✨Nguyễn Kim

Nguyễn Kim

Nguyễn Kim (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của chính quyền và quân đội Lê trung hưng. Ông đã tích cực đối kháng nhà Mạc sau khi nhà Lê sơ sụp đổ. Ông đã đem các con em chạy sang Ai Lao, chiêu tập binh mã, tôn lập vua Lê Trang Tông, đặt nền móng gây dựng lại nhà Lê và mở đầu thời kỳ Nam–Bắc triều (1533–1592). Ông là nội tổ phụ của các chúa Nguyễn và vua Nguyễn sau này, đồng thời cũng là ngoại tổ phụ của các chúa Trịnh. Các vua Hậu Lê từ Lê Thần Tông (cháu ruột Trịnh Tùng) cũng là hậu duệ trực tiếp bên họ ngoại của ông. Miếu hiệu của ông là Triệu Tổ, thụy là Tĩnh Hoàng đế dù ông không phải là vua hoặc chúa nào ở nhà Nguyễn.

Thân thế

Theo Đại Nam thực lục (bộ sử của nhà Nguyễn soạn), tổ tiên họ Nguyễn trước là một họ có danh gia vọng tộc ở xứ Thanh Hóa Cha của Nguyễn Kim là Trừng Quốc công Nguyễn Văn Lưu, ông nội của Nguyễn Kim là Phó Quốc công Nguyễn Như Trác. Nguyễn Kim là con trưởng, làm quan triều Lê, chức Hữu vệ điện tiền tướng quân, tước An Thanh hầu.

Theo sách Đại Việt thông sử, dưới triều Mạc Đăng Dung: Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thanh hầu Nguyễn Kim là anh của Nguyễn Hoằng Dụ.

Theo nhóm tác giả Đinh Công Vỹ, Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, trong cuốn sách Nhìn lại lịch sử, nhóm tác giả này nghiên cứu phả hệ họ Nguyễn- Gia Miêu cho rằng Nguyễn Kim và Nguyễn Hoằng Dụ chỉ là anh em họ. Người sinh ra Nguyễn Kim là Nguyễn Văn Lưu, anh Nguyễn Văn Lang và bác Nguyễn Hoằng Dụ.

Sách Nguyễn Phước Tộc Thế Phả do Hội Đồng Trị Sự Nguyễn Phúc Tộc Huế ấn hành năm 1995, trong phần Thủy Tổ phả ghi Thân phụ ngài Nguyễn Kim là Trừng Quốc công Nguyễn Văn Lưu, ông nội ngài là Phó Quốc công Nguyễn Như Trác. Hội Đồng Nguyễn Phước Tộc Hải Ngoại ở Hoa Kỳ ghi nhận Thân phụ ngài Nguyễn Kim là ngài Nguyễn Hoằng Dụ, tức ngài Nguyễn Văn Lưu, ông nội ngài là ngài Nguyễn Văn Lang. Một số Hội Đồng Nguyễn Phước Tộc Hải Ngoại khác lại chỉ ghi là Trừng Quốc công Nguyễn Văn Lưu và vài nơi còn ghi chú rõ không phải là ngài Nguyễn Hoằng Dụ.

Khởi binh chống nhà Mạc

Bối cảnh

Năm Canh Dần (1530), Mạc Đăng Dung chiếm ngôi vua được 3 năm, sợ nhân tâm không ổn định, bèn truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh. Tháng Giêng năm 1530, Mạc Đăng Doanh lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Chính, tôn Mạc Đăng Dung làm Thái thượng hoàng.

Lê Ý, con trai An Thái công chúa khởi binh chống lại, xưng niên hiệu Quang Thiệu, hiệu triệu tướng sĩ các xứ Thanh Hóa, Nghệ An hợp binh đánh nhà Mạc. Lê Ý bị Mạc Quốc Trinh bắt vào tháng 11.

