✨Nguyễn Phúc Hồng Thiết

Nguyễn Phúc Hồng Thiết

Nguyễn Phúc Hồng Thiết (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự Lục Khanh (陸卿), hiệu Liên Nghiệp Hiên (連業軒), Pháp danh Thanh Thiện (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ, một nhà sử địa học có tiếng của thời đó.

Tiểu sử

Công tử Hồng Thiết 洪蔎, là con trai thứ 18 của Hoàng tử Tuy Lý vương Miên Trinh;  绥理王 綿寊 mẹ ông là chánh thất Phạm Thị Thìn 范氏辰, con gái của Đức tả quân Phạm Văn Điển. Người Huế thường gọi ông là “Mệ Hường Thiết”. Ngoài ra, ông còn được gọi là Tiểu Thảo Hồng Thiết. 小草洪蔎.

Dưới thời vua Đồng Khánh trị vì, ông giữ chức Hàn Lâm Viện kiểm thảo, tham gia cùng với danh thần Hoàng Hữu Xứng phụ trách việc biên soạn “Đại Nam Quốc cương giới vựng biên”.

Ông được đổi sang làm Biên tu ở Quốc Sử Quán vào triều Thành Thái, thăng Tá lý bộ Hình rồi bổ nhiệm làm Án sát sứ Quảng Nam, sau đổi Bố chánh tỉnh Bình Thuận[1].

Năm 1911, dưới triều vua  Duy Tân, ông về kinh, giữ chức Thị lang bộ Công. Vì bất mãn với chính sự nên về hưu, sống tại Vỹ Dạ với hàm Tham tri bộ Lễ.

Cụ Hồng Thiết mất năm 1937, an táng tại làng Dương Xuân Hạ, huyện Hương Thủy (gần chùa Thiên Hòa, Thủy Xuân, Huế), thọ 90 tuổi.

Tác phẩm

Công tử Tiểu Thảo - Hồng Thiết cùng với anh mình là Tuy Lý Quận công Hồng Nhĩ (con trai thứ 8 của Tuy Lý vương) soạn tập “Việt sử diễn nghĩa tứ tự ca”, là truyện thơ về lịch sử Việt Nam kể từ thời Hồng Bàng).

Ông là tác giả bức “Đại Nam Lịch Đại Long Phi Đồ”(大南歷代龍飛圖) khắc năm Đồng Khánh thứ 3 (1888), bao gồm trên 1000 chữ Hán, viết trên mình một con Rồng uốn lượn trong mây, đầu hướng ra biển, mắt trợn, bờm dựng, miệng há rộng, đuôi xòe rộng, móng cong vút, mỗi vảy Rồng là một chữ Hán viết sắc sảo, nét chữ rất đẹp. Trong đó ghi tất cả biến cố lịch sử từ Kinh Dương Vương đến đời vua Minh Mệnh, dọc thân Rồng.

Ông đã khắc bức “Đại Nam Quốc toàn đồ” vào năm 1890 thể hiện tương đối toàn bộ lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam "kéo dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau"[2] nhằm khẳng định chủ quyền đất nước. Mộc bản này năm 2011 đã được đề nghị xét phong Bảo vật quốc gia và hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, ông còn để lại một số tác phẩm. Về thơ có tập “Liên Nghiệp Hiên tập”, về văn có “Luân lý đồ thuyết”[3].

Khi chưa ra làm quan, vào năm Tự Đức thứ 34 (1881), “Mệ Hường Thiết” thường đi xem phong cảnh Huế để tìm nguồn thơ. Một hôm cùng với Thường Tín Huyện công (con của Thường Tín Quận vương Nguyễn Phúc Cự, hoàng tử thứ 11 của vua Gia Long), Quang Lộc Đại Phu Lê Cơ đã về hưu và các bà phu nhân của các ông, họ lên núi Ngự Bình du xuân[3].

