy bị sét đánh bể ra làm mấy mảnh, rồi thì cỏ mọc rêu phong, ruồi bâu, chuột ở; ít lâu sau người Pháp lại phá trái núi ấy đi, thành ra tấm bia mất tích, không còn ai nhìn biết hồi trước nó ở chỗ nào nữa...

:Nguyễn Thân bán nước, theo giặc giết dân, đã không biết tự thẹn còn kiêu căng lập bia khoe khoang, chẳng bao lâu thì chính tấm bia đó bị Trời đánh vỡ, mảnh vỡ lại bị chính quan thầy Pháp ném mất. Người yêu nước đương thời biết chuyện "quả báo nhãn tiền" này thì đều vui mừng hả dạ.

Nhận xét

Nghĩa hội Quảng Nam do Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến tổ chức. Sau đó Nguyễn Thân dẫn quân triều đình nhà Nguyễn cùng quân Pháp đánh tan tác Nghĩa hội, làm cho Nguyễn Duy Hiệu bị xử tử và Phan Bá Phiến phải tự vẫn để giữ tròn khí tiết. Kể lại chuyện này, nhà chí sĩ Phan Bội Châu viết: :Nguyễn Thân, người Quảng Ngãi, trước cũng dự tên Nghĩa hội, sau phản Nghĩa hội theo Pháp... Đây là tay đầu sỏ nhất trong bọn nô lệ Pháp...(dù) Hiệu, Phiến ở đâu, tất nó hết sức dò la cho ra...

Ở trang nói về công cuộc kháng chiến chống Pháp của Lê Trung Đình và Trần Du, Phan Bội Châu cũng đã phê phán rằng: :''Hai ông đều là người Quảng Ngãi, đồng hương với Nguyễn Thân. Thế mà đồng chủng lại không yêu đồng chủng cũng đã là nhẫn tâm, nay lại vác dao cầm giáo vì bọn dị chủng mà giết cho hết đồng chủng của mình mới thôi, thì nhẫn tâm biết chừng nào!

Về việc Nguyễn Thân phát điên mà chết, có người làm thơ cho đó là sự báo ứng thích đáng của Trời dành cho kẻ bán nước, làm tay sai cho giặc: ::Nguyễn Thân theo giặc, kẻ tanh hôi! ::Bán nước cầu vinh, hại giống nòi! ::Lồng lộng lưới Trời, sao tránh khỏi ::Muôn đời tiếng xấu, nhuốc nhơ thôi!

Trước 1975, trong Việt Nam cách mạng cận sử của Phạm Văn Sơn cũng có đoạn: :Nguyễn Thân là người hung ác, hiểm độc lắm và hay giết người. Trong lúc dùng binh, ông giết người ta không biết bao nhiêu mà kể. sau về hưu trí ở làng Thu Xà bị bệnh điên cuồng mà chết. Người ta nói ông bị những oan qủy báo oán. Và tòa nhà lộng lẫy của ông lập ngay trên một trái núi con ở Thu Xà, người ta cũng đồn cái nhà ấy nhiều ma, cho nên khi ông chết đi rồi thì nhà bị bỏ hoang...

Paul Doumer, toàn quyền thực dân Pháp ở Đông Dương ca ngợi sự phục vụ của Nguyễn Thân như sau: Ngay từ phút ban đầu, ông ấy đã có được sự tín nhiệm của tôi. Tôi hoàn toàn tin tưởng, vì An Nam giờ đã ở trong tình hình khác hẳn với thời kỳ trước đó và không có cuộc nổi loạn nào nữa. Nguyễn Thân đã cống hiến cho cả đất nước mình và nước Pháp.