Thời ấy cha con Mạc Đăng Doanh do thoán nghịch, nên hào kiệt không phục, thổ tù các nơi khởi binh. Nguyễn Kim đóng ở nước Ai Lao, Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chiếm cứ xứ Thái Nguyên, Vũ Văn Uyên chiếm cứ xứ Tuyên Quang; các tướng đều danh nghĩa phục quốc. Các xứ Thanh, Nghệ, Tuyên, Hưng đều không theo họ Mạc.

Khởi binh chống nhà Mạc

Năm 1529, Nguyễn Kim ở Thanh Hoa lúc ấy giữ chức Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thanh hầu, đem con em chạy sang nước Ai Lao. Chúa nước Sạ Đầu cho rằng Đại Việt và nước họ có quan hệ môi răng, mới đem nhân dân và đất đai Sầm Châu cấp cho Nguyễn Kim. Từ đó Nguyễn Kim nuôi dưỡng sĩ tốt, chiêu nạp kẻ chạy trốn, làm phản, ngấm tìm con cháu họ Lê lập nên để mưu khôi phục.

Tháng 12 năm 1530, Nguyễn Kim lánh nạn ở châu Sầm Thượng, Sầm Hạ nước Ai Lao thu dụng được vài nghìn người, 30 con voi và 300 con ngựa. Theo lời thỉnh cầu của các tướng, bèn dẫn quân về Thanh Hoa. Nguyễn Kim đóng quân ở Lôi Dương, bị phục binh của Ngọc Trục hầu, tướng của Mạc Đăng Doanh đánh bại.

Mùa xuân năm Tân Mão (1531), Mạc Đăng Doanh sai tướng Tây Quốc công Nguyễn Kính đánh Nguyễn Kim ở xứ Thanh Hoa. Nguyễn Kim đón đánh, phá tan quân của Nguyễn Kính, sai quân đóng giữ các huyện.

Nguyễn Kính lại đánh vào Đông Sơn, Nguyễn Kim phá được, giết và bắt sống vài trăm người, rồi dẫn quân ra Gia Viễn, Điềm Độ chiêu dụ và chiếm đất.

Tháng 9 năm 1531, trời đổ mưa nhiều, nước sông dâng tràn, nhà Mạc dùng chiến thuyền tiến đánh, quân Nguyễn Kim tán loạn, không thể cố thủ. Nguyễn Kim dẫn quân trở về Ai Lao. Xứ Thanh Hoa bị đói to.

Vua Lê Trang Tông tấn phong cho tứ vị công thần khai quốc. Nguyễn Kim là Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công; Trịnh Kiểm là Dực Quận công, Trịnh Công Năng là Tuyên Quận công; Lại Thế Vinh là Hòa Quận công lại ban cho mỗi vị một quả ấn và một thanh gươm để làm tướng soái tự mang quan bản bộ đi tiêu diệt quân Mạc và phủ dụ dân chúng ở các địa phương hướng về nhà Lê trung hưng.

Sau khi phong Nguyễn Kim làm Thái sư Hưng Quốc công Chưởng nội ngoại sự, lấy Trung nhân Đinh Công làm Thiếu úy Hùng Quốc Công, còn lại, người nào cũng được phong thưởng,

Mạc Đăng Dung nghe tin liền viết thư cho vua nhà Minh, triều Minh cho Mạc Đăng Dung là dối trá nhưng đạo quân của tướng Minh là Cừu Loan, tuy kéo đến sát biên giới, vẫn do dự không tiến.

Tiến quân về nước

Mùa xuân năm Kỷ Hợi 1539, vua Lê Trang Tông phong Đại tướng quân Dực Nghĩa hầu Trịnh Kiểm, tước Dực Quận công. Trịnh Kiểm vốn theo Thái sư Nguyễn Kim đi đánh dẹp, lập nhiều chiến công. Nguyễn Kim thấy có tài, bèn gả con gái cho. Lại phong tước cho các tướng khác, sai họ đem quân chia đường tiến binh, thanh thế lẫy lừng. Đánh vào vùng Lôi Dương, đánh bại quân nhà Mạc.

Năm 1542, vua Lê Trang Tông lấy Thuỵ quận công Hà Thọ Tường làm Ngự doanh đề thống ngự giá để mưu việc tiến đánh, sai Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim thống đốc tướng sĩ các dinh đi trước, tiến đánh các nơi ở Thanh Hoa, Nghệ An. Tướng lĩnh cũ và hào kiệt hai trấn này phần nhiều theo về, thế quân càng thêm mạnh.

Năm 1543, Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh đều đã chết, Mạc Phúc Hải lên ngôi vua. Vua Lê Trang Tông thân chinh đánh Mạc Phúc Hải, lấy được Tây Đô, phá quân của Hoằng vương Mạc Chính Trung, Tổng trấn Thanh Hoa là Đại tướng quân Trung Hậu hầu dẫn quân đầu hàng. Bấy giờ, Thái sư Hưng Quốc công Nguyễn Kim còn ở Ai Lao chưa theo đi. Vua Lê Trang Tông sai Tuyên quận công Trịnh Công Năng mang chiếu thư về gọi. Nguyễn Kim bèn chỉnh đốn bộ ngũ lên đường ngay, bái yết vua ở hành tại sông Nghĩa Lộ. Lê Trang Tông gia thăng Kim làm thái tể, sai làm đô tướng, tiết chế tướng sĩ các dinh, chia đường cùng tiến, bình định vùng tây nam.

Cái chết

Nguyễn Kim bị Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất đầu độc giết chết vào năm Ất Tỵ (1545). Trung Hậu hầu vốn là hàng tướng nhà Mạc, xuất thân hoạn quan, làm quan đến chức Chưởng bộ, nghe tin vua Lê Trang Tông nổi quân, liền dùng kế trá hàng, muốn hại vua Lê Trang Tông. Việc không thành, Trung Hậu hầu mời Thái tể Nguyễn Kim đến dinh, bỏ ngầm thuốc độc trong quả dưa dâng lên trước mâm cỗ. Nguyễn Kim tin thật, ăn dưa, bị trúng độc, đến khi về thấy trong người khó chịu rồi mất. Hôm đó là ngày 20 tháng 5 năm Ất Tỵ (1545), niên hiệu Nguyên Hòa thứ 14. Trung Hậu hầu liền trốn đi, sau lại về với Mạc Phúc Hải. Vua Lê Trang Tông vô cùng thương tiếc, truy tặng là Chiêu Huân Tĩnh công, đặt tên thụy là Trung Hiến, sai quan đem về quê ở Tống Sơn mai táng.

Nhận định

Lê Quý Đôn nhận định trong sách Đại Việt thông sử:

Gia đình

Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế có 3 vị phu nhân

Chánh thất phu nhân Nguyễn Thị Mai (阮氏梅) (không rõ năm sinh, năm mất) về sau được truy tôn là Triệu Tổ Tĩnh Hoàng hậu bà vốn có xuất thân cao quý, con ông Nguyễn Minh Biện (người quê ở Phạm Xá, Hải Dương) làm quan nhà Lê chức Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thư Vệ Sự. Bà sinh ra Nguyễn Hoàng và mất vào ngày 23 tháng Giêng âm lịch (không rõ năm) táng chung vào lăng Trường Nguyên ở núi Thiên Tôn, tỉnh Thanh Hóa. Năm Giáp Tý (1748) đời chúa Nguyễn Phúc Khoát truy tôn bà: Từ Tín Chiêu Đức Ý Phi đến năm Bính Dần (1806) Hoàng đế Gia Long chính thức truy tôn thụy hiệu đầy đủ là Từ Tín Chiêu Ý Hoằng Nhân Thục Tức Tĩnh Hoàng hậu (慈信昭懿弘仁淑德靖皇后), bà phối thờ với Triệu Tổ ở Triệu Miếu trong Hoàng thành.