Đi ngang am cỏ hoang tàn, tường thành đổ nát, đến gần xem mới biết đó là ngôi Viên Thông Cổ Tự. Cả nhóm bèn cùng nhau chung sức và quyên góp tiền bạc trong khách thập phương, đứng ra sửa sang, mua sắm đồ thờ tự trang nghiêm. Khi mọi việc hoàn tất, ông đã soạn bài văn khắc vào bia đá “Trùng tu Viên thông tự bi”, hiện còn phía trái vách sau chùa Viên Thông ngày nay[3].

Gia quyến

  • Thân phụ:  Tuy Lý vương Nguyễn Phúc Miên Trinh, thụy là Đoan Cung

  • Thân mẫu: Tuy Lý Vương phi (Nguyên Cơ) Phạm Thị Thìn.

Thất thiếp

  • Chánh thất: Ngô Thị Cặn (1849 – 10 tháng 10, 1938), thọ 90 tuổi, táng tại làng Dương Xuân Thượng[4], gần chùa Thiên Hòa. Pháp danh: Thanh Thái

  • Thứ thất: Nguyễn Thị Huệ, mẹ của Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Bà cũng là nhà thơ có nhiều bài nổi tiếng trong tao đàn xứ Huế như bài “Nhớ quê”, Thượng cầm hạ thú”, “Xuất gia”[3].

  • Thứ thất: Phạm Thị Liên, pháp danh Như Hường

  • Thứ thất: Hồ Thị Cần, pháp danh Tâm Tín

  • Thứ thất: Nguyễn Thị Thanh, pháp danh Như Thái

  • Thứ thất: Lê Thị Em

  • Thứ thất: Trần Thị Mai, pháp danh Tâm Dung

Hậu duệ

Con trai: cụ Hồng (Hường) Thiết có 16 con trai, các vị này có biệt hiệu mang chữ Thúc, như sau:

  • Nguyễn Phúc Ưng Phủ (mất sớm)

  • Nguyễn Phúc Ưng Bình,  hiệu là Thúc Giạ Thị (菽野氏), con bà Nguyễn Thị Huệ. Là một nhà thơ rất có tiếng. Có con gái là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương.

  • Nguyễn Phúc Ưng Tôn, hiệu là Thúc Thuyên (1877 – 1935), con bà Ngô Thị Cặn. Là thân phụ của cố Thủ tướng Nguyễn Phúc Bửu Lộc[5].

  • Nguyễn Phúc Ưng Loại, hiệu là Thúc Đồng

  • Nguyễn Phúc Ưng Dự (1882 – 1975), tự Hoài Sơn, hiệu là Thúc NguyễnDi Sơn. Tác phẩm chính: Hoài Sơn thi tập; Âm nhạc luận lược, đặc biệt là ấn phẩm “Kim Vân Kiều (Đại Toàn Chú Tích Dẫn Giải Đính Chính)[6].

  • Nguyễn Phúc Ưng Lỵ

  • Nguyễn Phúc Ưng Giảng

  • Nguyễn Phúc Ưng Hồi,  hiệu là Thúc Phương

  • Nguyễn Phúc Ưng Hạ, hiệu là Thúc Liêm, là chủ hiệu sách Ưng Hạ nổi tiếng ở Huế. Có con dâu là nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị (bà Nguyễn Phúc Bửu Điềm).

  • Nguyễn Phúc Ưng Thiệp, hiệu là Thúc Kỳ

  • Nguyễn Phúc Ưng Tiến, hiệu là Thúc Cử

  • Nguyễn Phúc Ưng An, hiệu là Thúc Dật

  • Nguyễn Phúc Ưng Hòa, hiệu là Thúc Hiệp

  • Nguyễn Phúc Ưng Gia, hiệu là Thúc Kiệm

  • Nguyễn Phúc Ưng Trung, hiệu là Thúc Đoan

  • Nguyễn Phúc Ưng Trí, hiệu là Thúc Đại. Từng làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng thị xã Thuận Hóa đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám 1945[1].

Con gái: cụ Hồng Thiết có 16 con gái

  • Công Tôn Nữ Ý Tích [4]

  • Công Tôn Nữ Chánh Thỉ [4]

  • Công Tôn Nữ Cửu Trúc

  • Công Tôn Nữ Sách Đào

  • Công Tôn Nữ Giác Duyên

  • Công Tôn Nữ Thị Tri

  • Công Tôn Nữ Chánh Tín. Có con trai là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch.

  • Công Tôn Nữ Thục Vấn

  • Công Tôn Nữ Hậu Tứ [4], vợ của Thượng thư Nguyễn Thúc Dinh [4].

  • Công Tôn Nữ Khẳng Đàn

  • Công Tôn Nữ Tịnh Hảo [4]

  • Công Tôn Nữ Diệu Phẩm[4], vợ của Đổng lý Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe [4]. Có con trai là nguyên Tổng giám đốc đài Truyền hình Việt Nam Phạm Khắc Lãm, có con gái là đạo diễn sân khấu Phạm Thị Thành.

  • Công Tôn Nữ Phùng Xuân [4]

  • Công Tôn Nữ Phẩm Đạt

  • Công Tôn Nữ Hiệp Văn [4], pháp danh: Như Tư

  • Công Tôn Nữ Hy Thượng [4]

