✨Thành Thái

Thành Thái

Thành Thái (chữ Hán: 成泰 14 tháng 3 năm 1879 – 20 tháng 3 năm 1954), tên khai sinh là Nguyễn Phúc Bửu Lân (阮福寶嶙), là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907.

Do chống Pháp nên ông, cùng với các vua Hàm Nghi và Duy Tân, là 3 vị vua yêu nước trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc bị đi đày tại ngoại quốc (bao gồm vua Hàm Nghi, ông và vua Duy Tân). Ông không có miếu hiệu.

Thuở nhỏ

Thành Thái tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Lân (阮福寶嶙), khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Chiêu (阮福昭). Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Phan Thị Điều, sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão tức 14 tháng 3 năm 1879 tại Huế. Ông là cháu nội của Thoại Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y và là chắt của vua Thiệu Trị.

Năm ông bốn tuổi, vua cha Dục Đức bị hai đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường phế truất và chết trong tù. Đến nǎm được chín tuổi, vì ông ngoại là Phan Đình Bình (làm quan Thượng thư bộ Hộ) bị vua Đồng Khánh bắt giam rồi bỏ cho chết vì mắng Đồng Khánh nịnh bợ và thân Pháp khi Đồng Khánh ra Quảng Bình dụ vua Hàm Nghi đầu hàng, nên Bửu Lân lại phải cùng mẹ Từ Minh lên kinh đô, chịu sự quản thúc, sống trong cảnh thiếu thốn.

Ngày 28 tháng 1 năm 1889, vua Đồng Khánh yểu bệnh qua đời ở tuổi 24. Khi đó con vua Đồng Khánh là Bửu Đảo mới 3 tuổi nên không nối ngôi được, triều đình Huế xin ý kiến của Tổng sứ Trung Bắc kỳ Pierre Paul Rheinart. Ở tòa Khâm sứ lúc này có ông Diệp Văn Cương đang làm thông ngôn. Diệp Vǎn Cương lấy cô ruột của Bửu Lân, và cũng có cảm tình thương hại vua Dục Đức (anh vợ), nên cố tìm cách cho cháu mình lên ngôi. Ông dịch cho Khâm sứ Rheinart nghe hoàn toàn khác với ý của Viện Cơ mật. Vì thế Bửu Lân được chọn lên ngai vàng. Khi phái đoàn của triều đình đến rước Bửu Lân lên ngôi, bà Từ Minh khóc van xin phái đoàn tha cho con. Bà nghĩ tới cảnh chồng mình là vua Dục Đức và thảm kịch bốn tháng ba vua trước đây nên khóc lóc, năn nỉ. Sau một hồi khuyên giải, Từ Minh mới chấp nhận để cho phái đoàn rước Bửu Lân về Tử Cấm thành.

Cai trị

Lên ngôi

thumb|Ảnh chụp vua Thành Thái năm 1892, thuộc bộ sưu tập của Loan de Fontbrune

Ngày 2 tháng 2 năm 1889, Bửu Lân lên ngôi tại điện Thái Hòa lấy hiệu là Thành Thái. Khi đó Bửu Lân mới 10 tuổi. Triều Thành Thái khác các triều trước ở chỗ lễ đǎng quang không có Truyền quốc bảo tỷ ấn ngọc. Lúc trước, khi rời khỏi Kinh thành Huế, vua Hàm Nghi đã mang theo và đánh mất tại tỉnh Quảng Bình. Cho nên lúc tại vị vua Đồng Khánh đã phải dùng một ấn ngọc khác. Ngoài ra, di chiếu cũng không có. Vua Dục Đức hay vua Đồng Khánh không truyền ngôi lại cho vua Thành Thái. Không ấn ngọc, không di chiếu, nhưng lại có một toán lính Pháp bồng súng đóng ở bên trong cửa Ngọ Môn.

Thành Thái là một ông vua trẻ có nhiều tính cách đặc biệt. Những ngày đầu tiên, tuy đã là vua nhưng vì còn bé nên ông vẫn thích chơi bời, nghịch ngợm. Một số quan phụ chính giúp đỡ như Tuy Lý vương, Nguyễn Trọng, Trương Quang Đản, thường có lời can ngǎn ông, nhưng không được ông nghe lời. Các bà hậu ở Lưỡng cung rất lo cho Thành Thái, đã bắt ông ra ở đảo Bồng Dinh trên hồ Tịnh Tâm và quản thúc ông rất nghiêm ngặt, để đưa vào khuôn phép. Một thời gian sau, ông mới trở về Đại Nội.

Thành Thái được đánh giá là người cầu tiến, yêu nước và chống Pháp. Khác với những vị vua trước đây, ông học chữ Nho, học tiếng Pháp và cũng cho cả con cái của mình cùng theo học chữ Pháp. Không nói ra, nhưng rõ ràng ý định của ông là học chữ Pháp để có thể giao tiếp với những người này với tinh thần chống Pháp. Ông còn cắt tóc ngắn, mặc âu phục, học cả lái ca nô, xe hơi, làm quen với vǎn minh phương Tây. Là vị vua gần gũi với dân chúng, ông thường xuyên đi vi hành. Thành Thái cũng cho phép hoàng phi bị cấm cung đi cùng với mình bằng xe. Và lần đầu tiên "dân chúng quên cả nhìn mặt vua, lúc này không bị tội phạm tất". Dân gian lúc này có một câu ca dao nói về sự vi hành của vua Thành Thái: :Kim Long có gái mỹ miều, :Trẫm thương, Trẫm nhớ, Trẫm liều, Trẫm đi Ông để ý đến cả các loại vũ khí, đã giao cho họa sĩ Lê Vǎn Miến (tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Paris) vẽ cho ông các khẩu súng Pháp. Vua Thành Thái rất thích đọc những tân thư chữ Hán của Trung Quốc và Nhật Bản. Nhờ đó vua có tinh thần tự cường dân tộc và đầu óc cải cách. Thành Thái làm thơ không nhiều, nhưng có những bài xuất sắc. Ông cũng ham vǎn nghệ, đánh trống tuồng khá thành thạo, có khi lên đóng một vài vai tuồng ở Duyệt Thị Đường. Có thể nói Thành Thái là người có hiểu biết khá toàn diện.

Tinh thần chống Pháp

thumb|Vua Thành Thái trên ngai vàng Thành Thái dần dần bộc lộ tinh thần dân tộc rất cao. Ông khinh ghét những bọn quan lại xu phụ. Một viên quan lớn là Nguyễn Thân đã tiến con gái đến cho vua (là đệ nhất giai phi của Thành Thái) song cũng không được ông trân trọng. Có lần, cầu Long Biên ở Hà Nội được lấy tên Toàn quyền Pháp Doumer, xây dựng xong, Hoàng Cao Khải đưa ra một danh sách xin nhà vua ban thưởng cho những người có công, nhà vua đã cười nhạt mà trả lời: "Ta có biết mặt mũi những đứa nào đâu". Những người Pháp thường xuyên gần gũi không được ông trọng thị lắm vì vậy họ thường có thành kiến với ông. Có những tài liệu nói là nhà vua đã toan bí mật sang Trung Quốc, nhưng mới đi đến Thanh Hóa đã bị người Pháp ngǎn chặn. Lại có ý kiến cho rằng ông đã đồng tình giúp đỡ tạo điều kiện cho Cường Để xuất dương theo Phan Bội Châu sang Nhật.

Dưới triều Thành Thái tuy vẫn còn có những cuộc vận động chống Pháp, nhưng nhìn chung Việt Nam cũng đã đi vào ổn định, nên đã có nhiều công trình mới được xây dựng. Nhất là ở kinh đô Huế, các bệnh viện, trường Quốc học, chợ Đông Ba, cầu Tràng Tiền... đều được xây dựng vào thời kỳ này. Như trường hợp trường Quốc học Huế năm 1896, chính nhà vua đã gợi ý vấn đề thành lập với Thượng thư Ngô Đình Khả. Chính quyền thực dân Pháp phải đồng ý cho tiến hành những công trình đó.

