✨Triết học tinh thần

Triết học tinh thần

Một [[bản đồ não tướng học về bộ não người có từ năm 1894. Não tướng học là một trong những nỗ lực đầu tiên liên hệ những chức năng tinh thần với những phần cụ thể của bộ não.]]

Triết học tinh thần là một chuyên ngành trong triết học nghiên cứu bản chất của tâm trí (tinh thần), các hiện tượng, chức năng và đặc tính của tinh thần, năng lực ý thức và mối quan hệ giữa chúng với cơ thể, đặc biệt là với bộ não. Vấn đề tâm–vật có nghĩa là mối liên hệ giữa tinh thần (tâm) và thể xác (vật), thường được xem là đề tài trung tâm trong triết học tinh thần, mặc dù còn có nhiều vấn đề khác liên quan đến bản chất của tinh thần mà không có mối liên hệ với thể xác.

Nhị nguyên luận và nhất nguyên luận là hai trường phái tư tưởng chính nỗ lực giải quyết vấn đề tâm-vật. Trong trường phái nhị nguyên luận có thể kể đến triết học của Platon, Aristoteles và các trường phái Sankhya và Yoga của triết học Hindu, nhưng nó được trình bày một cách có hệ thống lần đầu tiên bởi triết gia Descartes vào thế kỷ 17. Trong số những người theo nhị nguyên luận, các triết gia theo trường phái thực thể (Substance Dualist) cho rằng tinh thần là một thực thể tồn tại độc lập, trong khi những người theo trường phái đặc tính (hay thuộc tính) (Property Dualist) xem tinh thần là một nhóm những đặc tính nảy sinh từ bộ não và không thể quy giản về chính bộ não nhưng cũng không phải là một thực thể riêng biệt.

Lập trường của nhất nguyên luận cho rằng tinh thần và thể xác không phải là những dạng thực thể khác nhau về mặt bản thể. Quan điểm này xuất hiện lần đầu tiên trong triết học phương Tây là từ Parmenides ở thế kỷ 5 TCN và sau đó được nhà triết học duy lý Baruch Spinoza cổ vũ. Những nhà duy vật lý lập luận rằng chỉ những thực thể được thừa nhận bởi lý thuyết vật lý là tồn tại, và tinh thần cuối cùng sẽ có thể được giải thích theo những thực thể đó một khi lý thuyết vật lý tiếp tục phát triển. Những nhà duy tâm thì tin rằng tinh thần là tất cả những gì tồn tại và rằng thế giới bên ngoài hoặc là mang tính tinh thần, hoặc là một ảo giác được tạo bởi tinh thần. Phái nhất nguyên luận trung tính cho rằng có một dạng thực thể trung tính mà cả vật chất và tinh thần đều là các đặc tính của dạng thực thể còn chưa được biết này. Những phái nhất nguyên phổ biến nhất trong thế kỉ 20 và đầu thế kỉ 21 là những biến thể khác nhau của chủ nghĩa duy vật lý, các lập trường này bao gồm chủ nghĩa hành vi, thuyết đồng nhất loại, nhất nguyên luận dị thường, thuyết chức năng.

Hầu hết các nhà triết học tinh thần hiện đại chấp nhận lập trường duy vật lý quy giản hoặc phi quy giản, duy trì theo những cách thức khác nhau quan điểm cho rằng tinh thần không phải là thứ gì đó tách rời khỏi thể xác. mặc dù có một số triết gia giữ lập trường phi duy vật lý phê phán ý niệm cho rằng tinh thần là một cấu trúc thuần túy vật chất. Các nhà duy vật lý quy giản khẳng định rằng tất cả các trạng thái và đặc tính tinh thần cuối cùng sẽ được giải thích bằng các mô tả khoa học về các quá trình và trạng thái sinh lý. Các nhà duy vật lý phi quy giản lập luận rằng mặc dù tâm linh hoàn toàn chứa đựng trong bộ não, những kết đề và từ vựng sử dụng trong các mô tả và diễn giải tinh thần là không thể thiếu, và không thể bị quy giản hóa thành ngôn ngữ và các diễn giải mức thấp hơn của khoa học vật chất. Những tiến bộ không ngừng trong khoa học thần kinh từ nửa sau thế kỉ 20 tới nay đã giúp làm sáng tỏ một vài vấn đề. Tuy nhiên, còn rất lâu mới giải quyết được chúng, và các triết gia tinh thần hiện đại tiếp tục đặt câu hỏi về việc các phẩm chất chủ quan và tính dự định của các trạng thái và đặc tính tinh thần có thể được giải thích theo các thuật ngữ tự nhiên học như thế nào.

Vấn đề tâm-vật

Vấn đề tâm-vật liên quan tới cách diễn giải mối quan hệ tồn tại giữa tinh thần, hay các quá trình tinh thần, với các trạng thái hay quá trình thuộc về thể xác. Mục đích chính của các nhà triết học hoạt động trong lĩnh vực này là xác định bản chất của tinh thần và các trạng thái/quá trình tinh thần, và có hay không -và như thế nào - tinh thần bị ảnh hưởng và ảnh hưởng tới thể xác.

Các trải nghiệm cảm quan của chúng ta phụ thuộc vào các kích thích từ thế giới bên ngoài đến tới các giác quan khác nhau của chúng ta, và những kích thích này gây ra những thay đổi trong trạng thái tinh thần, cuối cùng khiến chúng ta có một cảm giác, có thể là dễ chịu hoặc không dễ chịu. Ước muốn của ai đó về một miếng pizza, chẳng hạn, có khuynh hướng khiến người đó di chuyển thể xác bằng một cách cụ thể theo một hướng cụ thể để lấy được cái mà anh ta/cô ta muốn. Do đó câu hỏi là làm thế nào mà những trải nghiệm ý thức có thể nảy sinh từ một đám vật chất xám vốn không có gì đặc biệt ngoài những thuộc tính điện hóa. Các sự kiện tinh thần có một phẩm chất chủ quan, trong khi các sự kiện vật chất thì không. Vì thế, chẳng hạn người ta có thể hỏi có nghĩa về cảm giác một ngón tay bị bỏng như thế nào, hay một bầu trời xanh trông thế nào, hay một bản nhạc hay như thế nào. Nhưng là câu hỏi vô nghĩa, hay ít nhất là kỳ cục, khi hỏi sự dâng lên trong ống glutamate ở phần nối với tủy sống của thùy hải mã (hippocampus) trên não thấy thế nào.

Các nhà triết học tinh thần gọi khía cạnh chủ quan của các sự kiện tinh thần là "qualia" (tức cảm thụ tính), hay "cảm giác thô"(còn gọi là cảm chất).

