✨Nguyễn Tấn (quan nhà Nguyễn)

Nguyễn Tấn (quan nhà Nguyễn)

Nguyễn Tấn (阮縉, 1822-1871), tự là Tử Vân, là một võ quan nhà Nguyễn đời vua Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. Ông thành danh là nhờ công đánh dẹp các cuộc nổi dậy của các dân tộc ở Đá Vách thuộc phía tây tỉnh Quảng Ngãi (Việt Nam) suốt sáu năm liền.

Tiểu sử

Nguyễn Tấn sinh tại làng Thạch Trụ thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Trước đây, tổ tiên ông ở Chương Nghĩa (nay là huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi), sau mới dời đến ở làng Thạch Trụ. Chưa tra được cha Nguyễn Tấn là ai, chỉ biết nội ông là Nguyễn Công Tuy, làm Tri phủ Kiến Xương (Thái Bình), vì có lỗi phải miễn chức.

Thuở nhỏ, Nguyễn Tấn chăm học. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), ông thi đỗ Cử nhân, được bổ Giáo thụ, rồi trải qua chức Tri huyện, Tri phủ. Năm Tự Đức thứ 3 (1855), ông làm Giám sát ngự sử, đàn hặc nhiều việc hợp ý vua.

Gặp lúc biên giới Bắc Hà không yên, ông được sung chức Bang biện Hưng Yên tỉnh vụ. Đến đó, ông giải vây được Đường Hào , nên được làm Thự án sát sứ Thái Nguyên.

Năm Tự Đức thứ 17 (1864), lại gặp lúc các dân tộc ở Đá Vách thuộc phía tây tỉnh Quảng Ngãi nổi dậy, Nguyễn Tấn hay tin liền dâng sớ xin đi đánh dẹp. Nhà vua khen ngợi, thăng cho ông làm Thị độc, sung chức Tĩnh Man tiễu phủ sứ. Đến quân thứ, ông cho đặt thêm đồn bảo, khích lệ tướng sĩ rồi dốc hết lực lượng đánh phá các căn cứ của quân nổi dậy. Khiếp sợ, các sách Man thuộc cơ Thanh Bồng, Lang Lôi, Lang Y, Nước Trang, Nước Lũng, Nước Nhĩ... đều lần lượt ra đầu hàng hoặc trốn xa. Vừa tiểu trừ, vừa phủ dụ, "ác Man" (gọi theo sử nhà Nguyễn) đều dẹp được hết. Lập đại công, Nguyễn Tấn được thưởng một tấm khánh bằng vàng tía khắc bốn chữ: Liêm, Bình, Cần, Cán; được thăng chức Binh bộ Tả thị lang, nhưng vẫn làm nhiệm vụ cũ.

Năm Tự Đức thứ 23 (1870), việc quân ở Bắc Kỳ luôn thất lợi, Nguyễn Tấn xin ra giúp. Xét không có người thay ông để lo việc Đá Vách, nhà vua không cho đi.

Năm Tự Đức thứ 24 (1871), Nguyễn Tấn ốm chết, được truy tặng Binh bộ Tham tri, ban lễ tế và xét dùng các con.

Tác phẩm

Cuối đời, Nguyễn Tấn đã tổng kết công trận của mình trong cuốn Phủ Man tạp lục thư. Sách được Nguyễn Tấn soạn vào năm 1871, khi ông giữ chức vụ Tĩnh Man Tiễu phủ sứ, lo việc bình định vùng người Thượng ở Quảng Ngãi. Tập sách được khắc in năm 1898 dưới triều vua Thành Thái thứ mườ.

Phủ Man tạp lục (ghi chép về chuyện phủ dụ người Thượng) có thể xem là tập sách đầu tiên viết về dân tộc thiểu số một cách có hệ thống, ghi lại những tri thức cũng như các hoạt động của Nguyễn Tấn trong vai trò một quan phái của triều đình nhà Nguyễn lĩnh nhiệm vụ chiêu dụ các dân tộc ít người ở miền thượng du Trung bộ, mà chủ yếu là vùng phía tây Quảng Ngãi. “Man” là một từ có gốc từ Trung Hoa, được nhà nước phong kiến trước đây sử dụng nhằm chỉ các dân tộc thiểu số ở nơi biên viễn, cụ thể ở đây là các sắc dân miền Thượng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.

Sách viết bằng chữ Hán, gồm 3 quyển:

  • Quyển 1: Sơn xuyên hiểm dị (Núi non hiểm trở)
  • Quyển 2: Thổ nghi (Phong tục tập quán)
  • Quyển 3: Lịch triều chi kiến thiết duyên cách (Quá trình kiến thiết qua các triều vua)

Nhận xét

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: :''Nguyễn Tấn vốn người tài năng trí thức, dũng cảm thao lược. Viên quận công Trương Đăng Quế thường khen ông là khi lâm sự biết xử trí. Việc trở về dẹp Man, người ta nói là có hai điều khó: một là rừng sâu khí nặng là điều kỵ của việc hành quân. Hai là tính người Man bất thường, đói thì đến, no thì đi, vỗ về khó. Thế mà trong sáu năm, năm nào đánh dẹp cũng dễ dàng cả... :''Ngày Tấn mất những người Man được tin, cùng nhau than tiếc. Tướng sĩ sáu cơ và người trong châu dựng đền ở Hoành Sơn để thờ. Cung bảo Nguyễn Chính và Tham chính Lê Lượng Bạt làm bài minh (khắc lên bia đá) để nêu công đức... :''...Tấn ốm chết, vua thấy ông làm quan thanh bạch nhà nghèo, cấp cho mẹ ông mỗi tháng ba quan tiền, ba phương gạo, sau lại cấp thêm 50 quan để làm ma...

Tuy nhiên theo nghiên cứu của giáo sư Nguyễn Phan Quang, khi Nguyễn Tấn giữ chức Tĩnh Man tiễu phủ sứ, ông đã không từ một thủ đoạn nào để trấn áp phong trào Đá Vách, từ việc dùng vàng bạc để gây chia rẽ và hận thù giữa các bộ tộc đến những hình phạt tàn khốc (chặt đầu, lột da, phơi nắng, cắt tai, khắc dấu vào mặt...) Trong quá trình đàn áp, bản thân Nguyễn Tấn cũng chấp chiếm nhiều ruộng đất vùng này. Sang đầu thế kỷ 20, con cháu ông Tấn còn thừa hưởng là 215 mẫu ruộng hương hỏa .

Gia đình

Nguyễn Tấn có ba người con:

  • Nguyễn Thân, sau làm Cần chính điện đại học sĩ, Túc liệt tướng Diên Lộc quận công. Đây là một cộng sự đắc lực của thực dân Pháp, được tưởng thưởng Bắc đẩu bội tinh tứ hạng nhờ có công đánh dẹp, phối hợp với thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương, được xem là cộng sự đắc lực của thực dân Pháp vào những năm cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam, bị người Việt Nam coi là Việt gian tiêu biểu trong giai đoạn lịch sử này
  • Nguyễn Khiêm được ấm thụ bát phẩm.
  • Nguyễn Văn làm Kinh binh chưởng vệ, Đề đốc hộ thành.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bà Huyện Thanh Quan** (chữ Nôm: 婆縣青關, chữ Hán: 青關縣夫人 _Thanh Quan huyện phu nhân_; 1805 - 1848), tên thật là **Nguyễn Thị Hinh** (阮氏馨); là một nữ thi sĩ trong thời cận đại của
**Nguyễn Quang Toản ** (chữ Hán: 阮光纘, 1783 – 1802), là vị hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của vua Quang
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Tấn** (942 - 1024) là một danh tướng nhà Đinh, có công đánh dẹp sứ quân Kiều Công Hãn và lập ra làng An Lá ở Nam Định. ## Xuất thân Theo thần phả
Đại Việt dưới triều nhà Trần đã có một cuộc tấn công quân sự vào nhà Nguyên vào năm 1313, đời vua Trần Anh Tông. ## Nguyên nhân Theo sử liệu Việt, do quan lại
**Trương Tấn Bửu** (Chữ Hán: 張進寶; 1752 – 1827), có tên khác là **Trương Tấn Long** (張進隆); là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. Nhờ lập được nhiều
**Nguyễn Văn Nhơn** () hay **Nguyễn Văn Nhân**, tục gọi là **Quan lớn Sen** (1753-1822), là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) trong lịch sử Việt Nam.
**Nguyễn Văn Hiếu** (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Hiếu** là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh
nhỏ|Các binh sĩ Trung Quốc vào khoảng 1899-1901. Trái: hai lính Tân quân. Trước: một chỉ huy Lục doanh quân. Ngồi trên thân cây: pháo thủ. Phải: Binh sĩ Nghĩa hòa đoàn.|348x348px **Tân quân **(phồn
**Nguyễn Văn Trương** (; 1740 - 1810), là một trong Ngũ hổ tướng Gia Định, và là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Nguyễn Chế Nghĩa** (阮制義, 1265-1341) là một tướng lĩnh thời nhà Trần. ## Tiểu sử Nguyễn Chế Nghĩa là danh tướng thời Trần và là người thông thạo thập bát ban võ nghệ. Ông là
phải|nhỏ|Nguyễn Thông. **Nguyễn Thông** (1827–1884), tự **Hy Phần**, hiệu **Kỳ Xuyên**, biệt hiệu **Độn Am**; là quan nhà Nguyễn và là danh sĩ Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 19. Ngoài ra, ông chính
**Đào Tấn** (3 tháng 4 năm 1845 – 23 tháng 8 năm 1907), tự là **Chỉ Thúc (止叔)**, hiệu là **Tô Giang** và **Mộng Mai (夢梅)**, biệt hiệu là **Tiểu Linh Phong Mai Tăng** hoặc
**Nguyễn Nhược Bích** (chữ Hán: 阮鄀碧; 1830 – 1909), biểu tự **Lang Hoàn** (嫏嬛), phong hiệu **Tam giai Lễ tần** (三階禮嬪), là một phi tần của vua Tự Đức nhà Nguyễn. Bà nổi tiếng là
**Nguyễn Tiểu La** (chữ Hán: 阮小羅; 1863-1911), tên thật là **Nguyễn Thành** (阮誠), là một chí sĩ yêu nước thời cận đại trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Nguyễn Tiểu
**Vòng chung kết giải bóng đá trong nhà vô địch quốc gia 2017** (hay còn gọi là **Giai đoạn 2** của **Giải futsal vô địch quốc gia 2017**) thi đấu theo thể thức vòng tròn
Bàn thờ Nguyễn Huỳnh Đức tại khu đền mộ ở Tân An. **Nguyễn Huỳnh Đức** (chữ Hán: 阮黃德; 1748 - 1819) là danh tướng và là công thần khai quốc của nhà Nguyễn. Ông là
**Nguyễn Đức Xuyên** (阮德川) (1759 – 1824) là một võ quan đại thần dưới triều Nguyễn. Ông tham gia cuộc chiến của chúa Nguyễn Ánh chống lại triều Tây Sơn rồi làm quan dưới thời
Thống chế Điều bát **Nguyễn Văn Tồn** (Chữ Hán: 阮文存, 1763–1820) là một danh tướng và nhà khai hoang đầu thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công lớn trong
[[Tân quân (nhà Thanh)|Tân quân Bắc Dương đang huấn luyện]] **Quân Bắc Dương** (Tiếng Trung: _北洋軍_; Bính âm: _Běiyáng-jūn_) là lực lượng quân sự kiểu phương Tây do triều đình nhà Thanh thành lập vào
**Nguyễn Xuân** (chữ Hán: 阮春; 13/4/ Giáp Ngọ – 14/12 năm Minh Mạng 16 1835) là một tướng lĩnh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Nguyễn Xuân là người ở huyện
**Nguyễn Văn Cổn** ( 1911-1992), là một nhà thơ Việt Nam. Năm 1960, ông được nhận vào làm việc tại Bộ Quốc gia Giáo dục Pháp và đã định cư ở nước ấy. ## Tiểu
**Phụ Thiên Thuần Hoàng Hậu** (chữ Hán: 輔天純皇后, 22 tháng 12 năm 1870 - 19 tháng 11 năm 1935), còn được gọi là **Đức Thánh Cung** (德聖宮), là chính thất của Đồng Khánh hoàng đế
**Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền** (chữ Hán: 阮福玉璿; 1764 – 1782), phong hiệu **Minh Nghĩa Công chúa** (明義公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Thị Ngọc Du** (chữ Hán: 阮氏玉琇; 1762 – 1820), phong hiệu **Phúc Lộc Công chúa** (福祿公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Ngọc Tú** (chữ Hán: 阮福玉琇; 1759 – 1823), phong hiệu **Long Thành Công chúa** (隆城公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Thúc Tề** (1916 - 1946), tên thật: **Nguyễn Thúc Nhuận**, bút danh: _Thúc Tề, Lãng Tử_; là nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. ## Thân thế và sự nghiệp **Thúc Tề** sinh
Hệ thống quân hàm Quân đội Trung Hoa Dân Quốc là hệ thống cấp bậc quân sự của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc hiện nay. Lực lượng Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc được
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Siêu tân tinh** (chữ Hán: 超新星) hay **sao siêu mới** (; viết tắt là **SN** hay **SNe**) là một sự kiện thiên văn học biến đổi tức thời xảy ra trong giai đoạn cuối của
**Tản Đà** (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật **Nguyễn Khắc Hiếu** (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Đảng Việt Tân** hoặc **Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng** (tiếng Anh: _Vietnam Reform Revolutionary Party_, **VRRP**) là một tổ chức chính trị được thành lập bởi một nhóm người Mỹ gốc Việt tại
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở