Nguyễn Phúc Bửu Tán (chữ Hán: 阮福寶巑; 1882 – 8 tháng 5 năm 1941), thường được gọi là Ông Hoàng Chín, tước phong Tuyên Hóa vương (宣化王), là một hoàng tử con vua Dục Đức nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Hoàng tử Bửu Tán là con trai thứ 9 của vua Dục Đức, mẹ là Từ Minh Hoàng hậu Phan Thị Điều. Bửu Tán là em ruột cùng mẹ với vua Thành Thái, hoàng tử thứ 7 của Dục Đức. Khi vua Dục Đức bị phế, các hoàng tử con ông phải theo mẹ về quê. Đến khi vua Thành Thái lên ngôi mới cho đón mẹ và các hoàng đệ vào cung.
Năm Thành Thái thứ 9 (1897), tháng 11 (âm lịch), vua ngự giá Nam tuần, cả 3 hoàng đệ là Bửu Thiện (tức Bửu Tán), Bửu Kiêm, Bửu Lũy đều được theo hầu.
Tháng 8 (âm lịch), Thành Thái năm thứ 12 (1900), Bửu Tán được vua anh phong làm Tuyên Hóa Quận công (宣化郡公), chuẩn cho trích của công 4000 quan tiền để xây dựng phủ đệ cho ông. Cũng trong năm đó, quận công Bửu Thiện cưới bà Nguyễn Thị Đình làm chánh thất, là con gái thứ của Diên Lộc Quận công Nguyễn Thân, được vua ban cho các vật phẩm và 5000 đồng.
Tháng 12 (âm lịch) cùng năm, vua cho Thượng thư bộ Lễ Ngô Đình Khả ngày ngày tới phủ đệ của quận công Bửu Tán và hoàng đệ Bửu Kiêm để dạy hai ông tiếng Tây.
Năm thứ 16 (1904), tháng giêng, vua Thành Thái cho mở trường Tôn học dạy chữ quốc ngữ và tiếng Tây cho các công tử công tôn, sai quận công Bửu Tán kiêm quản Tôn học, soạn quy chế chương trình tâu lên để thi hành (đặt 2 Trợ giáo, 5 Giáo học, 10 Thừa biện). Cũng trong năm đó, ông được gia phong làm Tuyên Hóa công (宣化公).
Tháng 10 (âm lịch) năm thứ 17 (1905), An Thành Quận vương Miên Lịch (hoàng tử út của vua Minh Mạng) ở phủ Tôn nhân dâng sớ nói rằng, các quan phần nhiều vì già yếu, từ chức nên sợ việc phủ bề bộn, khó lo chu toàn, mới xin cho Tuyên Hóa công Bửu Tán kiêm nhiếp việc ở phủ Tôn nhân. Vua tuy ưng thuận lời tâu nhưng lại không làm. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, hai ông Bửu Tán và Bửu Kiêm được Pháp tặng cho mỗi người một tấm Bắc Đẩu bội tinh hạng Năm.
Năm 1907, vua Thành Thái thoái vị nhường ngôi cho con trai là hoàng tử Vĩnh San, tức vua Duy Tân. Khâm sứ đại thần Levecque cho rằng, Tuyên Hóa công Bửu Tán lanh lợi khôn khéo, nhiều mưu kế, lưu lại ở kinh sợ sinh chuyện, đã trình với Toàn quyền Đông Dương cho ông Bửu Tán được phép chọn nơi ở mới tại một trong ba tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Bửu Tán xin được tới Nha Trang, bèn do phủ Phụ chính tâu lên, chuẩn cho ông và gia quyến tất cả 10 người dời tới dinh Án sát tỉnh Khánh Hòa (quan Bố chính Khánh Hòa trước đã dời qua ở dinh Tổng đốc, quan Án sát tỉnh đó chuyển qua ở dinh Bố chính, còn dinh Án sát bỏ trống nên cho gia đình Bửu Tán trú ngụ). Tháng 8 (âm lịch) năm Duy Tân thứ 3 (1909), nhân ngày giỗ kỵ của vua Dục Đức, Bửu Tán lại xin về kinh chiêm bái thì được chấp thuận. Tháng 3 (âm lịch) năm thứ 4, chuẩn cho Tuyên Hóa công Bửu Tán được hồi kinh.