Nếu ý thức (tinh thần) có thể tồn tại độc lập với hiện thực vật chất (bộ não), người ta phải giải thích các ký ức thể chất được tạo ra liên quan tới nhận thức như thế nào. Nhị nguyên luận do đó phải giải thích làm thế nào ý thức ảnh hưởng tới hiện thực vật chất. Một cách giải thích khả dĩ cho rằng đó là một phép màu, được đề xuất bởi Arnold Geulincx và Nicolas Malebranche, nghĩa là mọi tương tác tinh thần-thể xác đòi hỏi sự can thiệp trực tiếp của Thượng đế. Một lập trường tương tự của Albert Einstein cho rằng sự lĩnh hội tinh thần về những ấn tượng tri giác là một phép màu. Một cách giải thích khác được C. S. Lewis đưa ra là "Luận cứ từ Lý trí" (Argument from Reason): nếu mọi suy nghĩ của chúng ta là hệ quả của các căn nguyên thể xác như nhất nguyên luận ngụ ý, thì chúng ta không có lý do gì để giả định rằng chúng cũng là hệ quả của một nền tảng hữu lý. Vì thế, nếu nhất nguyên luận là đúng, không có cách nào để biết điều này - hay bất kì điều gì khác - chúng ta không thể giả định nó, ngoại trừ nhờ một may mắn.

Một lập luận khác, luận cứ thây ma sống (zombie argument) dựa trên một thí nghiệm tưởng tượng của Todd Moody, và phát triển bởi David Chalmers trong cuốn The Conscious Mind. Ý tưởng nền tảng là người ta có thể hình dung thể xác của một người, và do đó nhận thức sự tồn tại của cơ thể người này, không cần bất kì trạng thái ý thức nào được gắn với thể xác này. Lập luận của Chalmers là, dường như hợp lý để cho sinh vật như thế tồn tại vì tất cả những thứ cần thiết là tất cả và chỉ những thứ mà các khoa học vật lý mô tả về thây ma sống đó phải đúng về nó. Do không khái niệm nào trong các khoa học này dẫn chiếu tới ý thức hay những hiện tượng tinh thần khác, và bất kì thực thể vật chất nào có thể bằng định nghĩa được mô tả một cách khoa học thông qua vật lý, sự chuyển dời từ tính có thể hình dung được tới tính khả dĩ không phải là một bước chuyển lớn. Những người khác như Dennett lập luận rằng ý niệm về một thây ma sống như thế là một quan niệm thiếu chặt chẽ, hoặc không thể. Có thể lập luận theo chủ nghĩa duy vật lý là người ta phải tin rằng hoặc ai đó bao gồm cả chính họ có thể là một thây ma sống, hoặc rằng không ai có thể là một thây ma sống - kéo theo từ sự khẳng định rằng sự nhận thức của riêng một ai về việc là (hay không là) một thây ma sống là sản phẩm của thế giới vật chất và do đó không có gì khác với người khác cả. Lập luận này được diễn đạt bởi Dennett, người cho rằng "Các thây ma sống nghĩ rằng chúng có nhận thức; nghĩ rằng chúng có cảm thụ tính; nghĩ rằng chúng chịu đau đớn - chúng đơn giản là 'sai' (theo truyền thống đáng thương này), theo những cách mà chúng hay chúng ta không bao giờ có thể khám phá!". Đây là quan điểm cho rằng các trạng thái tinh thần, như niềm tin và ham muốn, tương tác nhân quả với các trạng thái vật chất. Chẳng hạn, Joseph Agassi đề xuất rằng một vài khám phá khoa học thực hiện từ đầu thế kỉ 20 đã xói mòn ý tưởng về sự truy cập đặc quyền vào tư tưởng của chính mình. Freud đã chỉ ra rằng một người quan sát được huấn luyện về tâm lý học có thể hiểu các động lực vô thức của một người nào đó hơn chính bản thân anh ta. Duhem thì cho thấy rằng một triết gia khoa học có thể biết các phương pháp khám phá của một cá nhân tốt hơn chính cá nhân đó làm, trong khi Malinowski chứng minh rằng một nhà nhân loại học có thể biết về các phong tục và thói quen của một người tốt hơn chính người đó. Ông cũng khẳng định rằng các thí nghiệm tâm lý học hiện đại khiến con người nhìn thấy những thứ không có ở đó (ảo giác) cung cấp cơ sở cho việc từ chối lập luận của Descartes. Điểm yếu chung cho tất cả những lập luận chống lại tương tác luận là chúng đặt toàn bộ sự thấu hiểu nội tâm vào nghi vấn. Chúng ta biết rằng con người nhầm lẫn về thế giới (bao gồm cả các trạng thái nội tâm của những người khác), nhưng không phải luôn như vậy. Do đó là vô lý về mặt logic để giả thiết rằng các cá nhân luôn luôn sai về các trạng thái tinh thần và về các nhận định về chính bản chất của tinh thần.

Các dạng nhị nguyên luận khác

nhỏ|Bốn biến thể của nhị nguyên luận: nhị nguyên luận tương tác, thuyết hiện tượng phụ, thuyết song song tâm vật, và chủ nghĩa duy vật lý không quy giản. Các mũi tên chỉ ra hướng tương tác nhân quả. Thuyết ngẫu nhiên không được chỉ trong hình.

Thuyết song song tâm vật

Thuyết song song tâm vật (Psychophysical parallelism), nói tắt là thuyết song song, là quan điểm cho rằng tinh thần và thể xác, trong khi có những trạng thái bản thể riêng biệt, không ảnh hưởng nhân quả lên nhau. Thay vì thế, chúng vận hành theo những con đường song song (các sự kiện tinh thần tương tác nhân quả với các sự kiện tinh thần và các sự kiện não bộ tương tác nhân quả với các sự kiện não bộ) và chỉ có vẻ như ảnh hưởng tới nhau. Quan điểm này được bảo vệ nhiệt liệt bởi Gottfried Leibniz. Mặc dù Leibniz là một nhà nhất nguyên luận bản thể tin rằng chỉ có một loại thực thể, là đơn tử (monad), tồn tại trong vũ trụ, và rằng mọi thứ có thể quy giản về nó, tuy nhiên ông khẳng định rằng có sự khác biệt quan trọng giữa "tinh thần" và "vật chất" theo nghĩa nhân quả. Ông tin rằng Thượng đế đã sắp xếp mọi sự vật từ trước để cho cái tâm linh và cái thể xác hài hòa với nhau. Điều này được biết đến như tín điều về hài hòa tiền định.

Thuyết ngẫu nhiên

Thuyết ngẫu nhiên (occasionalism) là quan điểm khởi xướng bởi Nicholas Malebranche, khẳng định rằng tất cả các mối quan hệ được cho là nhân quả giữa các hiện tượng vật lý với nhau, hay giữa các hiện tượng vật lý với các hiện tượng tinh thần, thực ra không hề có tính nhân quả chút nào. Trong khi thể xác và tinh thần là những thực thể khác nhau, các nguyên nhân (bất kể tinh thần hay thể xác) liên hệ với những hệ quả của nó bởi hành động can thiệp của Thượng đế trong mỗi thời điểm cụ thể.