Vua Thành Thái còn bí mật lập các đội nữ binh để che mắt Pháp. Một số tài liệu ghi rằng vua đã chiêu nạp được 4 đội, mỗi đội 50 người, đội trước huấn luyện xong thì trở về gia đình và nạp đội mới, khi có thời cơ sẽ cùng nổi dậy chống Pháp. Nhưng sự việc cuối cùng bị lộ khi Thượng thư bộ Lại Trương Như Cương và Cơ mật viện báo cho Khâm sứ Pháp Levécque.

Bị ép thoái vị

Trước các ý tưởng cấp tiến của Thành Thái, người Pháp lo ngại tìm cách ngăn trở. Để che mắt, Thành Thái giả hành động như một người mất trí. Khi các bản vẽ vũ khí của ông bị phát hiện, Thành Thái giả điên, cào cấu các bà cung phi và xé nát các bản vẽ. Lợi dụng cơ hội này, người Pháp vu cho ông bị điên, ép ông thoái vị, nhường ngôi cho con vì lý do sức khỏe. Khâm sứ Pháp còn nói thẳng là đã biết ông có ý đồ chống Pháp, nên không để ông ở ngôi được. Còn nếu Thành Thái muốn tại vị thì ông phải ký vào một tờ giấy tạ tội, tuyên bố với quốc dân là có âm mưu chống lại nước Pháp, nay phải thành thực hồi tâm. Nhưng ông đã ném tờ tuyên cáo thảo sẵn ấy xuống đất, từ chối.

Ngày 29 tháng 7 năm 1907, nhân dịp Thành Thái không phê chuẩn việc bổ nhiệm một số quan lại đã được Khâm sứ Lévêque và Hội đồng Thượng thư thỏa thuận, Lévêque đã tuyên bố truất quyền và quản thúc Thành Thái trong Đại Nội. Một Hội đồng Phụ chính do Trương Như Cương cầm đầu được thành lập.

Ngày 3 tháng 9 năm 1907, triều thần theo lệnh của Pháp vào điện Càn Thành dâng vua dự thảo chiếu thoái vị, có chữ ký của các đại thần (trừ Ngô Đình Khả), với lý do sức khoẻ không bảo đảm, xin tự nguyện thoái vị. Xem xong bản dự thảo, Thành Thái chỉ cười nhạt, ghi hai chữ "phê chuẩn" rồi quay lưng đi vào.

Lưu đày

nhỏ|Ảnh phục dựng [[Bảo Đại và Thành Thái ở Đà Lạt năm 1951.]]

Ngày 12 tháng 9 năm 1907, Chính phủ Bảo hộ đưa Thành Thái ngự vào Sài Gòn, xin bàn định cách xưng hô. Phủ Phụ chính tâu nói bản triều không có lệ ấy, duy vua các triều trước nhường ngôi đều được tôn là Thái thượng hoàng, đích mẫu là Hoàng thái hậu, sinh mẫu là Hoàng thái phi. Nay hoàng thượng lên ngôi, cứ nói là lúc đầu chưa kịp bàn bạc về lễ. Sài Gòn là nhượng địa do nước Pháp quản hạt, việc xưng hô tùy theo tục nước Pháp. Tới như ở Trung Bắc hai kỳ phàm nếu phải viết tới và xưng hô đều tuân theo chiếu tấn tôn gọi là :Hoàng phụ, Hoàng đích mẫu, Hoàng sinh mẫu, chờ về sau sẽ bàn nghĩ thi hành.. Thành Thái bị đưa đi quản thúc ở Bạch Dinh, Cap Saint Jacques (Vũng Tàu ngày nay). Đến nǎm 1916 ông bị đày ra đảo Réunion cùng với con trai là vua Duy Tân.