Tháng 3 công lịch năm Bảo Đại thứ 16 (1941), Bửu Tán được tấn phong làm Tuyên Hóa Quận vương (宣化郡王). Cùng năm đó, ngày 8 tháng 5, quận vương Bửu Tán qua đời, thọ 60 tuổi, được truy phong làm Tuyên Hóa vương (宣化王), thụy là Đoan Cung (端恭). Tẩm mộ của ông hiện tọa lạc tại phường An Cựu, thành phố Huế.
Phủ đệ của Tuyên Hóa vương tọa lạc tại số 32, Trần Hưng Đạo, phường Đông Ba, Huế, hiện đang trong tình trạng xuống cấp. Tuyên Hóa vương Bửu Tán không lựa chọn kiến trúc nhà rường truyền thống mà đã chọn kiểu kiến trúc Pháp để xây dựng phủ đệ cho mình. Đây là một trong những công trình kiến trúc đầu tiên ở Huế mang phong cách kết hợp hài hòa giữa hai nền mỹ thuật Đông - Tây.
Tuyên Hóa vương Bửu Tán nổi tiếng với những đóng góp của ông trong nghệ thuật tuồng Huế, ca Huế. Một người con trai của ông là Vĩnh Phan, tập phong Đình hầu, được biết đến là một danh cầm tuyệt kỹ, nổi tiếng trong lĩnh vực âm nhạc dân tộc. Vợ của công tử Vĩnh Phan là bà Bích Liễu, một giọng ca chầu văn nổi tiếng trong cung đình Huế lúc bấy giờ. Hai ông bà sinh được hai người con trai, đều là những nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam, là Bảo Chấn và Bảo Phúc.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phúc Bửu Tán** (chữ Hán: 阮福寶巑; 1882 – 8 tháng 5 năm 1941), thường được gọi là **Ông Hoàng Chín**, tước phong **Tuyên Hóa vương** (宣化王), là một hoàng tử con vua Dục Đức
**Nguyễn Phúc Bửu Kiêm** (chữ Hán: 阮福寶嵰; 1884 – 5 tháng 8 năm 1940), thường được gọi là **Ông Hoàng Mười**, tước phong **Hoài Ân vương** (懷恩王), là một hoàng tử con vua Dục Đức
**Nguyễn Phúc Bửu Tủng** (còn đọc là **Tung**) (chữ Hán: 阮福寶𡾼; ? – 1900), tước phong **An Hóa Quận vương** (安化郡王), là một hoàng tử con vua Đồng Khánh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Phúc Bửu Lũy** (còn có âm đọc là **Bửu Lỗi**) (chữ Hán: 阮福寶𡾊; 1885 – 1902), tước phong **Mỹ Hóa công** (美化公), là một hoàng tử con vua Dục Đức nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Vĩnh Cẩn** (chữ Hán: 阮福永𧯢, 1914 - ?) là Hoàng thân triều Nguyễn. Ông là cháu cố của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai, là cháu nội của Kiên Quận công Nguyễn
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Phúc Miên Điều** (còn có âm đọc là **Điệu**) (chữ Hán: 阮福綿𡩢; 13 tháng 2 năm 1836 – 17 tháng 7 năm 1891), tước phong **Kiến Hòa Quận công** (建和郡公), là một hoàng tử
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1835)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1820)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Nguyễn Phúc Hồng Truyền** (chữ Hán: 阮福洪傳; 3 tháng 9 năm 1837 – 18 tháng 7 năm 1889), tước phong **Tuy Hòa Quận vương** (綏和郡王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Sạ** (chữ Hán: 阮福綿宱; 13 tháng 3 năm 1830 – 13 tháng 1 năm 1902), tước phong **Tĩnh Gia công** (靜嘉公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Bửu Đình** (寳庭), bút danh **Hà Trì** (1898 - 1931) là nhà văn, nhà báo, nhà cách mạng Việt Nam. ## Tiểu sử Ông tên khai sinh **Nguyễn Phúc Bửu Đình**, sinh năm 1898 tại