Nhị nguyên luận đặc tính

Nhị nguyên luận đặc tính (property dualism) là quan điểm rằng thế giới cấu tạo từ chỉ một loại thực thể - là loại vật chất - và tồn tại hai loại thuộc tính khác biệt: những đặc tính vật chất và những đặc tính tinh thần. Nói cách khác, đó là quan điểm cho rằng các đặc tính tinh thần, phi vật chất (như niềm tin, cảm xúc) vốn có trong một số đối tượng vật chất (ít nhất là não). Các đặc tính tinh thần và vật chất liên hệ nhân quả với nhau như thế nào phụ thuộc vào từng biến thể của nhị nguyên luận đặc tính, và không luôn luôn là một vấn đề rõ ràng. Các nhánh nhỏ thuộc nhị nguyên luận đặc tính bao gồm:

Thuyết đột sinh mạnh (strong emergentism) khẳng định rằng khi vật chất được tổ chức theo những cách thức thích hợp (chẳng hạn theo cách mà những cơ thể sống của con người được tổ chức), các đặc tính tinh thần đột sinh theo một cách không thể giải thích bằng các quy luật vật lý. Do đó, đây là một dạng của chủ nghĩa duy vật đột sinh.

Thuyết hiện tượng phụ (epiphenomenalism) là một học thuyết lần đầu tiên được Thomas Henry Huxley phát biểu. Nó hàm chứa quan điểm rằng các hiện tượng tinh thần là bất lực về mặt nhân quả, theo đó một hay nhiều trạng thái tinh thần không có bất kì ảnh hưởng nào lên các trạng thái vật chất. Các sự kiện vật chất có thể gây ra những sự kiện vật chất khác cũng như gây ra các sự kiện tinh thần, nhưng các sự kiện tinh thần không thể gây ra bất cứ sự kiện gì, bởi vì chúng chỉ là những phụ phẩm trơ về mặt nhân quả (nghĩa là hiện tượng phụ - epiphenomena) của thế giới vật chất.

Chủ nghĩa duy vật lý phi quy giản (non-reductive physicalism) là quan điểm cho rằng các đặc tính tinh thần tạo nên một lớp bản thể tách biệt đối với các đặc tính vật chất: các trạng thái tinh thần (như cảm thụ tính) không thể quy giản về các trạng thái thể xác. Quan điểm bản thể đối với cảm thụ tính trong trường hợp chủ nghĩa duy vật lý phi quy giản không hàm ý rằng cảm thụ tính là trơ về mặt nhân quả; đây là điểm phân biệt nó với thuyết hiện tượng phụ.

Toàn tâm luận (panpsychism) là quan điểm cho rằng tất cả vật chất đều có khía cạnh tinh thần, hay nói cách khác, tất cả các đối tượng đều có một trung tâm kinh nghiệm hay quan điểm thống nhất. Bề ngoài, nó dường như là một dạng của nhị nguyên luận đặc tính, vì nó coi mọi thứ có cả những đặc tính tinh thần và vật chất. Tuy nhiên, một số nhà toàn tâm luận nói rằng hành vi cơ học sinh ra từ tính tinh thần nguyên thủy của nguyên tử và phân tử—cũng như tính tinh thần phức tạp và hành vi hữu cơ, sự khác biệt được gán cho sự hiện diện hay sự thiếu vắng của cấu trúc phức hợp trong một đối tượng phức hợp. Chừng nào mà sự quy giản các đặc tính phi tinh thần thành những đặc tính tinh thần còn có chỗ thì toàn tâm luận không phải là một dạng (mạnh) của nhị nguyên luận đặc tính; còn khác đi thì nó chính là như vậy.

Lý thuyết khía cạnh kép

Lý thuyết khía cạnh kép là quan điểm cho rằng tinh thần và vật chất là hai khía cạnh, hay phương diện, về cùng một thực thể (do đó nó có một lập trường pha trộn, nó là nhất nguyên ở một vài khía cạnh khác). Mối quan hệ giữa lý thuyết này với nhất nguyên luận trung tính khó xác định, nhưng có người cho rằng sự khác biệt là trong khi nhất nguyên luận trung tính cho phép bối cảnh của một nhóm gồm những yếu tố trung tính cho trước xác định nhóm là thuộc về tinh thần, vật chất hay cả hai, hoặc không cái nào, thì lý thuyết khía cạnh kép đòi hỏi tính tinh thần và tính vật chất là không thể chia tách và cái này không thể quy giản về cái kia (dù khác biệt).

Giải pháp nhất nguyên cho vấn đề tâm-vật

Trái với nhị nguyên luận, nhất nguyên luận không chấp nhận bất cứ sự phân chia ở mức cơ bản nào. Bản chất không phân chia của hiện thực là trung tâm của các hình thái triết học phương Đông từ hai thiên niên kỉ nay. Trong triết học Ấn Độ và Trung Quốc, nhất nguyên luận là không thể thiếu đối với việc kinh nghiệm được nhận thức ra sao. Ngày nay, những dạng phổ biến nhất của nhất nguyên luận trong triết học phương Tây là chủ nghĩa duy vật lý (physicalism). Tuy nhiên, có sự đa dạng trong cách phát biểu chủ nghĩa duy vật lý (xem dưới đây). Bên cạnh đó, còn một dạng khác của nhất nguyên luận là chủ nghĩa duy tâm, cho rằng thực thể duy nhất tồn tại là tinh thần. Mặc dù chủ nghĩa duy tâm thuần túy, như của George Berkeley, ít phổ biến trong triết học phương Tây hiện đại, một biến thể tinh tế của nó gọi là toàn tâm luận, theo đó các kinh nghiệm và đặc tính tinh thần có thể là nền tảng của các kinh nghiệm và đặc tính vật chất, được đề xướng bởi một số triết gia như Alfred North Whitehead và David Ray Griffin. Khả năng thứ ba là chấp nhận sự tồn tại của một thực thể cơ bản chẳng phải vật chất lẫn tinh thần, do đó tinh thần và vật chất đều là những đặc tính của thực thể trung tính này. Lập trường như vậy đã được chấp nhận bởi Baruch Spinoza trong thế kỉ 19. Thuyết này gọi là nhất nguyên luận trung tính, tương tự với nhị nguyên luận thuộc tính.

Các dạng nhất nguyên luận duy vật lý

Chủ nghĩa hành vi

Chủ nghĩa hành vi (behaviourism) từng thống trị triết học tinh thần phần lớn thế kỉ 20, đặc biệt là trong nửa đầu thế kỉ.

Song hành với những phát triển này trong tâm lý học, chủ nghĩa hành vi triết học (đôi khi gọi là chủ nghĩa hành vi logic) được hình thành.

Chủ nghĩa hành vi triết học đã đánh mất sự phổ biến kể từ những thập niên cuối của thế kỉ 20, với sự lớn mạnh của thuyết nhận thức (cognitivism). như sự phản ứng trực tiếp đối với sự thất bại của chủ nghĩa hành vi. Các triết gia này lập luận rằng, nếu các trạng thái tinh thần là thứ gì đó thuộc về vật chất, mà không phải hành vi, thì các trạng thái tinh thần chắc hẳn phải đồng nhất đối với các trạng thái bên trong bộ não. Nói một cách đơn giản hóa: một trạng thái tinh thần M không là gì hơn ngoài một trạng thái bộ não B. Trạng thái tinh thần "thèm một cốc cà phê" không là gì hơn "sự đốt cháy những nơron nhất định trong những vùng não nhất định". Nhất nguyên luận dị thường (xem dưới đây) và hầu hết các chủ nghĩa duy vật lý phi quy giản là các lý thuyết đồng nhất-biểu hiện. Bất chấp những vấn đề này, ngày nay đang có một sự quan tâm được làm mới lại đối với thuyết đồng nhất loại, chủ yếu do ảnh hưởng của Jaegwon Kim. Cùng thời điểm hoặc sau đó một chút, D.M. Armstrong và David Kellogg Lewis thiết lập một phiên bản của thuyết chức năng phân tích các khái niệm tinh thần của tâm lý học công chúng theo các vai trò chức năng. Một phái khác, thuyết chức năng tâm lý (psychofunctionalism) thường được nhắc đến với Jerry Fodor và Zenon Pylyshyn. Cuối cùng, ý tưởng của Wittgenstein về ý nghĩa như cách sử dụng dẫn tới một phiên bản của thuyết hành vi gọi là lý thuyết về ý nghĩa, được phát triển thêm bởi Wilfrid Sellars và Gilbert Harman.

Thứ mà tất cả các thuyết trên chia sẻ là luận đề rằng các trạng thái tinh thần được đặc trưng bởi các mối quan hệ nhân quả với các trạng thái tinh thần khác và với tri giác đầu vào cùng hành vi đầu ra. Có nghĩa là, thuyết hành vi trừu tượng hóa những chi tiết của sự bổ sung vật chất với một trạng thái tinh thần bằng cách mô tả nó theo các thuộc tính chức năng phi tinh thần. Ví dụ, một quả thận được mô tả một cách khoa học bởi vai trò có tính chức năng của nó trong việc lọc máu và duy trì một số cân bằng hóa học nhất định. Theo quan điểm này, vấn đề không phải là liệu quả thận được làm từ những thành phần hữu cơ, ống nano hay các chíp silic: chính vai trò nó có và những mối liên hệ của nó với những cơ quan khác định nghĩa nên một quả thận.

Bởi các thuyết duy vật lý phi quy giản nỗ lực để vừa giữ lại sự khác biệt bản thể giữa tinh thần và thể xác vừa cố giải quyết vấn đề tương tác giữa chúng; những người chỉ trích thường xem đây là một mâu thuẫn và chỉ ra tính tương tự của nó đối với thuyết hiện tượng phụ, theo khía cạnh chính bộ não được xem là gốc rễ không "gây ra" tinh thần, và tinh thần dường như bị làm cho trơ với ngoại vật.

Thuyết hiện tượng phụ xem một hay nhiều trạng thái tinh thần như phụ phẩm của các trạng thái bộ não vật chất, và không có ảnh hưởng gì lên các trạng thái vật chất. Tương tác là một chiều (giải quyết vấn đề tương tác), nhưng nó bỏ lại các trạng thái tinh thần không thể quy giản (như một phụ phẩm của các trạng thái bộ não) - vừa không thể quy giản theo bản thể lẫn nhân quả về các trạng thái vật chất. Sự đau nhức đối với một người theo thuyết này được xem như gây nên bởi trạng thái bộ não nhưng không có ảnh hưởng nào lên các trạng thái bộ não khác, mặc dù nó có thể ảnh hưởng tới các trạng thái tinh thần khác (chẳng hạn gây ra đau đớn).

Thuyết đột sinh yếu

Thuyết đột sinh yếu là một dạng của chủ nghĩa duy vật lý phi quy giản bao gồm trong một quan điểm phân tầng về tự nhiên, với các tầng được sắp xếp theo độ phức tạp tăng dần và mỗi tầng ứng với một ngành khoa học riêng của nó. Một số triết gia khẳng định rằng các thuộc tính đột sinh tương tác nhân quả với các mức cơ bản hơn, trong khi những người khác tin rằng các thuộc tính bậc cao hơn đơn giản đột hiện từ các mức thấp hơn không cần tương tác nhân quả trực tiếp nào. Nhóm sau được xếp vào một quan niệm ít nghiêm ngặt hơn, hay "yếu" hơn, của thuyết đột sinh, có thể được phát biểu như sau: một thuộc tính (property) P của một đối tượng (object) phức O là đột sinh nếu như một đối tượng khác không thể, theo nghĩa siêu hình học, thiếu thuộc tính P nếu nó cấu tạo từ những phần có tính chất nội tại giống hệt với O và các phần này có cấu hình đồng nhất.

Đôi khi những người theo thuyết đột sinh sử dụng ví dụ về nước có một thuộc tính mới khi Hydro H và Oxy O kến hợp tạo nên H2O (nước). Trong ví dụ này đột sinh một thuộc tính mới của một chất lỏng trong suốt không thể tiên đoán được bằng việc hiểu hydro và oxy như chất khí. Điều này tương tự với các thuộc tính vật chất của bộ não đem lại một trạng thái tinh thần. Thuyết đột sinh cố giải quyết khoảng cách hiển nhiên giữa tinh thần và thể xác theo cách này. Một vấn đề đối với nó là ý tưởng về "tính đóng nhân quả" trong một thế giới không cho phép tính nhân quả từ tinh thần tới thể xác.

Chủ nghĩa duy vật tiêu trừ

Nếu một người theo phái duy vật và tin rằng tất cả các khía cạnh của tâm lý con người sẽ tìm thấy sự quy giản về một nền khoa học thần kinh nhận thức (cognitive-neuroscience) tiến bộ, và rằng chủ nghĩa duy vật phi qui giản là sai lầm, thì người đó giữa một lập trường dứt khoát, cấp tiến hơn: chủ nghĩa duy vật tiêu trừ.

Có một số biến thể khác nhau của chủ nghĩa duy vật tiêu trừ, nhưng tất cả đều khẳng định rằng tâm lý học công chúng thông thường đã xuyên tạc bản chất một số khía cạnh của nhận thức. Những nhà tiêu trừ luận như vợ chồng triết gia Patricia và Paul Churchland lập luận rằng trong khi tâm lý học công chúng coi nhận thức cơ bản là "giống câu nói" (sentence-like), mô hình vector/ma trận phi ngôn ngữ của lý thuyết mạng thần kinh hay thuyết kết nối (connectionism) sẽ chứng tỏ là một mô tả chính xác hơn về cách bộ não hoạt động. Các triết gia này, như Ludwig Wittgenstein và những người tiếp nối ông trong truyền thống phê phán ngôn ngữ, vì thế loại bỏ vấn đề này vì cho rằng nó là phi thực tế. Họ lập luận rằng người ta đã sai lầm khi hỏi làm thế nào các trạng thái sinh học và tinh thần gắn với nhau. Thay vì vậy, đơn giản nên chấp nhận rằng kinh nghiệm con người có thể được mô tả theo những cách khác nhau, chẳng hạn theo một từ vựng tinh thần và một từ vựng sinh học. Những vấn đề phi thực tế nảy sinh nếu người ta cố gắng mô tả cái này theo từ vựng của cái kia hay nếu từ vựng tinh thần được áp dụng vào các ngữ cảnh sai.