Ông cùng gia đình thuê một căn nhà ở thành phố Saint Denis tại đảo Réunion. Thành Thái và Hoàng phi Chí Lạc dạy các con tiếng Việt và cả những nhạc cụ dân tộc như đàn cò, sáo... Ông tự phân công cho tất cả những người con từ nhỏ đến lớn đảm nhận công việc trong gia đình. Các công chúa phụ mẹ việc bếp núc, làm vườn. Các hoàng tử, người thì làm cận vệ cho Thành Thái, người đảm nhận lo phần trầu cau, điểm tâm sáng, người phụ dọn dẹp nhà cửa...

Khác với vua Hàm Nghi khi bị đày ở Algerie trước đó, cuộc sống của cha con cựu hoàng Thành Thái khá chật vật. Già cả ốm đau, con cái nheo nhóc, ông hoàng Bửu Lân nhiều lần bị chủ nhà đòi tiền thuê nhà, chủ nợ đòi nợ. Năm 1925, vua Khải Định biết tình cảnh ông, đã trích ngân sách gửi sang cho ông 1.000 đồng, rồi sau thỉnh thoảng lại cho tiền. Sau khi Khải Định mất, không còn khoản tiền đó nữa, nên ngày 21 tháng 9 năm 1935, Bửu Lân phải viết thư gửi vua Bảo Đại xin nhà nước Bảo hộ Pháp cho một khoản tiền để mua nhà, "hễ hết đời" ông thì nhà nước sẽ thu lại.

Đầu tháng 5 năm 1947 (sau khi vua Duy Tân mất), nhờ sự vận động của con gái và con rể của ông, vợ chồng luật sư Vương Quang Nhường, cựu hoàng Thành Thái mới được cho về Việt Nam. Ông cùng gia đình sống ở Villa Anna tại Cap Saint Jacques (Vũng Tàu ngày nay).

Tháng 3 năm 1953, ông được phép về Huế thăm lăng tẩm cha mẹ.

Ông mất ngày 20 tháng 3 năm 1954 tại Sài Gòn và được an táng tại khuôn viên thành An Lăng (lăng Dục Đức) tại xã An Cựu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, hưởng thọ 75 tuổi.

Vinh danh

Ông được đặt tên cho một con đường nối dài ở quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều đường phố, địa danh khác trên khắp cả nước.

Gia quyến

  • Cha: Cung Tông Huệ Hoàng đế Dục Đức Nguyễn Phúc Ưng Chân.
  • Mẹ: Từ Minh Huệ Hoàng hậu Phan Thị Điều.

    Hậu phi

    Hậu duệ

    Vua Thành Thái có rất nhiều con nhưng chưa được khảo sát đầy đủ. Tên các hoàng tử và công chúa do các tài liệu ghi lại còn nhiều mâu thuẫn. Danh sách dưới đây chủ yếu dựa theo tài liệu xuất bản năm 1995, trừ phi được chú thích thêm.

Con trai

Nguyễn Phúc Vĩnh Hy (1895 – 4 tháng 10 năm 1966)

Nguyễn Phúc Vĩnh Diệm (阮福永琰) (24 tháng 12 năm 1895 - 27 tháng 12 năm 1895).

Nguyễn Phúc Vĩnh Linh (阮福永玲) (8 tháng 3 năm 1897 - 12 tháng 3 năm 1897).

Nguyễn Phúc Vĩnh Trân (阮福永珍) (1897 - 15 tháng 5 năm 1973).

Nguyễn Phúc Vĩnh Uyển (阮福永琬) (21 tháng 7 năm 1899 - 24 tháng 7 năm 1899).

Nguyễn Phúc Vĩnh San (阮福永珊) , tức Hoàng đế Duy Tân, con của Tài nhân Nguyễn Thị Định.

Nguyễn Phúc Vĩnh Ngoạn (阮福永玩).

Nguyễn Phúc Vĩnh Kỳ (阮福永琪).