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Phúc Miên Nghi** (chữ Hán: 阮福綿宜; 30 tháng 12 năm 1810 – 12 tháng 8 năm 1874), là một hoàng tử của nhà Nguyễn. Ông nổi tiếng là người có tài thơ ca và
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Phước Mỹ Đường** (阮福美堂, 1798 - 1849), còn có tên là **Nguyễn Phước Đán** (阮福旦) là hoàng thân nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, là đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long.
**Nguyễn Phúc Miên Thủ** (chữ Hán: 阮福綿守; 5 tháng 3 năm 1819 – 24 tháng 9 năm 1859), tự là **Thị Phủ** (是甫), hiệu là **Thận Trai** (慎齋), tước phong **Hàm Thuận công** (咸順公), là
**Nguyễn Phúc Miên Tể** (chữ Hán: 阮福綿宰; 21 tháng 10 năm 1822 – 5 tháng 12 năm 1844), tự là **Trọng Chân** (仲真), hiệu **Tùng Thự** (松墅), tước phong **Nghĩa Quốc công** (義國公), là một
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Nguyễn Giản Tông** (chữ Hán:阮簡宗; 12 tháng 2 năm 1869 – 31 tháng 7 năm 1884), tên thật là **Nguyễn Phúc Ưng Đăng** (阮福膺登), là vị hoàng đế thứ bảy của triều đại nhà Nguyễn
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
Đình Đông Phù, Thanh Trì là nơi thờ sứ quân Nguyễn Siêu **Nguyễn Siêu** (chữ Hán: 阮超; 924 - 967) hiệu _Nguyễn Hữu Công_ (阮右公) là một sứ quân nổi dậy thời loạn 12 sứ
**Hồng Kông** (, , ; ), tên chính thức là **Đặc khu hành chính Hồng Kông thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa**, là một vùng đô thị đặc biệt, cũng như một trong hai
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
nhỏ|Những người mặc áo trắng tấn công hành khách tại ga Nguyên Lãng nhỏ|Cướp ở Nguyên Lãng Khư trong buổi tối **Đụng độ Nguyên Lãng 2019** là một cuộc tấn công mob xảy ra vào
**Tuy Lý Vương** (chữ Hán: 綏理王, 3 tháng 2 năm 1820 - 18 tháng 11 năm 1897), biểu tự **Khôn Chương** (坤章) và **Quý Trọng** (季仲), hiệu **Tĩnh Phố** (靜圃) và **Vỹ Dã** (葦野); là
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" ## Phân loại Phục bích có nhiều dạng, đại để như sau: #Trường
**Nguyễn Bính** (tên thật là **Nguyễn Trọng Bính**; 1918–1966) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài
**Nguyễn Cư Trinh** (chữ Hán: _阮居貞_, 1716-1767), tên thật là Nguyễn Đăng Nghi, húy là Thịnh, tự là Cư Trinh, hiệu là Đạm Am, Đường Qua và Hạo Nhiên. Ông là danh tướng, danh sĩ
Bộ 5 phụ kiện máy vật lý trị liệu WONDER MF5-08N⚡️FREESHIP⚡️ Giúp phục hồi chức năng, hỗ trợ các bệnh cấp và mãn tính CHÚNG TÔI CAM KẾTVề chất lượng sản phẩm:Sản phẩm luôn là
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Tôn Thất Hân** (尊室訢; 10 tháng 5 năm 1854 – 3 tháng 9 năm 1944), tự **Lạc Chi** (樂之), hiệu **Liên Đình** (蓮亭), là quan chức triều Nguyễn Việt Nam, Phụ chính Đại thần thời
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
Đây là danh sách các chiến thuật và phương pháp biểu tình liên quan đến cuộc biểu tình tại Hồng Kông năm 2019. ## Nguyên tắc chính ### Lãnh đạo phi tập trung Không giống
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
**Nguyễn Chánh Thi** (1923-2007) nguyên là một cựu tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ một trường Võ bị Địa phương do
**Nguyễn Thiếp** (chữ Hán: 阮浹, 1723 - 1804) tự Khải Xuyên, là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô,
**Tia hồng ngoại** là bức xạ điện từ có bước sóng dài hơn ánh sáng nhìn thấy (mắt người có thể cảm nhận được màu sắc) nhưng ngắn hơn tia bức xạ vi ba. Vùng
thumb|[[Biểu tình tại Hồng Kông 2019]] Quan hệ giữa người dân ở Hồng Kông và Trung Quốc đại lục tương đối thù địch vào đầu thập niên 2000. Nguyên nhân chủ yếu là do các
**Lớp thiết giáp hạm _Colorado**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ có ba
thumb|Nhân viên Cơ quan Thực thi Dược phẩm (DEA) mặc bộ đồ bảo hộ cấp B thumb|Thiết bị an toàn và hướng dẫn giám sát tại [[công trường]] **Thiết bị bảo hộ cá nhân** ()
**Đồng Khánh Đế** (chữ Hán: 同慶 19 tháng 2 năm 1864 – 28 tháng 1 năm 1889), tên húy là **Nguyễn Phúc Ưng Thị** (阮福膺豉) và **Nguyễn Phúc Ưng Đường** (阮福膺禟 ), lên ngôi lấy
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Hồng Quân** là cách gọi vắn tắt của **Hồng quân Công Nông** (tiếng Nga: Рабоче-крестьянская Красная армия; dạng ký tự Latin: _Raboche-krest'yanskaya Krasnaya armiya_, viết tắt: RKKA), tên gọi chính thức của Lục quân và
**Trường Trung học Phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai** (Tên cũ: **Trường nữ Gia Long**, **Trường nữ sinh Áo Tím**; tên khác: **Miki**) là một trường trung học phổ thông công lập ở Thành phố
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Biểu tình tại Hồng Kông năm 2019–2020**, còn được gọi là **Phong trào chống sửa đổi dự luật dẫn độ** (), là một loạt các cuộc biểu tình diễn ra từ năm 2019–2020, được gây
**Lỗ hổng** () là những sai sót hoặc điểm yếu trong thiết kế, triển khai hoặc quản lý của một hệ thống, có thể bị tác nhân độc hại khai thác để xâm phạm tính
Năm 1953, Chính phủ, Bộ Y tế đã cho thành lập Bệnh khoa Tai Mũi Họng bên cạnh Bộ Y tế trong an toàn khu (ATK) của Trung ương ở Việt Bắc và giao cho
**Trận Hồng Kông** (8-25 tháng 12 năm 1941), được biết đến với tên gọi là **Phòng thủ Hồng Kông** hay **Hồng Kông thất thủ** là một trong những trận đánh đầu tiên của Chiến tranh