Thuyết nội tại và thuyết ngoại tại

Tinh thần cư trú ở đâu? Nếu tinh thần là một loại hiện tượng vật chất nào đó, nó phải tồn tại ở một nơi nào đó. Có hai lựa chọn khả dĩ: hoặc tâm trí nằm trong thể xác (thuyết nội tại) hoặc tâm trí nằm bên ngoài thể xác (thuyết ngoại tại). Phổ quát hơn, hoặc tâm trí chỉ phụ thuộc vào các sự kiện và đặc tính xảy ra bên trong thể xác chủ thể, hoặc nó cũng phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài thể xác này.

Những người đề xướng thuyết nội tại gắn với quan điểm rằng các hoạt động thần kinh là đủ để sản sinh ra tinh thần. Những người theo thuyết ngoại tại lại cho rằng thế giới bên ngoài cấu thành nên tinh thần theo một nghĩa nào đó.

Thuyết ngoại tại phân tách thành một số nhánh. Các nhánh chính là các thuyết như ngoại tại ngữ nghĩa, ngoại tại nhận thức và ngoại tại hiện tượng. Mỗi nhánh này lại có thể phân chia tiếp theo việc chúng có liên hệ chỉ với nội dung hay phương tiện của tinh thần.

Thuyết ngoại tại ngữ nghĩa (semantic externalism) cho rằng nội dung ngữ nghĩa của tinh thần được xác định hoàn toàn hay một phần bởi trạng thái của những sự việc bên ngoài thể xác chủ thể. Tư tưởng thế giới song sinh của Hilary Putnam là một ví dụ.

Thuyết ngoại tại nhận thức (cognitive externalism) là một tập hợp rộng rãi những quan điểm đề xuất về vai trò của môi trường, các công cụ, sự phát triển, và của thể xác trong sự kích thích nhận thức. Nhận thức biểu hiện, trí tuệ mở rộng, và thuyết biểu hiện là những tư tưởng tiêu biểu của nhánh này.

Trong khi đó, thuyết ngoại tại hiện tượng đề xuất rằng các khía cạnh hiện tượng của tinh thần nằm bên ngoài thể xác. Các tác giả ủng hộ khả năng này bao gồm Ted Honderich, Edwin Holt, Francois Tonneau, Kevin O'Regan, Riccardo Manzotti, Teed Rockwell.

Tự nhiên luận và các vấn đề của nó

Luận đề chính của chủ nghĩa duy vật lý là tinh thần là một phần của thế giới vật chất (hay vật lý). Lập trường như vậy phải đối diện với vấn đề là tinh thần có những thuộc tính nhất định mà không một sự vật vật chất nào khác có được. Do đó chủ nghĩa duy vật lý phải giải thích làm thế nào mà các thuộc tính này lại xuất hiện từ những sự vật vật chất được. Công cuộc cung cấp một cách giải thích như vậy thường được gọi với tên "tự nhiên hóa tinh thần", hay "tự nhiên luận về tinh thần".

Vấn đề giải thích khía cạnh nội quan ngôi thứ nhất của các trạng thái tinh thần và ý thức nói chung theo khoa học thần kinh có tính định lượng ngôi thứ ba được gọi là khoảng cách diễn giải (explanatory gap). Có một số quan điểm khác nhau về khoảng cách này giữa các nhà triết học tinh thần hiện đại. David Chalmers và Frank Jackson diễn tả khoảng cách này về bản chất có tính bản thể; có nghĩa là, họ khẳng định rằng các cảm thụ tính không bao giờ có thể giải thích bằng khoa học bởi vì chủ nghĩa duy vật lý là sai lầm. Tồn tại hai phạm trù riêng biệt và cái này không thể quy giản về cái kia. Một quan điểm khác đưa ra bởi những nhà triết học như Thomas Nagel và Colin McGinn. Theo họ, khoảng cách về bản chất có tính nhận thức. Đối với Nagel, khoa học chưa thể giải thích các kinh nghiệm chủ quan bởi vì nó chưa đạt tới trình độ hay loại tri thức cần thiết. Chúng ta thậm chí còn chưa thể phát biểu vấn đề một cách chặt chẽ. Các triết gia khác lấp đầy khoảng cách này thuần túy bằng việc xem đó là một vấn đề ngữ nghĩa. Vấn đề ngữ nghĩa, dẫn tới "Câu hỏi cảm thụ tính" nổi tiếng, đó là: Liệu Đỏ gây ra Màu Đỏ (Does Red cause Redness)?

Tính chủ định

nhỏ|[[John Searle—một trong những triết gia tinh thần ảnh hưởng nhất hiện nay, người đề xướng tự nhiên luận sinh học (Berkeley 2002)]]

Tính chủ định là khả năng của các trạng thái tinh thần được định hướng hoặc liên hệ với thứ gì đó ở thế giới bên ngoài. Sẽ là vô nghĩa để nói rằng một quá trình tự nhiên là đúng hay sai. Nhưng các ý tưởng hoặc phán đoán tinh thần là đúng hoặc sai, vì thế các trạng thái tinh thần (ý tưởng hoặc phán đoán) có thể là các quá trình tự nhiên? Khả năng gán giá trị ngữ nghĩa cho các ý tưởng phải có nghĩa rằng những ý tưởng như thế phải về những sự kiện nào đó. Do đó, chẳng hạn, ý tưởng rằng Herodotus là một sử gia liên hệ tới Herodotus và tới sự kiện rằng ông ấy là một sử gia. Nếu sự kiện là đúng, thì ý tưởng là đúng; nếu không, thì ý tưởng sai. Tuy nhiên mối quan hệ này đến từ đâu? Trong bộ não, chỉ có các quá trình điện hóa và chúng dường như chẳng có gì liên quan tới Herodotus.

Sinh học thần kinh

Nền tảng lý thuyết của sinh học, trong khuôn khổ khoa học tự nhiên hiện đại nói chung, về căn bản có tính duy vật. Mục đích của việc nghiên cứu trước hết là các quá trình thể xác, vốn được xem là nền tảng của các hoạt động và hành vi tinh thần. Thành công ngày càng tăng lên của sinh học trong việc giải thích các hiện tượng tinh thần có thể được thấy bởi sự vắng bóng của bất cứ sự bác bỏ thực nghiệm nào đối với giả định nền tảng của nó: "không thể có sự thay đổi trong các trạng thái tinh thần một người mà thiếu sự thay đổi trong bộ não". Khoa học nhận thức nghiên cứu tương quan giữa các quá trình tinh thần với các quá trình thần kinh.

nhỏ|Từ những năm 1980, các quy trình chụp ảnh não, chẳng hạn như [[MRI|fMRI (hình trên) đã cung cấp những kiến thức mới về hoạt động của não người, rọi ánh sáng vào các vấn đề triết học xưa cũ.]]

Khoa học máy tính

Khoa học máy tính liên quan tới việc xử lý tự động thông tin (hoặc ít nhất với các hệ thống biểu tượng mà thông tin được gán cho) thông qua những thiết bị như máy tính. Từ khởi đầu, các lập trình viên máy tính có thể phát triển các chương trình cho phép máy tính thực hiện những nhiệm vụ mà các tổ chức hữu cơ (sinh vật) cần một tinh thần. Một ví dụ đơn giản là phép nhân. Nhưng rõ rằng là máy tính không sử dụng một tinh thần nào để nhân cả. Liệu một ngày nào đó chúng có thể có thứ mà chúng ta gọi là một tinh thần? Câu hỏi này đã được đẩy tới tiền tuyến của các nhiều cuộc tranh luận triết học bởi những nghiên cứu trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI).

Trong lĩnh vực AI, người ta thường phân biệt một chương trình nghiên cứu khiêm tốn và một chương trình tham vọng hơn: sự phân biệt này được đề xướng bởi John Searle thành AI yếu và AI mạnh. Mục tiêu độc nhất của "AI yếu", theo Searle, là sự mô phỏng thành công các trạng thái tinh thần, mà không có nỗ lực biến máy tính trở nên có ý thức hay nhận thức, v.v.. Trái lại, mục tiêu của AI mạnh là một máy tính với nhận thức tương tự như của con người. Người ta có thể truy nguyên nguồn gốc của AI mạnh tới một trong những nhà tiên phong trong lĩnh vực điện toán là Alan Turing. Với câu trả lời cho câu hỏi "Máy tính có thể suy nghĩ không?", ông đã thiết lập phép thử Turing nổi tiếng. Turing tin rằng một máy tính có thể được cho là suy nghĩ khi, nếu được đặt trong một phòng kế bên một phòng khác chứa một con người và với cùng các câu hỏi như nhau đưa ra cho con người và máy tính bởi một người thứ ba ở bên ngoài, các câu trả lời của máy tính trở nên không thể phân biệt với những câu trả lời của con người. Chủ yếu, quan điểm của Turing về trí tuệ máy móc tuân theo mô hình thuyết hành vi của tinh thần - trí tuệ là cái mà trí tuệ làm. Phép thử Turing nhận nhiều chỉ trích, một trong số đó là thí nghiệm suy nghĩ "Phòng Trung Hoa" của Searle.

Tâm lý học

Tâm lý học là khoa học nghiên cứu trực tiếp các trạng thái tinh thần. Nó thường sử dụng các phương pháp thực nghiệm để khảo sát các trạng thái tinh thần cụ thể như niềm vui, nỗi sợ hay sự ám ảnh. Tâm lý học nghiên cứu các quy luật liên kết các trạng thái tinh thần này với nhau hoặc với đầu vào và đầu ra của các cơ quan cơ thể người.

Một ví dụ cho điều này là tâm lý học nhận thức. Các nhà khoa học trong lĩnh vực này đã khám phá những nguyên lý chung về nhận thức hình thái. Một quy luật của tâm lý học hình thái nói rằng các đối tượng di chuyển theo cùng hướng được nhận thức là liên hệ với nhau. Nó cũng kết nối nhiều mức độ phân tích, từ mức thấp như việc học tập và cơ chế ra quyết định tới mức cao như logic và lập kế hoạch; từ mạch thần kinh tới tổ chức vùng não.

Triết học tinh thần trong truyền thống lục địa

Hầu hết thảo luận trong bài viết này đã tập trung vào một loại hay một truyền thống triết học được xem là chủ lưu trong văn hóa phương Tây hiện đại, thường được gọi là triết học phân tích (có lúc được gọi là triết học Anh-Mĩ). Nhiều trường phái tư tưởng khác cũng tồn tại, chúng đôi khi được gộp vào một tên gọi chung là triết học lục địa.

Hay trong "Tiểu luận về mối quan hệ giữa thể xác và tinh thần" của cuốn Vật chất và Trí nhớ năm 1896, Henri Bergson đưa ra một cách sinh động sự khác biệt bản thể của tinh thần và thể xác bằng sự quy giản vấn đề đó về một vấn đề xác định hơn của trí nhớ, do đó cho phép một giải pháp xây dựng trên phương thức kiểm tra thực nghiệm của chứng mất ngôn ngữ (aphasia).

Trong thời hiện đại, hai trường phái chính được phát triển để đáp lại hoặc đối lập lại truyền thống Hegel là hiện tượng học và chủ nghĩa hiện sinh. Hiện tượng học, được khai phá bởi Edmund Husserl, tập trung vào những nội dung của tinh thần con người và cách những quá trình mang tính hiện tượng học hình thành lên kinh nghiệm của chúng ta. Chủ nghĩa hiện sinh, một trường phái tư tưởng khác thành lập dựa trên công trình của Søren Kierkegaard, dựa trên nội dung của kinh nghiệm và cách tinh thần giải quyết những kinh nghiệm như vậy.

Triết học tinh thần trong Phật giáo

Các truyền thống phương Đông như Phật giáo không chủ trương mô hình nhị nguyên tinh thần-thể xác nhưng khẳng định rằng tinh thần và thể xác là những thực thể riêng biệt. Phật giáo đặc biệt không có khái niệm về linh hồn (ātman). Một số bộ phái Phật giáo khẳng định rằng có một mức rất tinh tế của tinh thần lìa khỏi thể xác vào thời điểm chết đi và nhập vào một sự sống mới. Theo luận sư Pháp Xứng (Dharmakirti), định nghĩa về tinh thần bao gồm sự trống rỗng (không) và nhận thức (thức). Tinh thần là trống rỗng bởi vì nó luôn thiếu hình thể và bởi vì nó sở hữu năng lực thực sự để nhận thức sự vật. Tinh thần là nhận thức bởi chức năng của nó là hiểu biết hay nhận thức sự vật. Trong định nghĩa này, 'không' liên hệ với bản chất tinh thần và 'thức' với chức năng của tinh thần. Pháp sư Khắc Châu Kiệt (Khedrupje) cho rằng tư tưởng, nhận thức, tinh thần và ý thức chỉ là những từ đồng nghĩa. Bản thân Đức Phật giải thích rằng mặc dù thiếu hình thể, tuy nhiên tinh thần có thể liên hệ với hình thể. Do đó, tinh thần chúng ta liên hệ với thể xác chúng ta và nó được 'định vị' ở những vị trí khác nhau trong khắp cơ thể. Điều này có thể được hiểu trong ngữ cảnh ý thức ngũ quan và ý thức tinh thần được sinh ra. Phật giáo nhắc đến nhiều dạng khác nhau của tinh thần - ý thức tri giác, ý thức tinh thần, tinh thần thô, tinh thần tinh tế, và tinh thần rất tinh tế - và chúng đều là vô hình thể (không hình dáng, màu sắc, âm thanh, mùi, vị hay thuộc tính xúc giác), đồng thời chúng đều vận hành để nhận thức hay hiểu biết. Không thể có cái gọi là tinh thần mà lại thiếu đối tượng được nhận biết bởi tinh thần đó. Mặc dù không loại tinh thần nào có hình thể, nhưng chúng có thể liên hệ với hình thể.

Các chủ đề liên quan tới triết học tinh thần

Có vô số chủ đề bị ảnh hưởng bởi các ý tưởng phát triển trong triết học tinh thần. Những ví dụ rõ ràng nhất có thể kể tới là bản chất của cái chết và những đặc điểm xác định nó, bản chất của cảm xúc, của tri giác và ký ức. Những câu hỏi về việc một người là gì và cá tính của anh ta/cô ta bao gồm những gì cũng liên hệ nhiều tới ngành triết học này. Tuy nhiên, có hai chủ đề mà, trong mối liên hệ với triết học tinh thần, gây lên một sự chú ý đặc biệt: ý chí tự do và cái tôi.

Lập luận này bị bác bỏ, theo một cách, bởi thuyết tương thích. Những người ủng hộ thuyết này cho rằng câu hỏi "Chúng ta có tự do không?" chỉ có thể được trả lời một khi chúng ta đã xác định thuật ngữ "tự do" hàm chứa điều gì. Sự đối lập với "tự do" không phải là "bị sai khiến" mà là "bị cưỡng bách" hoặc "bị ép buộc". Sẽ không phù hợp nếu đồng nhất tự do với sự vô định. Một hành động tự do là một hành động ở đó tác nhân có thể hành động theo cách khác nếu nó được chọn theo cách khác. Theo nghĩa này một cá nhân là tự do ngay cả khi tất định luận đúng. Gần đây hơn, lập trường này vẫn được bảo vệ bởi một số nhân vật, chẳng hạn Daniel Dennett.

Theo một cách khác, có những người theo thuyết bất tương thích bác bỏ lập luận của tất định luận bởi họ tin rằng ý chí là tự do theo một nghĩa mạnh hơn gọi là chủ nghĩa tự do. b) được xác định chỉ bởi quy luật tự nhiên bất định, hoặc c) được xác định bởi các quy luật tự nhiên bất định đi đôi với nỗ lực chủ quan của cơ quan thể xác không quy giản được. Theo chủ nghĩa tự do, ý chí không phải là tất định và do đó nó có khả năng tự do. Những người chỉ trích về luận điểm thứ hai (b) lên án những người theo thuyết bất tương thích về việc dùng một quan niệm không chặt chẽ. Họ lập luận như sau: nếu ý chí của chúng ta không được xác định bởi bất cứ thứ gì, thì chúng ta ham muốn điều ta ham muốn bằng cơ may thuần túy. Và nếu điều chúng ta mong muốn là thuần túy ngẫu nhiên, thì chúng ta không tự do. Vì thế nếu ý chí của chúng ta không được xác định bởi bất cứ điều gì, chúng ta không tự do. Ý tưởng về một cái tôi như một hạt nhân cốt yếu bất biến xuất phát từ ý tưởng về một linh hồn phi vật chất. Một ý tưởng như vậy là không thể chấp nhận với hầu hết các triết thuyết đương đại, do định hướng duy vật lý của chúng, và do sự chấp nhận rộng rãi giữa các trường phái về chủ nghĩa hoài nghi về quan niệm "cái tôi" bởi David Hume, người không bao giờ có thể nắm bắt được bản thân ông làm, nghĩ hay cảm thấy bất cứ điều gì. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của các kết quả thực nghiệm từ tâm lý học phát triển, sinh học phát triển, tư tưởng về một hạt nhân cốt yếu nhưng có tính vật chất và không phải bất biến - một hệ thống đại diện tích hợp được phân bố trên sự thay đổi những mô hình các kết nối thần kinh—dường như là hợp lí. Quan điểm xem cái tôi như một ảo giác được chấp nhận bởi một số triết gia, chẳng hạn Daniel Dennett.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Một [[bản đồ não tướng học về bộ não người có từ năm 1894. Não tướng học là một trong những nỗ lực đầu tiên liên hệ những chức năng tinh thần với những phần
nhỏ|348x348px|Tượng _[[Người suy tư_ của Auguste Rodin là một biểu tượng của tư tưởng triết lý.]] **Triết học** (; ) là một ngành nghiên cứu có hệ thống về những vấn đề cơ bản và
**Thực tiễn** là toàn bộ những hoạt động có tính lịch sử - xã hội của con người. ## Đặc trưng * _Thực tiễn là những hoạt động vật chất - cảm tính_ của con
**Lý luận hành động** (hay **học thuyết hành động**) là một lĩnh vực trong triết học có liên quan đến các học thuyết về các quan hệ nhân quả có ý chí của chuyển động
Trong triết học, sự **biến hóa** (tiếng Anh: becoming) là của sự thay đổi trong một mà sự vật đấy có tồn tại sự . Trong nghiên cứu triết học của bản thể luận, khái
phải|nhỏ|247x247px| Minh họa của [[René Descartes về thuyết nhị nguyên. Đầu vào được chuyển bởi các cơ quan giác quan đến tuyến tùng trong não và từ đó đến tinh thần phi vật chất. ]]
**Triết học trí tuệ nhân tạo** là một ngành triết học nghiên cứu bản chất của trí tuệ và trí tuệ nhân tạo nhằm trả lời những câu hỏi sau: * Máy tính có thể
**Cảm tính** (trong tiếng Anh: _sentience_; trong tiếng Trung: 感情) là khả năng cảm nhận, nhận thức hoặc trải nghiệm một cách chủ quan. Các triết gia phương Tây thế kỷ XVIII sử dụng cảm
**Tâm lý học đạo đức** là một lĩnh vực nghiên cứu của cả triết học và tâm lý học. Theo lịch sử, thuật ngữ này được dùng với nghĩa tương đối hẹp nhắc đến nghiên
nhỏ|265x265px|Bức tượng _[[Người suy tư_, Auguste Rodin|thế=]] Thuật ngữ "**Triết học phương Tây**" muốn đề cập đến các tư tưởng và những tác phẩm triết học của thế giới phương Tây. Về mặt lịch sử,
nhỏ|Các tín đồ Triết học Kitô giáo|255x255px **Triết học Kitô giáo** là một sự phát triển của một hệ thống triết học đặc trưng của truyền thống Kitô giáo. ## Triết học Hy Lạp và
**Triết học châu Phi** là triết học được tạo ra bởi những người châu Phi, một loại triết học trình bày những quan điểm về thế giới quan của người Châu Phi, hay triết học
Co thê khăng đinh môt cach chăc chăn răngHiện Tượng Học Tinh Thần Trọn Bộ 2 Cuốn la môt trong cac tac phâm kho nhât va tham vong nhât trong kho tang triêt văn thê
**Triết học phương Đông** hay **triết học** **châu Á** bao gồm các triết học khác nhau bắt nguồn từ Đông và Nam Á bao gồm triết học Trung Quốc, triết học Nhật Bản và triết
**Triết học Việt Nam** là những tư tưởng triết học của người Việt. Trong suốt lịch sử Việt Nam nếu theo tiêu chí của một nền triết học là phải có triết gia, triết thuyết
**Triết học khoa học** là một nhánh của triết học quan tâm đến nền tảng, phương pháp và các hậu quả của khoa học. Các câu hỏi trung tâm của môn học này bao gồm
**Triết học toán học** là nhánh của triết học nghiên cứu các giả định, nền tảng và ý nghĩa của toán học, và các mục đích để đưa ra quan điểm về bản chất và
**Đạo** là một khái niệm cốt lõi trong tư tưởng triết học và tôn giáo Đông Á, là con đường tự nhiên của vũ trụ, là cơ chế vận hành và biến hóa của trời
**Triết học Hy Lạp cổ đại** là nền triết học được hình thành vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ VI tại Hy Lạp. Triết học Hy Lạp cổ đại được
nhỏ|phải|Một giáo sĩ Do Thái **Triết học Do Thái** (_Jewish philosophy_) hay **Triết lý Do Thái** (tiếng Do Thái: פילוסופיה יהודית) bao gồm toàn bộ triết lý, triết học được người Do Thái thực hành
thumb|right|[[Plato (trái) và Aristotle (phải), từ một bức tranh tường vẽ bởi Raphael.]] **Triết học chính trị** hay **Lý luận chính trị** là một ngành triết học nghiên cứu về các vấn đề cơ bản
**Triết học Marx-Lenin** (phiên âm tiếng Việt: **Triết học Mác - Lênin**) hay **học thuyết Marx-Lenin** là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Marx-Lenin, được Marx, Engels sáng lập vào giữa
**_Suy ngẫm về Triết học tiên khởi_**, với tựa đề con **_Chứng minh sự tồn tại của Chúa trời và sự khác biệt thực sự giữa tâm và thân_**, (tên Latinh: _Meditationes de prima philosophia,
**Lý tính** là một thuật ngữ dùng trong triết học và các khoa học khác về con người để chỉ các năng lực nhận thức của tâm thức con người. Nó miêu tả một sự
**Ludwig Josef Johann Wittgenstein** (tiếng Đức: luːtvɪç ˈjoːzɛf ˈjoːhan ˈvɪtgənʃtaɪn), sinh 26 tháng 4 1889 - mất 29 tháng 4 1951, là một nhà triết học người Áo, người đã có công đóng góp quan
**Ý thức** theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù được quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất
**Triết học cơ học** là một dạng triết học tự nhiên so sánh vũ trụ vận hành như một một cơ chế cơ học quy mô lớn (tựa như một cỗ máy). Triết học cơ
**Cārvāka **(tiếng Phạn: चार्वाक), còn được gọi là **Lokāyata** hoặc **Triết học duy vật khoái lạc**, là một hệ thống triết học Ấn Độ, cho rằng vật chất có các hình thức khác nhau. Đặc
Minh họa của [[René Descartes về nhị nguyên tâm vật. Descartes tin rằng những dữ liệu đầu vào đưa vào bởi các cơ quan cảm giác tới tuyến tùng (epiphysis) trong bộ não và từ
**Lý luận** _(hay lý luận khoa học)_ là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của
nhỏ|Ăng ghen, người đã phân tích và phát triển phạm trù vận động **Vận động** là một phạm trù của triết học Marx-Lenin dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của vật chất
**Gorgias** (; , ; 485 TCN – 380 TCN), là nhà triết học người Hy Lạp. Ông là nhân vật chính trong đối thoại _Gorgias_ do Plato viết. ## Tiểu sử Gorgias làm đại sứ
Trang này liệt kê một số liên kết đến **triết học cổ đại**. Trong triết học phương Tây, sự truyền bá Kitô giáo trong Đế chế La Mã đã đánh dấu sự kết thúc của
**Thuyết chức năng** là một lý thuyết về tinh thần trong triết học đương đại, được phát triển rộng rãi như một sự thay thế cho cả thuyết đồng nhất và chủ nghĩa hành vi.
**Tự nhiên** có hai ý nghĩa liên quan đến nhau trong triết học. Một mặt, nó có nghĩa là tập hợp của tất cả mọi thứ là tự nhiên, hoặc chịu sự hoạt động bình
**Đại học Ignatianum ở Kraków** (trước đây là **Đại học Triết học và Giáo dục** **Dòng Tên** **Ignatianum**) là một trường đại học Dòng Tên chính thức được công nhận bởi nhà nước Ba Lan.
**Chủ nghĩa tự nhiên** triết học đã được miêu tả theo nhiều kiểu. Theo nghĩa rộng nhất và mạnh nhất, chủ nghĩa tự nhiên là quan điểm siêu hình rằng "tự nhiên là tất cả
**Đồng nhất** (; , ) trong triết học là quan hệ mà mỗi vật mang chỉ đối với nó mà thôi. Khái niệm bản thể làm nổi lên nhiều vấn đề không được giải quyết
**Tình** **trạng của con người** là tất cả các đặc điểm và các sự kiện chính tạo nên các yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của con người, bao gồm sinh, tăng trưởng,
Trong ngành tâm lý học và các khoa học nhận thức, **tri giác** là quá trình thu thập, giải nghĩa, lựa chọn và tổ chức các thông tin từ giác quan. Các phương pháp nghiên
nhỏ|Trang tựa đề của tác phẩm _Tinh thần pháp luật_ xuất bản vào năm 1749 **_Tinh thần pháp luật_** (tiếng Pháp: _De l'esprit des lois_), hay _Vạn pháp tinh lý_, là một luận thuyết về
nhỏ|Một hộp sọ được nghiên cứu não tướng học tại châu Âu vào thế kỷ thứ 19 **Não tướng học** (tiếng Anh: _Phrenology_) là một môn giả khoa học liên quan đến việc đo các
**Ngôn ngữ học tính toán** là một lĩnh vực liên ngành liên quan đến mô hình thống kê hoặc dựa theo luật của ngôn ngữ tự nhiên từ góc độ tính toán cũng như nghiên
**Chủ nghĩa vô thần**, **thuyết vô thần** hay **vô thần luận**, theo nghĩa rộng nhất, là sự "thiếu vắng" niềm tin vào sự tồn tại của thần linh. Theo nghĩa hẹp hơn, chủ nghĩa vô
**Hiện tượng học** là nhánh triết học nghiên cứu cấu trúc của sự trải nghiệm và _ý thức (structures of experience and consciousness)_. Trên bình diện là một _phong trào triết học (philosophical movement)_, hiện
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Rosarium_philosphorum_Soul.jpg#/media/File:Rosarium_philosphorum_Soul.jpg|nhỏ|Hình ảnh của linh hồn trong triết học Rosarium. **Tâm hồn** trong nhiều truyền thống tôn giáo, triết học và thần thoại, là bản chất hợp nhất của một sinh vật. Tâm hồn trong
**Edmund Gustav Albrecht Husserl** (;; phiên âm tiếng Việt: **Étman Huxéc**; 8 tháng 4 năm 1859 – 27 tháng 4 năm 1938) là một nhà triết học vô thần và toán học Đức-Do Thái có
**Triết học Trung Quốc** là những tư tưởng triết học ra đời và phát triển tại Trung Quốc. ## Thời cổ đại ### Nhà Hạ, Thương và Tây Chu Theo các nhà sử học, nhà
**John Rogers Searle** (sinh 31 tháng 7 năm 1932, ở Denver, Colorado) là một triết gia người Mỹ và hiện là Giáo sư Slusser Triết học ở Đại học California, Berkeley. Được chú ý rộng
**David John Chalmers** (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1966) là một triết gia Australia chuyên về lĩnh vực triết học tinh thần và triết học ngôn ngữ, người mà các công trình gần đây