**Phụ Thiên Thuần Hoàng Hậu** (chữ Hán: 輔天純皇后, 22 tháng 12 năm 1870 - 19 tháng 11 năm 1935), còn được gọi là **Đức Thánh Cung** (德聖宮), là chính thất của Đồng Khánh hoàng đế
**Nguyễn Văn Tâm** (阮文杺, 1893 – 1990) là Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam dưới quyền Quốc trưởng Bảo Đại từ tháng 6 năm 1952 đến tháng 12 năm 1953. Ông là người
**Trương Tấn Bửu** (Chữ Hán: 張進寶; 1752 – 1827), có tên khác là **Trương Tấn Long** (張進隆); là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. Nhờ lập được nhiều
nhỏ|phải|Bửu tỷ của vua Gia Long **Bửu tỷ triều Nguyễn** hay **bảo tỷ triều Nguyễn** là loại ấn tín của Hoàng đế, tượng trưng cho Đế quyền của các vị vua triều Nguyễn. Bửu tỷ
**Nguyễn Thị Anh** (chữ Hán: 阮氏媖; 1879 – ?), phong hiệu **Hoàng quý phi** (皇貴妃), là một cung phi của vua Thành Thái nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Vua Duy Tân lên ngôi
**Từ Minh Huệ hoàng hậu** (chữ Hán: 慈明惠皇后, 8 tháng 9 năm 1855 - 27 tháng 12 năm 1906) là vợ chính của Nguyễn Cung Tông Dục Đức của triều đại nhà Nguyễn trong lịch
**Thiên Tân** (; ), giản xưng **Tân** (津); là một trực hạt thị, đồng thời là thành thị trung tâm quốc gia và thành thị mở cửa ven biển lớn nhất ở phía bắc của
**Ngũ hổ tướng** () là danh hiệu người đời tặng cho năm vị danh tướng của Nguyễn Ánh gồm: Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức, Trương Tấn Bửu. ##
**Nguyễn Hữu Thị Nga** (chữ Hán: 阮有氏娥; 29 tháng 10 năm 1881 – 19 tháng 12 năm 1945), phong hiệu **Nhất giai Huyền phi** (一階玄妃), là một cung phi của vua Thành Thái nhà Nguyễn
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp thủ đô Hà Nội, phía đông giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Lưu Vĩnh Phúc** (tiếng Trung: 劉永福/刘永福) (1837—1917), tự **Uyên Đình** (淵亭/渊亭), người Khâm Châu, Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây), quê ở Bác Bạch, Ngọc Lâm, Quảng Tây, là một vị tướng vào cuối thời
**Tấn Điệu công** (chữ Hán: 晋悼公, cai trị: 572 TCN – 558 TCN), họ **Cơ** (姬), tên thật là **Chu** (周) hay **Củ** (糾), còn được gọi là **Chu tử** (周子) hoặc **Tôn Chu** (孫周),
**Học phi Nguyễn Văn thị** (chữ Hán: 學妃阮文氏, ? - 1893), còn gọi là **Huy Thuận Học phi** (徽順學妃), là một phi tần của Nguyễn Dực Tông Tự Đức và là mẹ nuôi của Nguyễn
**Tản Đà** (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật **Nguyễn Khắc Hiếu** (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của
**Nguyễn Khắc Thị Bảo** (còn đọc trại là **Bửu**) (chữ Hán: 阮克氏寶; 7 tháng 9 năm 1801 – 12 tháng 9 năm 1851), phong hiệu **Tứ giai Thục tần** (四階淑嬪), là một cung tần của
**Nguyễn Quang Thùy** (chữ Hán: 阮光垂; ? – 1802), là con vua Quang Trung và là _Tiết chế thủy bộ chư quân miền Bắc_ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
phải|nhỏ|Nguyễn Thông. **Nguyễn Thông** (1827–1884), tự **Hy Phần**, hiệu **Kỳ Xuyên**, biệt hiệu **Độn Am**; là quan nhà Nguyễn và là danh sĩ Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 19. Ngoài ra, ông chính
**Nguyễn Văn Lộc** (1922 – 1992) là Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa từ tháng 11 năm 1967 đến đầu năm 1968. ## Thời trẻ Nguyễn Văn Lộc sinh năm 1922 tại làng Long Châu
**Huỳnh Công Lý** hay **Hoàng Công Lý** (? - 1821) là võ quan cao cấp của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1819, ông được cử làm Phó tổng trấn Gia Định thành,
**Tấn Mục Đế** () (343 – 10 tháng 7 năm 361), tên thật là **Tư Mã Đam** (司馬聃), tên tự **Bành Tử** (彭子), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Đông Tấn, và là
Long Sơn (chữ Hán giản thể:龙山区, âm Hán Việt: _Long Sơn khu_, bính âm: lóng shan qu) là một quận thuộc địa cấp thị Liêu Nguyên, tỉnh Cát Lâm, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
**Thành Thái** (chữ Hán: 成泰 14 tháng 3 năm 1879 – 20 tháng 3 năm 1954), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc Bửu Lân** (阮福寶嶙), là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà
**Lý Bưu** (chữ Hán: 李彪, 444 – 501), tên tự là **Đạo Cố**, người huyện Vệ Quốc, quận Đốn Khâu , là quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung
Khoa Phục hồi chức năng – Đông y (PHCN-ĐY) được thành lập từ năm 1990 với đội ngũ bác sỹ giàu kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn tốt, tận tụy hết lòng vì bệnh
**Tuy Lý Vương** (chữ Hán: 綏理王, 3 tháng 2 năm 1820 - 18 tháng 11 năm 1897), biểu tự **Khôn Chương** (坤章) và **Quý Trọng** (季仲), hiệu **Tĩnh Phố** (靜圃) và **Vỹ Dã** (葦野); là
**Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 佑天純皇后, 18 tháng 4 năm 1868 - 17 tháng 9 năm 1944), còn được gọi là **Đức Tiên Cung** (德仙宮), là thứ thất của Đồng Khánh thuộc triều
**Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông** (_Posts and Telecommunications Institute of Technology_) là một tổ chức Nghiên cứu - Giáo dục Đào tạo với thế mạnh về Nghiên cứu và đào tạo Đại
nhỏ|Chân dung [[Hoàng đế Khải Định khi công du ở Pháp năm 1922.]] nhỏ|Khải Định khi ở [[Huế (thành phố thuộc tỉnh)|Huế]] **Khải Định Đế** (chữ Hán: 啓定帝; 8/10/1885 – 6/11/1925), tên khai sinh **Nguyễn
**Đế hệ thi** () là một bài thơ theo thể _ngũ ngôn tứ tuyệt_ do vua Minh Mạng định ra để đặt tên cho con cháu của mình. Ngoài ra, ông còn định luôn 10
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Lăng Đồng Khánh** hay **Tư Lăng** (思陵) là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế đây là nơi an táng hoàng đế Đồng Khánh, lăng tọa lạc giữa một vùng quê
nhỏ|Chùa Bửu Hưng (Lai Vung, Đồng Tháp) **Chùa Bửu Hưng** (tục gọi là **chùa Cả Cát**) tọa lạc tại xã Long Thắng, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Đây là một ngôi chùa