Thứ phu nhân Đỗ Thị Tín (杜氏信) không rõ tiểu sử, sinh ra Nguyễn Thị Ngọc Bảo.

Thứ phu nhân (Khuyết danh) không rõ tiểu sử, sinh ra Nguyễn Uông.

Con cái

• Nguyễn Uông (mất 1545), được vua Lê Trang Tông phong làm Lãng Quận công sau khi Nguyễn Kim bị hạ độc chết (nhưng Nguyễn Uông về sau bị em rể Trịnh Kiểm giết trừ hậu hoạ).

• Nguyễn Hoàng (1525–1613) mẹ là chánh thất Nguyễn Thị Mai, ông được vua Lê Trang Tông phong làm Hạ Khê hầu, sai đem quân đi đánh giặc. Về sau Nguyễn Hoàng trở thành người mở đầu cho sự nghiệp của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong.

• Nguyễn Thị Ngọc Bảo (mất 1586) mẹ là Thứ phu nhân Đỗ Thị Tín, về sau lấy Trịnh Kiểm sinh ra Trịnh Tùng rồi chết cháy trong cơn hoả hoạn ở phủ đệ của Trịnh Tùng tại An Trường được phong thụy là Từ Nghi Vương Thái Phi (慈儀王太妃).

Truy tặng

thumb|Lăng Triệu Tường trước năm 1945 Thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng, tôn thụy hiệu là Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương.

Đến đời Chúa Vũ Nguyễn Phúc Khoát thì cải thụy thành Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương, và truy tôn phi là Từ Tín Chiêu Ý Đức phi.

Đời vua Gia Long năm thứ 5 lại truy tôn là Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh Hoàng đế, miếu hiệu là Triệu Tổ, lăng gọi là Trường Nguyên, và truy tôn phi là Từ Tín Chiêu Ý Hoằng Nhân Thục Đức Tĩnh Hoàng hậu.

Lăng Triệu Tường, tên lăng chính thức là Trường Nguyên. Lăng tọa lạc tại vùng núi Triệu Tường nên thường gọi là lăng Triệu Tường, nơi hợp táng Nguyễn Kim và vợ. Từ sau ngày nhà Nguyễn cáo chung (1945) rồi chiến tranh liên miên, khu vực lăng Trường Nguyên không được chăm sóc, dân Mường được dồn về đây lập nghiệp, thiếu ý thức tôn trọng di tích nên các kiến trúc xưa bị vi phạm hầu như không còn gì. Vào hai năm 2006–2007, dòng họ Nguyễn Phúc ở Huế đã đích thân về đây trùng tu khôi phục lại nơi thờ vọng, bia và nhà bia ở chân núi Triệu Tường. Khu vực lăng Triệu Tường mở ra một địa điểm du lịch sinh thái tâm linh.

Không gian bên trong thành Triệu Tường chia làm 3 khu vực: Khu vực chính ở giữa xây Miếu Triệu Tường thờ Nguyễn Kim và Nguyễn Hoàng. Khu vực phía đông dựng miếu thờ Trừng Quốc công (Nguyễn Văn Lưu – thân phụ của Nguyễn Kim), khu vực phía tây dành làm nơi trú ngụ của các quan và gia đình hộ lăng và trại lính canh lăng.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Philipphê Nguyễn Kim Điền** (13 tháng 3 năm 1921 – 8 tháng 6 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận
**Nguyễn Kim** (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của
**Nguyễn Kim Hồng** (sinh ngày 25 tháng 9 năm 1959) là một chính trị gia về hưu người Việt Nam. Ông từng là Phó Trưởng ban Dân nguyện Quốc hội Việt Nam khóa 14, Phó
**Nguyễn Kim Sáu** (sinh năm 1969) là Kiểm sát viên Viện kiểm sát tối cao người Thái Bình, Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Vụ trưởng Vụ Kiểm sát việc giải quyết các vụ
**Nguyễn Kim Ngân** (sinh 13 tháng 7 năm 1946) là một nhà sư phạm và nhà thơ danh tiếng người Việt Nam. Ông là tác giả của bài thơ "Người mẹ Bàn Cờ", được nhạc
**Nguyễn Kim Hồng** (sinh 15 tháng 5 năm 1980) là một nữ đạo diễn người Đài Loan gốc Việt. Bộ phim _Tạm biệt người dưng thân thương_ do Nguyễn Kim Hồng và chồng là Thái
**Nguyễn Kim Quy** là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ông từng giữ chức vụ Cục trưởng Cục An ninh đối ngoại, Bộ Công an
**Nguyễn Kim Sơn** (sinh ngày 18 tháng 11 năm 1966) là nhà nghiên cứu Nho học, nhà chính trị và nhà quản lý giáo dục người Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Ban Chấp
**Phêrô Nguyễn Kim Long** (9 tháng 1 năm 1941 - 17 tháng 6 năm 2025) là một linh mục Công giáo người Việt. Ông được biết đến nhiều với vai trò là một nhạc sĩ,
**Anrê Nguyễn Kim Thông** (còn có tên khác là **Anrê Năm Thuông**, 1790-1855) là một tín hữu Công giáo Việt Nam, người đã được Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong hiển thánh năm 1988. ##
nhỏ|Nguyễn Kim **Nguyễn Kim** là chủ tịch đảng Việt Tân từ năm 2001 - 2006, đang hiện là Ủy viên Trung ương đảng cho đến nay. ## Tiểu sử Nguyễn Kim tên thật là Nguyễn
**Nguyễn Kim Cương** (tên khác: Tư Cương) (1906 – 1994) là nhà cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. ## Thời kỳ đầu Ông sinh năm 1906 tại
**Nguyễn Kim Tuấn** (tên thật là **Nguyễn Công Tiến**, tên thường gọi là **Kim Tuấn**) là một thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 3 (1927–1979). ## Thân thế
nhỏ|Trích đoạn video ngắn của Nguyen-Kim (15 giây) **Nguyễn Kim Mai Thi**, còn được biết với tên **Mai Thi Nguyen-Kim** (sinh ngày 7 tháng 8 năm 1987), là một nhà hóa học, nhà truyền thông
**Công ty cổ phần thương mại Nguyễn Kim** (Siêu thị điện máy Nguyễn Kim) với triết lý kinh doanh "_Tất cả cho khách hàng, khách hàng cho tất cả_", Thương hiệu số một trong ngành
**Nguyễn Kim Cách** (sinh năm 1956) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chủ nhiệm Chính trị, Phó Chính ủy Quân chủng Phòng không –
**Nguyễn Kim Trung** (tên khác là **Nguyễn Kim Khiêm**, sinh ngày 5 tháng 3 năm 1975) là một nhà báo và nhà quản lý trong lĩnh vực báo chí truyền thông. Ông Nguyễn Kim Trung
**Nguyễn Kim Tuyến** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1977) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn
**Nguyễn Kim Khoa** (sinh 07/3/1955) là một Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, là một đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Phú Thọ, Chủ nhiệm Ủy ban
**Nguyễn Kim Cúc** (sinh 1952) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 11, thuộc đoàn đại biểu Long An.
**Nguyễn Kim Khanh** (sinh năm 1946) là một Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa
**Nguyễn Kim Hằng** (1955 – 5 tháng 2 năm 2019) là Trung vệ, huấn luyện viên bóng đá người Việt Nam. Ông sinh ra tại Cái Bè, Tiền Giang, Việt Nam. ## Sự nghiệp Giai
**Luyện kim** là một lĩnh vực của khoa học và kỹ thuật vật liệu nghiên cứu hành vi vật lý và hóa học của các nguyên tố kim loại, các hợp chất liên kim loại
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