Một chí sĩ người Việt yêu nước đương thời từng nhận xét: :“Phàm người Việt mà đi làm tôi tớ cho người Pháp đều là bọn tham bỉ mất lương tâm, quỳ lạy giống khác, xẻo thịt đồng bào, không bằng cầm thú… Hai người ấy (Hoàng Cao Khải và Nguyễn Thân) đành bỏ tất cả liêm sỉ danh tiết một người đời, đem hết tâm huyết tài lực giết hại đồng bào để cầu được công với người Pháp, chẳng qua là chỉ thèm thuồng ba chữ “có quyền thế” đó thôi…”

Dân gian còn lưu truyền “công trạng” của Nguyễn Thân bằng những câu ca dao: :Hỏi ai bán nước buôn dân :Ấy Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân một phường :Hoàng Cao nhục nhã đã xong :Nguyễn Thân đâu cũng vào vòng khuyển nô :Lại cùng Tây tặc mưu mô :Người Nam lại phá cơ đồ nước Nam!

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Thân** (chữ Hán: 阮紳, 1854–1914), biểu tự **Thạch Trì** (石池), là võ quan nhà Nguyễn dưới triều vua Đồng Khánh, từng phối hợp với thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong
phải|nhỏ|247x247px| Minh họa của [[René Descartes về thuyết nhị nguyên. Đầu vào được chuyển bởi các cơ quan giác quan đến tuyến tùng trong não và từ đó đến tinh thần phi vật chất. ]]
**Nguyễn Thần Hiến** (1857-1914), tự: **Phác Đình**, hiệu: **Chương Chu**; là người đã sáng lập ra "Quỹ Khuyến Du học hội" nhằm vận động và hỗ trợ cho học sinh sang Nhật Bản học, là
**_Ước nguyện thần long_** (tên gốc tiếng Anh: **_Wish Dragon_**) là phim điện ảnh hoạt hình máy tính hài giả tưởng năm 2021 do Chris Appelhans viết kịch bản kiêm đạo diễn, với các hãng
thumb|Ba linh mục Phêrô Nguyễn Văn Tường, Phêrô Đậu Quang Lĩnh và Gioan Baotixita Nguyễn Thần Đồng trước phiên tòa đại hình ngày 18 tháng 10 năm 1909. Linh mục Đồng là người đeo gông
Nguyên Thủy Thiên Tôn **Nguyên Thủy Thiên Tôn** (chữ Hán: 元始天尊) là vị thần tiên tối cao của Đạo giáo, đứng thứ hai trong Tam Thanh với ngôi vị Ngọc Thanh. Hai vị kia là
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
**Nguyễn Kim** (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Human_artifacts_at_CMNH_-_37.JPG|nhỏ|Các vị thần Ai Cập trong [[Bảo tàng lịch sử tự nhiên Carnegie|Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Carnegie]] **Thuyết đa thần (Polytheism)** là sự tôn thờ hoặc tín ngưỡng vào nhiều vị thần,
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Nguyễn Thuật** (1842-1911), tự: **Hiếu Sinh**, hiệu: **Hà Đình**; là danh sĩ và là danh thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Nguyễn Thuật** sinh ngày 13 tháng
**Nguyễn Thị Anh** (chữ Hán: 阮氏媖; 1879 – ?), phong hiệu **Hoàng quý phi** (皇貴妃), là một cung phi của vua Thành Thái nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Vua Duy Tân lên ngôi
nhỏ|239x239px|Chân dung ông Thân Trọng Huề **Thân Trọng Huề** (申仲, 1869-1925), tự là **Tư Trung**; là danh thần và danh sĩ cuối triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là ông ngoại của Trần
**Thuyết nhất nguyên**, hay **nhất nguyên luận** là quan niệm thần học và siêu hình học cho rằng tất cả thế giới đều thuộc về một bản chất, nguyên lý, chất hay năng lượng, tất
**Hoàn Trạch** (chữ Hán: 完泽, 1246 – 1303), người thị tộc Thổ Biệt Yến (Tǔbiéyān), bộ tộc Khắc Liệt (Keraites), dân tộc Mông Cổ, thừa tướng nhà Nguyên. ## Thân thế Ông nội là Thổ
nhỏ| Cuốn sách thần chú [[thế kỷ 19, được viết bởi một bác sĩ người Wales ]]**Thần chú**, **chú ngữ** (), **bùa chú** hay **bùa mê** (enchantment) là một công thức ma thuật nhằm kích
