✨Nguyễn Phúc Lan

Nguyễn Phúc Lan

Nguyễn Phúc Lan (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay Nguyễn Thần Tông, Chúa Thượng là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam, cai trị từ năm 1635 đến năm 1648. Chúa Phúc Lan kế ngôi cha là Nguyễn Phúc Nguyên, tiếp tục xây dựng cơ đồ họ Nguyễn ở Nam Hà và đánh bại hai đợt tấn công của chúa Trịnh năm 1643, 1648.

Thân thế

Nguyễn Phúc Lan là con trai thứ hai của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, mẹ là Mạc Thị Giai (con gái của tướng Mạc Kính Điển, hoàng thân nhà Mạc).

Lúc đầu, ông được phong chức Phó tướng Nhân Lộc Hầu.

Năm Tân mùi (1631), công tử trưởng Phúc Kỳ mất, ông được lập làm Thế tử.

Năm Ất hợi (1635), chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên qua đời, ông vâng lời di chúc, các quan tôn ông làm Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh kiêm Tổng Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Nhân Quận Công.

Lúc ấy ông đã 35 tuổi. Thời bấy giờ gọi là Chúa Thượng.

Điều hành Đàng Trong

Em trai của ông là Nguyễn Phúc Anh đang là Trấn thủ Quảng Nam, nghe tin anh lên ngôi liền bí mật đầu hàng chúa Trịnh, cho đắp lũy Cu Đê để cố thủ, bày thủy quân ở Đà Nẵng chống lại chúa. Chúa cho mời chú của mình là Tường Quận công Nguyễn Phúc Khê vào bàn. Ông Khê cứng rắn, quyết đánh không nhân nhượng, xin ông đặt phép nước lên tình nhà rồi cùng Nguyễn Phúc Yên kéo quân vào đánh, bắt được Anh, lấy nghĩa Anh em là tình riêng, phép nước là nghĩa lớn, rồi đem giết đi.

Theo sách Đại Nam thực lục tiền biên: "Chúa đã nắm chính quyền, lấy ơn huệ vỗ về dân chúng. Bấy giờ mưa nắng thuận hòa, nước giàu dân thịnh, có cảnh tượng thái bình rực rỡ".

Khi chúa Phúc Lan mới lên thay chúa Phúc Nguyên, quan trấn giữ biên thùy cho chúa Trịnh là Nguyễn Khắc Liệt hay đem quân quấy phá Nam Bố Chính, dù trước đó Khắc Liệt đã ngầm phục tùng chúa Phúc Nguyên. Chúa Phúc Lan bèn theo kế ly gián của Nguyễn Hữu Dật, phao thư cho họ Trịnh rằng Khắc Liệt giả vờ thua để dụ chúa Trịnh Tráng đến để giết. Chúa Trịnh sai Trịnh Kiều đem 5000 quân đi bắt Khắc Liệt, đồng thời chúa Nguyễn cũng sai mang quân đi đánh làm Khắc Liệt bỏ chạy. Quân Trịnh tưởng Liệt giả đò thua, bèn bắt sống, giải về, và giết hắn đi. Tháng 6 năm 1640, đất Bắc Bố Chính rơi vào tay chúa Nguyễn.

Nhưng sau đó chúa Trịnh Tráng gửi phục thư nói về tình nghĩa lâu đời và xin trả lại Bắc Bố Chính, chúa Phúc Lan thuận trả cho.

Sau giai đoạn này, chúa Nguyễn có phần bỏ bê chính sự, chăm vui chơi yến tiệc, xây dựng cung thất nhưng nhờ có lời can gián của quan nội tán Vân Hiên Hầu mà tỉnh ngộ.

Tháng 5 năm 1642, Chúa cho dựng thao trường để rèn thủy quân tại xã Hoằng Phúc kỳ tháng 7 hằng năm.

Dời thủ phủ

thumb| Sơ đồ dinh Kim Long Qua năm sau (1636), ông cho dời phủ từ làng Phước Yên (Quảng Điền, Thừa Thiên) qua làng Kim Long (Hương Trà, Thừa Thiên).