Nguyễn Phúc Vĩnh Chương (阮福永璋) (1907 - 1948)

Nguyễn Phúc Vĩnh Sâm (hoặc Thâm) (阮福永琛).

Nguyễn Phúc Vĩnh Khuê (阮福永珪).

Nguyễn Phúc Vĩnh Giác (阮福永玨), con của Huyền phi Nguyễn Hữu Thị Nga.

Nguyễn Phúc Vĩnh Kha (阮福永珂), con bà Khoan phi.

Nguyễn Phúc Vĩnh Vũ (阮福永瑀), con bà Tiết phi.

Nguyễn Phúc Vĩnh Ngọc (阮福永玉) (28 tháng 7 năm 1906 - 31 tháng 1 năm 1909).

Nguyễn Phúc Vĩnh Tiến.

Nguyễn Phúc Vĩnh Lưu (阮福永琉) (1907 - 1948), con của hoàng phi Chí Lạc.

Nguyễn Phúc Vĩnh Quỳnh (阮福永瓊) (1915), chết non, con của hoàng phi Chí Lạc.

Nguyễn Phúc Vĩnh Khôi (阮福永瑰) (1919 - 1969), con của hoàng phi Chí Lạc, sinh ở Réunion.

Nguyễn Phúc Vĩnh Giu (1922 - 2007), con của hoàng phi Chí Lạc

Nguyễn Phúc Vĩnh Giêu (1924 - 2014), con bà Giai Triệu, sinh ở Réunion.

Nguyễn Phúc Vĩnh Hòe, con của Tài nhân Nguyễn Thị Định.

Nguyễn Phúc Vĩnh Cầu (1924 - ?), con của hoàng phi Chí Lạc, sinh ở Réunion.

Con gái

Nguyễn Phúc Lương Trinh, con bà Kiều.

Nguyễn Phúc Lương Kiều.

Nguyễn Phúc Lương Yên.

Nguyễn Phúc Lương Xuân.

Nguyễn Phúc Lương Huyên (1899-1977)

Nguyễn Phúc Lương Viện.

Nguyễn Phúc Lương Diệu.

Nguyễn Phúc Lương Khanh, con của Huyền phi Nguyễn Hữu Thị Nga.

Nguyễn Phúc Lương Ngoạn.

Nguyễn Phúc Lương Diên, lấy Lê Quang Thiết (chú ruột của bà Phi Ánh, thứ phi của Bảo Đại).

Nguyễn Phúc Lương Nghiên.

Nguyễn Phúc Lương Huyền.

Nguyễn Phúc Lương Nhiêu.

Nguyễn Phúc Lương Hân.

Nguyễn Phúc Lương Tường.

Nguyễn Phúc Lương Chuyên.

Nguyễn Phúc Lương Nhàn, con của Tài nhân Nguyễn Thị Định, em ruột Duy Tân. Lấy Luật sư Vương Quang Nhường.

Nguyễn Phúc Lương Tĩnh.

Nguyễn Phúc Lương Linh, tức "mệ Sen", con bà Khoan phi.

Nguyễn Phúc Lương Mỹ, con của hoàng phi Chí Lạc.

Nguyễn Phúc Lương Cát.

Nguyễn Phúc Lương Hảo, con của hoàng phi Chí Lạc.

Nguyễn Phúc Lương Hy.

Nguyễn Phúc Lương Thâm, con của hoàng phi Chí Lạc.

Nguyễn Phúc Lương Hoàn.

Nguyễn Phúc Lương Cầm, con của hoàng phi Chí Lạc.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thanh Thái Tông Kế phi** (chữ Hán: 清太宗繼妃; ? - ?) Ô Lạp Na Lạp thị, là Kế thất của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực, Hoàng đế đầu tiên của nhà Thanh trong lịch
**Thanh Thái Tông Nguyên phi** (chữ Hán: 清太宗元妃, ? - ?) là nguyên phối Phúc tấn của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực, Hoàng đế đầu tiên của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
**Thanh Thái Tổ Kế phi** (chữ Hán: 清太祖继妃; ? - 1620), Phú Sát thị, nguyên danh **Cổn Đại** (袞大), là Kế Phúc tấn của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích. ## Tiểu sử Kế
**Thanh Thái Tổ Nguyên phi** (chữ Hán: 清太祖元妃; 1560 - 1592), Đông Giai thị, tương truyền có tên gọi **Cáp Cáp Nạp Trác Thanh** (哈哈纳扎青), là Phúc tấn nguyên phối của Thanh Thái Tổ Nỗ
**Ngụy Thanh Thái** (chữ Hán: 魏清泰; ? - ?) là một quan lại ngoại thích thời Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. Ông là thân phụ của Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, từng là
**Thành Thái** (chữ Hán: 成泰 14 tháng 3 năm 1879 – 20 tháng 3 năm 1954), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc Bửu Lân** (阮福寶嶙), là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà
**Chiêu Thánh Thái Hậu** (_chữ Hán_:昭聖太后) là thụy hiệu hay tôn hiệu của một số vị thái hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Hậu Hán Cao Tổ
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慈高皇后, ; 1575 - 31 tháng 10 năm 1603), là một Đại phúc tấn của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đồng thời là sinh mẫu của
**Bình Thành** là một xã nằm ở phía tây của tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. ## Địa lý Xã Bình Thành có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Trung Hội *Phía tây giáp
MASCARA 3D – CHUỐT MI THẦN THÁNH THÁI LANMASCARA 3D – CHUỐT MI THẦN THÁNH THÁI LANMASCARA 3D – CHUỐT MI THẦN THÁNH THÁI LANMASCARA 3D – CHUỐT MI THẦN THÁNH THÁI LANv
**Trung Thành** là một phường ở phía nam của tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. ## Địa lý Phường Trung Thành có vị trí địa lý: *Phía đông giáp tỉnh Bắc Ninh *Phía tây giáp thành
**Tân Thành** là một xã ở phía đông nam của tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. ## Địa lý Xã Tân Thành có vị trí địa lý: *Phía đông giáp tỉnh Bắc Ninh *Phía tây giáp
**Hợp Thành** là một xã thuộc tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. ## Địa lý Xã Hợp Thành có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Yên Trạch và xã Phú Lương *Phía tây giáp
—thanh thải chì sáng da ,sp đc dùng trong các spa lớn tai trung , tinh chất từ nhao thai , ( human ,placontex extract ) Dùng xong da mặt hồng hào cực thich -
HUYẾT THANH THẢI ĐỘC GOLDWELL KERASILK REVITALIZE DETOXIFYING 100MLCông dụng:Huyết thanh GOLDWELL DETOXIFYING có công thức chứa ECTOIN và tảo algae giúp củng cố lớp bảo vệ tự nhiên của da đầu, loại bỏ hiệu
HUYẾT THANH THẢI ĐỘC GOLDWELL KERASILK REVITALIZE DETOXIFYING 100ML Công dụng: Huyết thanh GOLDWELL DETOXIFYING có công thức chứa ECTOIN và tảo algae giúp củng cố lớp bảo vệ tự nhiên của da đầu, loại
Huyết thanh thải độc Goldwell Kerasilk Revitalize Detoxifying 100mlCông dụng: Huyết thanh GOLDWELL DETOXIFYING có công thức chứa ECTOIN và tảo algae giúp củng cố lớp bảo vệ tự nhiên của da đầu, loại bỏ
VUA THÀNH THÁI Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Hữu Nam Một cựu vương đã chấp nhận bị phế truất khỏi ngai vàng để rồi bước vào cuộc lưu đày biệt xứ ở đảo La Réunion
**Thái Bình** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Theo cuộc Tổng điều tra dân
**Thái Lan**, gọi ngắn là **Thái**, quốc hiệu là **Vương quốc Thái Lan**, là một quốc gia ở Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanmar, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hải Lăng** (chữ Hán phồn thể: 海陵區, chữ Hán giản thể:海陵区) là một quận thuộc địa cấp thị Thái Châu, tỉnh Giang Tô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận Hải Lăng có diện tích
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,
**Tử Cấm Thành** () là một khu phức hợp cung điện ở khu Đông Thành thuộc Bắc Kinh, Trung Quốc, với tổng diện tích 720.000 mét vuông (180 mẫu). Dù là khu phức hợp cung
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Thái Bình** là một tỉnh cũ thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. ## Lịch sử tổ chức hành chính ### Trước khi thành lập tỉnh Vùng đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay,
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp thủ đô Hà Nội, phía đông giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh
**Thái Bình Dương** (Tiếng Anh: _Pacific Ocean_) là đại dương lớn nhất và sâu nhất trong năm phân vùng đại dương của Trái Đất. Nó kéo dài từ Bắc Băng Dương ở phía bắc đến
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Lịch sử Thái Lan** giai đoạn từ năm 1932 đến 1973 thực sự được đặc trưng bởi sự cai trị của quân đội và cuộc đấu tranh giữa chế độ độc tài và dân chủ.
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Thái Thanh** (chữ Hán: 蔡清, 1453 – 1508), tên tự là **Giới Phu**, hiệu là **Hư Trai**, người huyện Tấn Giang, phủ Tuyền Châu , là quan viên, học giả nhà Minh. Ông là nhà
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**A Ba Thái** (, chữ Hán: 阿巴泰, 27 tháng 7 năm 1589 - 10 tháng 5 năm 1646), Ái Tân Giác La, người Mãn Châu Chính Lam kỳ, là Hoàng tử và nhà quân sự
**Thái phi** (chữ Hán: 太妃) là một tước hiệu được sử dụng trong vùng văn hóa chữ Hán, tước Phi có địa vị góa phụ. Về cơ bản khi nhắc đến tước hiệu này, thông
**Thái ấp** (tiếng La Tinh: _feudum_; tiếng Trung giản thể: 領地; tiếng Đức: _Lehnswesen_; tiếng Pháp: _Fief_; tiếng Anh: _Fief_; tiếng Tây Ban Nha: _Feudo_), còn gọi là **phong ấp**, **thực ấp**, **lãnh địa**, **phong
**Thái Nguyên** () là tỉnh lỵ của tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Thái Nguyên được mệnh danh là "cửu triều cổ đô", Thái Nguyên là một trong những thành thị có số hạng mục di
**Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲慈宣聖皇后, 1299 - 14 tháng 12, 1369), còn hay gọi là **Hiến Từ Hoàng thái hậu** (憲慈皇太后), sách Khâm định chép **Huệ Từ Thái hậu** (惠慈太后), là
**Triều Tiên Thái Tông** (chữ Hán: 朝鮮太宗; Hangul: 조선 태종; 13 tháng 6, 1367 – 8 tháng 6, 1422), còn gọi là **Triều Tiên Thái Tông Cung Định đại vương** (朝鮮太宗恭定大王) hay **Triều Tiên Cung
**Linh Chiếu hoàng thái hậu** (chữ Hán: 靈詔皇太后, trước năm 1108 - tháng 7, 1161), còn được biết đến là **Lê Thái hậu** (黎太后) hay **Cảm Thánh phu nhân** (感聖夫人), một phi tần của Lý
**Hồ hoàng hậu** (chữ Hán: 胡皇后), là hoàng hậu của Bắc Tề Vũ Thành Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Bắc Tề thư và Bắc sử không ghi rõ tên thật của
phải|nhỏ|250x250px|Hình ảnh Điện Thái Hòa trong tuyết thumb|Tấm biển trên gác mái của điện Thái Hòa|thế=**Điện Thái Hòa** (chữ Hán: 太和殿; bính âm: _Tài Hé Diàn_, Hán Việt: Thái Hòa điện; Mãn Châu: _Amba hūwaliyambure