**Nguyễn Tấn** (阮縉, 1822-1871), tự là **Tử Vân**, là một võ quan nhà Nguyễn đời vua Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. Ông thành danh là nhờ công đánh dẹp các cuộc nổi dậy
**Nguyễn Thị Định** (chữ Hán: 阮氏定, 1883 – 29 tháng 5 năm 1971), phong hiệu **Tài nhân** (才人), là một thứ phi của vua Thành Thái và là mẹ của vua Duy Tân nhà Nguyễn
**Nguyễn Thái Đễ** (chữ Hán: 阮蔡悌; 1803 - 1856), hiệu **Văn Sơn**, là một vị đậu đại khoa của đất Đô Lương, Nghệ An vào triều Nguyễn. ## Thân thế Nguyễn Thái Đễ, vốn tên
**Nguyễn Bá Nhạ** (阮伯迓, 1822-1848) quê xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông đỗ Hoàng giáp khoa Quý Mão (1843) đời Thiệu Trị năm 22 tuổi, làm chức tri phủ . ##
**Nguyễn Xuân Thục** (chữ Hán: 阮旾俶,; 1762 - 1827), người huyện Quảng Phúc (hay _Quảng Phước_, nay thuộc thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) từng làm Phó sứ Sơn Lăng lo việc xây cất
**Nguyễn Thu** (chữ Hán: 阮𠈅; 1799-1855), hiệu là **Tĩnh Sơn tiên sinh**, **Cửu Chân Tĩnh Sơn**, tự là **Tỉnh Chất**, là một danh sĩ và nhà sử học Việt Nam đầu thời Nguyễn. ## Thân
**Nguyễn Thận** hay **Lê Thận** (?-7/1448) là công thần khai quốc và đại thần ba triều vua thời Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, làm đến chức Đại tư đồ dưới triều vua Lê
**Nguyễn Phúc Bửu Tán** (chữ Hán: 阮福寶巑; 1882 – 8 tháng 5 năm 1941), thường được gọi là **Ông Hoàng Chín**, tước phong **Tuyên Hóa vương** (宣化王), là một hoàng tử con vua Dục Đức
**Raphael Nguyễn Văn Diệp** (1926–2007) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò giám mục phó Giáo phận Vĩnh Long trong khoảng thời gian kéo
nhỏ|196x196px|Chân dung Bà Chúa Nhất **Nguyễn Phúc Tốn Tùy** (còn có âm đọc là **Tôn Thụy**) (chữ Hán: 阮福巽隨; 1872 – 1964), thường được gọi là **Bà Chúa Nhất**, phong hiệu **Mỹ Lương Công chúa**
**_Wrath of the Titans_** là bộ phim thần thoại Hy Lạp,phần tiếp theo của bộ phim _Clash of the Titans_. Bộ phim được đạo diễn bởi Jonathan Liebesman, dựa theo kịch bản của Dan Mazeau
**Mỏ than Turów** () hoặc **KWB Turów**, là một mỏ khai thác lớn ở phía tây nam Ba Lan, nằm bên ngoài Bogatynia, Lower Silesia. Nằm cách 55 km về phía tây của Jelenia Góra, cách
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
nhỏ|Sách _Mitologia Comparata (Thần thoại đối chiếu)_ năm 1887 bằng [[tiếng Ý]] **Thần thoại học** (tiếng Hy Lạp: _μυθολογία_ ghép từ _μῦθος_ - "thần thoại" hay "truyền thuyết" và _λόγος_ - "lời nói", "câu chuyện",
Một [[bản đồ não tướng học về bộ não người có từ năm 1894. Não tướng học là một trong những nỗ lực đầu tiên liên hệ những chức năng tinh thần với những phần
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
Tượng bán thân [[Zeus ở Otricoli (Sala Rotonda, Museo Pio-Clementino, Vatican), tỉnh Terni. Trong thần thoại Hy Lạp, Zeus là chúa tể các vị thần, ngự trên đỉnh Olympus.]] **Thần thoại Hy Lạp** là tập
**Chán ăn tâm thần** (tiếng Anh: _anorexia nervosa_), hay **chán ăn tâm lý**, **biếng ăn tâm lý**, là một dạng của bệnh rối loạn ăn uống, có các triệu chứng như trọng lượng cơ thể