Phủ Kim Long rộng rãi, cảnh trí xinh đẹp, phủ Chúa và nhà quan lại còn lan ra các làng chung quanh. Kim Long đã mang lại nhiều lợi ích cho nền thương mại trong thời. Các thuyền buôn từ Hội An, Trung Hoa ghé Thuận An đi dọc theo sông Hương lên Huế. Nhờ đó mà phẩm vật của người Âu và Trung Hoa (tơ sống, thuốc Bắc, bút chì...đều được mang bán tại Huế. Khách phương xa ghé đến Kim Long không khỏi ngạc nhiên khí thấy cảnh tượng huy hoàng của phủ Chúa và các nhà quan lại. Mỗi khi ông ngự đi đâu đều có hơn hai nghìn thị vệ theo hầu, tiền hô hậu ủng, cờ xí rợp trời, oai vệ khác thường. và khoa hoa văn đều đến công phủ để ứng thi.

*Chính đồ thi 3 ngày: Ngày thứ nhất thi tứ lục. Ngày thứ hai thi thơ phú. Ngày thứ 3 thi văn sách :Lấy văn chức, tri phủ, tri huyện làm sơ khảo; cai bạ, ký lục, nha úy làm giám khảo; nội tả, nội hữu, ngoại tả, ngoại hữu làm giám thí. :Người thi trúng thì làm danh sách để tiến lên, định làm 3 hạng giáp, ất, bính. :Hạng giáp là giám sinh, bổ tri phủ tri huyện; hạng ất làm sinh đồ, bổ huấn đạo; hạng bính cũng làm sinh đồ, bổ lễ sinh hoặc cho làm nhiêu học mãn đại.

  • Hoa văn thi 3 ngày, mỗi ngày đều viết một bài thơ. Người trúng cũng chia làm 3 hạng, bổ làm việc ở ba ty Xá sai, Lệnh sử và Tướng thần lại và cho làm nhiêu học.

Tháng 8 năm thứ 12 (1647), chúa Phúc Lan bắt đầu mở khoa thi, lấy 7 người trúng chính đồ, 24 người trúng hoa văn, đều được bổ dụng.

Vụ Tống Thị

Tống Thị Toại là vợ của trấn thủ Quảng Nam Nguyễn Phúc Kỳ, người con trưởng đột ngột qua đời (22-7-1631).

Tham vọng của Tống Thị rất lớn, không thể trở thành chính phi thì phải trở thành chủ của kho báu mới được. Nhờ vào địa vị của mình với Chúa, Tống Thị ra tay làm giàu bằng cách nhận hối lộ của những kẻ luồn cúi cầu cạnh, thẳng tay bóc lột dân đen.

Bá quan trong phủ Chúa và nhân dân rất căm phẫn, có người quyết chí phải giết cho bằng được Tống Thị mới thôi. Tống Thị sợ, bèn nhân có cha là Tống Phước Thông đang được Trịnh Tráng tin dùng, Tống Thị bí mật gởi thư xin Trịnh Tráng cất quân. Tống Thị hứa đem gia tài giúp vào việc quân. Tráng nhận thư, liền bàn việc xâm lấn Đàng Trong.

Năm 1643, quân Trịnh vào Nam nhưng không thu được thắng lợi gì, Tống Thị cũng may mà không bị chúa Nguyễn Phúc Lan trị tội.

Tháng 4 năm 1654, vào đời chúa sau là Nguyễn Phúc Tần, Tống Thị lại phạm tội một lần nữa. Nguyên là trước kia, khi Tống Thị đã thông dâm với Chúa Thượng. Quan Chưởng cơ Nguyễn Phúc Trung (Tôn Thất Trung - em ruột Chúa Thượng) muốn giết đi, Tống Thị sợ quá bèn tìm cách chiều chuộng Trung, rốt cuộc 2 người tư thông với nhau. Nghe lời Tống Thị, Tôn Thất Trung tính làm chuyện phản nghịch để đoạt ngôi chúa. Cơ mưu bị bại lộ, Tôn Thất Trung bị tống giam còn Tống Thị thì bị xử tử, gia sản to lớn bị tịch thu.

Xung đột với Hà Lan

Sự vụ tàu Hà Lan Grootebroek bị đắm năm 1634 tại quần đảo Hoàng Sa, thuyền trưởng Huijich Jansen và 12 thủy thủ đi bằng thuyền nhỏ vào duyên hải xứ Đàng Trong để trình báo sự việc và bị tịch thu 23.580 réaux bởi nhà chức trách xứ Đàng Trong thời Chúa tiền nhiệm Phúc Nguyên. Hai năm sau, dưới thời Chúa Thượng Phúc Lan, ngày 6 tháng 3 năm 1636, 2 tàu Hà Lan khác tới Đà Nẵng. Thương gia Abraham Duijeker tiến về Hội An để gặp quan Trấn thủ; sau đó ông ta đi Thuận Hóa yết kiến Chúa Thượng, để xin giao thương, đặt thương điếm và đòi số tiền 23.580 réaux đã bị tịch thu năm kia.

Để bù vào sự thiệt thòi đó, Chúa Thượng chấp thuận cho người Hà Lan được tự do giao thương với xứ Đàng Trong, và miễn cho họ sắc thuế neo bến và các tặng phẩm. Vì lẽ đó mà từ năm 1636, một thương điếm của người Hà Lan đã được thiết lập tại Hội An, do Abraham Duijeker làm Trưởng Thương điếm.

Bắt đầu từ năm 1641, tàu chiến của Hà Lan liên tục cướp phá, quấy rối và hăm he tấn công Đàng Trong. Tháng 11 năm 1641, hai con tàu của Hà Lan bị quân đội chúa Nguyễn đánh đắm gần bờ biển đảo Cù Lao Chàm do xâm phạm lãnh hải. 82 người lính Hà Lan bị chúa Nguyễn bắt giam ở Hội An và Chúa Nguyễn đã tịch thu cả hai con tàu đó.

Tháng 5 năm 1642, Công ty Đông Ấn Hà Lan cử nhiều tàu chiến đi lùng bắt dân chúng, cướp bóc, đốt phá ở khu vực duyên hải miền Trung.

Tháng 6 năm 1643, theo đề nghị của chúa Trịnh, ba tàu chiến Hà Lan là Wojdenes (De Wijdeness), Waterhond và Vos tiến vào cửa Thuận An đánh chúa Nguyễn. Thế tử Nguyễn Phúc Tần chưa được lệnh của cha đã chỉ huy khoảng hơn 50 tàu đột kích bất ngờ. Tàu đô đốc Wijdenes, là chiếc nặng nhất và chậm nhất trong số 3 tàu đó, bị bốn thuyền chèo tay đuổi kịp, đánh gãy mất bánh lái, đánh đổ cột buồm và bám vào hai bên mạn tàu; viên thuyền trưởng Pieter Baek không hy vọng chạy thoát được nữa, cho châm lửa vào kho thuốc súng và tự đốt cháy tàu, Pieter Baek và nhiều thủy thủ đã bị chết. Hai chiếc tàu kia, theo lời của Jean Gobyn, phải rất chật vật mới tìm được một chỗ trú ở đảo Ngọc (Ile de Perles).

Sau trận này, Công ty Đông Ấn Hà Lan không còn gửi tàu bè đến Đàng Trong.

Chiến tranh với quân Trịnh

Cuộc chiến 1643

Tháng 2 năm 1643, Chúa Trịnh Tráng sai thái bảo Trịnh Tạc, Trịnh Đệ đem đại quân đánh Nam Bố Chính. Quân Trịnh ồ ạt tiến công giết chết tướng quân Nguyễn là Bùi Công Thắng, chiếm được Nam Bố Chính, tiến lên đóng ở cửa Nhật Lệ.

Tháng 4, chúa Trịnh sai Trịnh Đào đánh lũy Trung Hòa. Quân Nguyễn phòng thủ vững chắc, Trịnh Đào không hạ được lũy. Lại gặp lúc mùa hè, khí hậu oi bức, quân Trịnh bị bệnh nhiều nên chúa Trịnh đành ra lệnh lui quân.