phải|nhỏ|Các [[kim tự tháp Ai Cập ở quần thể kim tự tháp Giza, nhìn từ trên không. Quần thể này được xây dựng vào khoảng năm 2600 TCN.]] phải|nhỏ|Đền Prasat Thom ở [[Koh Ker, Campuchia]]
**Mông Cổ chinh phạt nhà Kim** (chữ Hán: 蒙古罰金; phiên âm: _Mông Cổ phạt Kim_), hay **Chiến tranh Mông–Kim** (chữ Hán: 蒙金戰爭; phiên âm: _Mông-Kim chiến tranh_), là cuộc xâm lược toàn diện của người
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Nguyễn Văn Huyên** (1905-1975) là một giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ
**Luyện kim khai khoáng** là một nhánh của ngành luyện kim liên quan tới những khoa học và công nghệ nhằm sản xuất kim loại và khoáng vật từ nguyên liệu thô như quặng hay
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Nguyễn Cảnh Kiên** (阮景健 21 tháng 8 1553 - 4 tháng 8 1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng
Bản Tôn Chân Ngôn Trí Tuệ Kim Cương Thừa Kim Cương Thừa luôn được coi là truyền thừa bí mật bởi việc thực hành đòi hỏi căn cơ và trình độ nhất định. Tuy các
**Nguyễn Tường Tam** (chữ Hán: hay ; 1906 - 7 tháng 7 năm 1963) là một nhà văn, nhà báo với bút danh **Nhất Linh** (), **Tam Linh**, **Bảo Sơn**, **Lãng du**, **Tân Việt**, **Đông
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Stêphanô Nguyễn Như Thể** (1 tháng 12 năm 1935 – 16 tháng 12 năm 2024) là một Giám mục Công giáo Việt Nam, nguyên Tổng Giám mục Giáo phận Huế (1998–2012). Khẩu hiệu Giám mục
**[https://lvt.edu.vn/nguyen-lan-dung/ Nguyễn Lân Dũng]**, sinh năm 1938 là một giáo sư tiến sĩ sinh học, Nhà giáo Nhân dân của Việt Nam. Công tác chính của ông là giảng dạy và nghiên cứu tại Viện
**Nguyễn Thanh Bình** (4 tháng 5 năm 1918 - 19 tháng 3 năm 2008) là một chính trị gia Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Bí
**Nguyễn Lân Hiếu** (sinh ngày 14 tháng 9 năm 1972) là bác sĩ, phó giáo sư, tiến sĩ y khoa, chính trị gia người Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn** là một phần của nội chiến ở Đại Việt thời gian nửa cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Đây là cuộc chiến diễn ra chủ
**Nguyễn Kính** (chữ Hán: 阮敬; 1508 - 1572) tên thường gọi là Nguyễn Thanh Phúc, là một công thần khai quốc nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Kính, cũng còn
**Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang** (1909–1990) là một Giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận chức vụ giám mục phó, giám mục chính tòa giáo phận Cần Thơ
**Nguyễn Cảnh Huy** (1473-1536) người làng Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An, là tướng nhà Lê trung hưng, tước Hoàng Hưu tử, Bình Dương hầu. Về sau được gia phong Phúc Khánh Quận
**Nguyễn Kế Sài** (Chữ Hán: 阮柯赛), tước **Sài quận công**, là danh tướng của triều Lê trong lịch sử Việt Nam. Vì có công trong việc trung hưng triều Lê nên Nguyễn Kế Sài được
**Nguyễn Toàn An** (1449 hoặc 1450-?) hay còn gọi là **Nguyễn An** hay **Nguyễn Kim An** là nhà Nho học người Việt Nam. Quê ông ở xã Thời Cử, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương,
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Nguyễn Hữu Dật** (chữ Hán: 阮有鎰, 1603–1681) là đại công thần của chúa Nguyễn tại Đàng Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông là người có công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn, đánh lui nhiều