Cuộc chiến 1648

Tháng 2 âm lịch năm 1648, Trịnh Tráng sai Tiến Quận Công Lê Văn Hiểu khởi binh nam tiến lần thứ tư, dẫn bộ binh tiến lên đóng ở đất Nam Bố Chính, còn thủy quân đánh cửa Nhật Lệ. Quân Nguyễn ra chống lại bị bất lợi, Cai đội Trương Triều Lương và Trương Triều Nghị tử trận. Quân Trịnh bèn tiến đánh dinh Quảng Bình.

Chúa Phúc Lan và thế tử Phúc Tần mang quân cứu viện ra Quảng Bình. Chúa Phúc Lan thân đốc đại binh, đóng trại ở xã Trung Chi, thủy quân phục sẵn ở sông Cẩm La, sai Nguyễn Hữu Tiến mang 100 con voi đánh úp quân Trịnh lúc nửa đêm, quân bộ tiếp sau vào đánh phá. Quân Trịnh thua lớn, bị thủy quân Nguyễn chặn đánh chạy đến tận sông Lam mới thôi.

Trận ấy quân họ Nguyễn bắt được các tướng Gia, Lý, Mỹ (trong đó Mỹ tự sát) và 3.000 quân của họ Trịnh. Chúa Phúc Lan đã bàn với các tướng về cách xử lý tù binh. Có người đề nghị cho tù binh Trịnh vào vùng núi sâu, hải đảo để đề phòng hậu họa; người khác lại đề xuất giết các tướng hiệu, thả binh sĩ về Đàng Ngoài. Nhưng chúa Phúc Lan không đồng ý, ông nói: "Hiện nay từ miền Thăng (tức phủ Thăng Bình) Điện (tức phủ Điện Bàn) trở vào Nam đều là đất cũ của người Chàm, dân cư thưa thớt, nếu đem chúng an tháp vào đất ấy, cấp cho canh ngưu điền khí chia ra từng bộ từng xóm, tính nhân khẩu cấp cho lương ăn để chúng khai khẩn ruộng hoang, thời trong khoảng mấy năm, thuế má thu được có thể đủ giúp quốc dụng, và sau hai mươi năm, sinh sản ngày nhiều, có thể thêm vào quân số, có gì mà lo về sau!". Chúa thả hơn 60 tướng Trịnh về miền Bắc, rồi cho tù binh vào Nam định cư, lập ấp, mỗi ấp gồm 50 người, đều được cấp lương ăn nửa năm. Chúa còn truyền lệnh các nhà giàu cho họ vay thóc, chỉ cho họ những lợi núi đầm để sinh sống. Theo Đại Nam thực lục: "Từ đó từ Thăng, Điện đến Phú Yên, làng mạc liền nhau, về sau sẽ thành hộ khẩu".

Tháng 3 năm 1648, quân Nguyễn định vượt sông Gianh đánh ra Bắc Bố Chính thì nghe tin chúa Nguyễn ngã bệnh chết trên thuyền trên đường về Thuận Hóa nên phải lui binh.

Qua đời

Cuộc chiến lần thứ 4 với quân Trịnh, Chúa Phúc Lan đã phải tự cầm quân ra hỗ trợ. Sau Chúa thấy trong người không được khỏe, mới trao binh quyền cho con trai là Nguyễn Phúc Tần và tướng Nguyễn Hữu Dật chỉ huy còn mình thì rút về. Đến phá Tam Giang thì Chúa mất, hưởng thọ 48 tuổi. Lăng mộ táng tại núi An Bằng, phủ Thừa Thiên, tên lăng là Trường Diên .

Con trai ông là Nguyễn Phúc Tần lên kế nghiệp, tức Hiền vương.

Nhà Nguyễn về sau thu được thiên hạ đã truy phong ông miếu hiệu là Thần Tông, thụy là Thừa Cơ Toản Thống Quân Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Vũ Hiếu Chiêu hoàng đế.

Gia quyến

Thượng vương Nguyễn Phúc Lan có 3 công tử và 1 công nữ:

Vợ

Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc, mẹ sinh của cả ba công tử.

Công tử

Nguyễn Phúc Vũ, mất sớm.

Nguyễn Phúc Tần, tức chúa Hiền.

Nguyễn Phúc Quỳnh, mất sớm.

Công nữ

  • Nguyễn Phúc Ngọc Dung, lấy Chưởng cơ tên Minh. Mất sớm.
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Nguyễn Phúc Trung** (chữ Hán: 阮福忠), sau gọi là **Tôn Thất Trung**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Ông nổi tiếng vì vụ bê bối
**Nguyễn Phúc Kỳ** (chữ Hán: 阮福淇, ? - 22 tháng 7, 1631), về sau gọi là **Tôn Thất Kỳ** (尊室淇) hay **Ông Hoàng Kỳ**, là một vị thế tử dưới thời chúa Nguyễn ở Đàng
**Nguyễn Phúc Anh** (chữ Hán: 阮福渶, 1601 - 1635), còn gọi là **Tôn Thất Anh**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Lúc sinh thời ông
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Phúc Luân** (chữ Hán: 阮福㫻, 11 tháng 6 năm 1733 - 24 tháng 10 năm 1765) hay **Nguyễn Phúc Côn**, còn gọi là **Nguyễn Hưng Tổ** (阮興祖), là một Vương tử ở Đàng Trong,
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Quang** (chữ Hán: 阮福㫕, 10 tháng 9 năm 1811 – 29 tháng 6 năm 1845), tước phong **An Khánh vương** (安慶王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Miên Nghi** (chữ Hán: 阮福綿宜; 30 tháng 12 năm 1810 – 12 tháng 8 năm 1874), là một hoàng tử của nhà Nguyễn. Ông nổi tiếng là người có tài thơ ca và
**Nguyễn Phúc Bính** (chữ Hán: 阮福昞; 6 tháng 9 năm 1797 – 16 tháng 8 năm 1863), tước phong **Định Viễn Quận Vương** (定遠郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phước Mỹ Đường** (阮福美堂, 1798 - 1849), còn có tên là **Nguyễn Phước Đán** (阮福旦) là hoàng thân nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, là đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long.
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
**Nguyễn Phúc Ngọc Cầu** (chữ Hán: 阮福玉球; 1734 – 8 tháng 7 năm 1804), là một Công nữ, đồng thời là một cung tần của Chúa Nguyễn Phúc Khoát trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Điền** (chữ Hán: 阮福沺; 14 tháng 4 năm 1700 – 23 tháng 7 năm 1739), tước phong **Dận Quốc công** (胤國公), là một công tử con của chúa Nguyễn Phúc Chu trong lịch
**Nguyễn Thị Lan** (chữ Hán: 阮氏蘭; ? – 1714), phong hiệu **Kính phi Phu nhân** (敬妃夫人), là một cung tần của Minh vương Nguyễn Phúc Chu trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Kính
**Nguyễn Phúc Bửu Trác** (Hán Nôm: **阮福寶卓**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông sinh năm 1887 tại Huế, thuộc đệ tam hệ chánh phòng Văn Lãng quận vương Nguyễn Phúc
**Nguyễn Phúc Tấn** (chữ Hán: 阮福晉; 21 tháng 3 năm 1799 – 17 tháng 7 năm 1854), còn có huý là **Thản**, tước phong **Diên Khánh Vương** (延慶王), là một hoàng tử con vua Gia
**Nguyễn Phúc Hồng Hưu** (chữ Hán: 阮福洪休; 2 tháng 10 năm 1835 – 9 tháng 5 năm 1885), còn có tên khác là **Thuyên** (佺). Lúc còn nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, biết lĩnh
:_Bài này viết về công chúa con vua Gia Long, về công nữ có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến** (chữ Hán: 阮福玉玔; 20 tháng 10 năm 1792 – 1851),
**Nguyễn Phúc Ngọc Anh** (chữ Hán: 阮福玉瑛; 1790 – 1850), phong hiệu **Bảo Lộc Công chúa** (保祿公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1835)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Nguyễn Phúc Đài** (chữ Hán: 阮福旲; 5 tháng 10 năm 1795 – 14 tháng 11 năm 1849), tước phong **Kiến An vương** (建安王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Hồng Y** (chữ Hán: 阮福洪依, 11 tháng 9 năm 1833 – 23 tháng 2 năm 1877), tôn hiệu **Thụy Thái vương** (瑞太王) (còn được đọc trại thành **Thoại Thái vương**), biểu tự **Quân
**Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo** (富平郡王 阮福綿; 4 tháng 1 năm 1817 - 1 tháng 2 năm 1865), trước tên là **Nguyễn Phúc Miên An** (阮福綿安), là một hoàng tử của Hoàng
**Nguyễn Phúc Thiện** (sinh ngày 15 tháng 3 năm 1993) là một nam nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất thu âm người Việt Nam. Anh là em trai của Only C. ## Tiểu sử Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Kiền** (chữ Hán: 阮福綿𡨊; 28 tháng 9 năm 1831 – 20 tháng 7 năm 1854), tự là **Trọng Cung** (仲恭), **Thúc Cung** (叔恭), hiệu là **Chi Hựu** (止囿). Ông là người con
**Nguyễn Phúc Ngọc Quỳnh** (chữ Hán: 阮福玉瓊; 1788 – 1849), phong hiệu **Bình Hưng Công chúa** (平興公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Bửu Hội** (1915 – 28 tháng 1 năm 1972) là nhà ngoại giao và nhà khoa học Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Phúc Bửu Hội quê quán ở Huế. Thân phụ của
**Nguyễn Phúc Ngọc Ngôn** (chữ Hán: 阮福玉琂; 11 tháng 8 năm 1804 – 1856), phong hiệu **An Nghĩa Công chúa** (安義公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
nhỏ|Chân dung hoàng thân Ưng Úy **Nguyễn Phúc Ưng Úy** (1889 - 1970), là một hoàng thân thuộc phủ Tuy Lý vương của nhà Nguyễn. ## Tiểu sử Công tôn Ưng Úy, sinh năm Kỉ
**Nguyễn Phúc Chẩn** (chữ Hán: 阮福昣; 30 tháng 4 năm 1803 – 26 tháng 10 năm 1824), tước phong **Thiệu Hóa Quận Vương** (紹化郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Phú** (chữ Hán: 阮福綿富; 28 tháng 2 năm 1817 – 15 tháng 4 năm 1885), tước phong **Phù Mỹ Quận công** (符美郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Dần** (chữ Hán: 阮福綿寅, 18 tháng 4 năm 1829 – 9 tháng 3 năm 1885), tước phong **Trấn Tĩnh Quận công** (鎮靖郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Vĩnh Thọ** (1 tháng 10 năm 1915 – 14 tháng 7 năm 2009) tên thường gọi là **Vĩnh Thọ**, là quan chức và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, đồng thời là
**Nguyễn Phúc Ngọc Châu** (chữ Hán: 阮福玉珠; 1782 – 1847), phong hiệu **Bình Thái Công chúa** (平泰公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Miên Uyển** (chữ Hán: 阮福綿宛; 12 tháng 2 năm 1833 – 30 tháng 11 năm 1893), tước phong **Quảng Hóa Quận công** (廣化郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1820)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Nguyễn Phúc Miên Gia** (chữ Hán: 阮福綿家; 22 tháng 5 năm 1826 – 20 tháng 7 năm 1875), tước phong **Quảng Biên Quận công** (廣邊郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Phổ** (chữ Hán: 阮福普; 3 tháng 5 năm 1799 – 11 tháng 9 năm 1860), tước phong **Điện Bàn Công** (奠盤公), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Phương Mai** (1 tháng 8 năm 1937 – 16 tháng 1 năm 2021), phong hiệu Thái Công tước Phu nhân xứ Addis Ababa và Thái Hầu tước Phu nhân xứ Sabotino, là con
**Nguyễn Phúc Nhàn Tuệ** (chữ Hán: 阮福嫻慧; 18 tháng 12 năm 1835 – 10 tháng 2 năm 1863), phong hiệu **Mỹ Thuận Công chúa** (美順公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn