Nguyễn Phước Mỹ Đường (阮福美堂, 1798 - 1849), còn có tên là Nguyễn Phước Đán (阮福旦) là hoàng thân nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, là đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long. Ông đáng lẽ có thể trở thành người nối ngôi chánh thống của vương triều Nguyễn theo quy tắc của Nho giáo nhưng rốt cục để mất vị trí này vào tay người chú là vua Minh Mạng. Mấy năm sau khi tranh chấp trữ vị bất thành, ông bị vu tội tư dâm với mẹ ruột là Tống Thị Quyên, dẫn đến thân bại danh liệt.
Thân thế và cuộc sống ban đầu
Nguyễn Phúc Đán là đích trưởng tử của Anh Duệ hoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh, đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long. Mẹ ruột của ông là Tống Thị Quyên, chưa rõ xuất thân. Ông chào đời vào năm 1798, khi đó Hoàng đế Gia Long vẫn còn xưng là Nguyễn vương cai trị ở Nam Hà. Năm 1801, không lâu trước khi Nguyễn vương tiêu diệt Tây Sơn thống nhất sơn hà, phụ thân của ông là Đông cung Cảnh qua đời vì bệnh đậu mùa khi còn rất trẻ. Bấy giờ công lao ở Hoàng tử Cảnh trong công cuộc trung hưng nhà Nguyễn rất lớn, nên phần nhiều các quan đứng đầu là Nguyễn Văn Thành, quan Tổng trấn Bắc thành đều ủng hộ lập Hoàng tôn Đán kế ngôi đại thống theo đúng nguyên tắc của Nho giáo. Tuy nhiên Hoàng đế Gia Long lại có ý muốn chọn Hoàng tử thứ 4 là Đảm.
Năm 1814, bà nội của Hoàng tôn Đán là Thuận Nguyên hoàng hậu Tống Thị Lan bị bệnh mà mất. Bầy tôi tâu rằng theo lễ chế phải lấy Hoàng tôn Đán đứng chủ tự. Nhưng Gia Long lấy lý do Hoàng tử Đảm từ nhỏ đã được nuôi ở chỗ của Hoàng hậu, nên lấy Đảm chủ tự, bảo rằng:
:Hoàng tử từng làm con của hoàng hậu, đã có giấy tờ, nên sai làm chủ tự, việc lớn của nhà nước không nên câu nệ theo lễ đích tôn thừa trọng như nhà thường.
Nguyễn Văn Thành tâu rằng nếu làm thế thì trong văn tế khó dùng lời lẽ xưng hô sao cho hợp, Gia Long bảo rằng
:Mỹ Lệ Anh Cường Tráng, Liên Huy Phát Bội Hương, Linh Nghi Hàm Tốn Thuận, Vỹ Vọng Biểu Khiêm Quang.
Vụ án Mỹ Đường
Năm Minh Mạng thứ 5 (1824), có người tố cáo Mỹ Đường tư dâm với mẹ ruột là bà Tống Thị Quyên. Trong Đại Nam liệt truyện lẫn Đại Nam thực lục đều không cho biết quá trình nghị án diễn ra như thế nào, và liệu đây có phải là một vụ án oan hay không. Sau đó Minh Mạng hạ lệnh cho Lê Văn Duyệt đem Tống thị dìm xuống nước cho chết, giáng Mỹ Đường làm Thứ nhân, buộc phải nộp ấn và dây thao (Thực lục viết rằng Mỹ Đường tự nguyện dâng nộp), con trai con gái biên phụ vào sau sổ họ Tôn thất.
Về vụ án này, tác gia Nguyễn Khắc Thuần trong Việt sử giai thoại có lời bàn rằng
:Thời ấy, có hai tội thuộc hàng đại ác không thể tha, ấy là bất trung và thất đức. Bất trung thì con trai trưởng của Hoàng tử Cảnh chẳng có biểu hiện gì, vậy thì Minh Mạng muốn được yên vị trên ngai, ắt phải khép Mỹ Đường vào tột thất đức là thông dâm với mẹ. Ôi, giá mà Mỹ Đường chẳng phải cháu đích tôn của Gia Long thì đời ông sẽ êm thấm biết ngần nào...
Mỹ Đường bị giam lỏng ở nhà riêng, vì thương nhớ các con nên nhiều lần đến thăm. Tháng 2 ÂL năm 1825, có người cho là bỏ trốn, tâu lên với vua. Vua phán rằng
:Hành vi của nó còn hơn loài chó lợn, trẫm nghĩ cái tình Anh Duệ Hoàng thái tử nên không nỡ làm tội, nay lại nghe kẻ bậy bạ xui khiến, muốn làm gì chăng? lại đến mất danh hiệu. Vậy xin đổi phong làm Thái Bình hầu thì theo nghĩa mới chính.''
Vua bèn cải phong Lệ Chung làm Thái Bình hầu, còn Mỹ Đường vẫn là thứ nhân như cũ.
Mùa xuân năm Minh Mạng thứ 14 (1833), phó Tổng tài ở sở Ngọc diệp (gia phả hoàng gia) là bọn Phan Huy Thực, Tôn Thất Bằng tâu nói
:Mỹ Đường là con cả Hoàng Thái tử Anh Duệ, trước vì bị tội, các con cái phải phụ lục vào sau cuốn phả Tôn thất. Nay, thiết nghĩ rằng: tội của Mỹ Đường chỉ là tội tự làm hỏng mình, sánh với tội phản nghịch như Phạm Hiệp, Phạm Huệ có khác. Huống chi con là Lê Chung hiện được tập tước để giữ việc thờ cúng ngành Anh Duệ. Ngoài ra, con trai, con gái hắn cũng đều là cháu của Hoàng Thái tử Anh Duệ. Vậy xin cho liệt vào tôn phả, theo thế thứ Hoàng thái tử Anh Duệ, mà bỏ chỗ phụ lục đi. Đến như tên và tự Mỹ Đường trong phả hoàng tử, dưới chỗ chép những chữ "Anh Duệ hoàng thái tử tử nhị" xin chua rõ tội danh để lưu chiểu.
Vua cho lời tâu đó là phải. Tuy nhiên đến mùa đông năm 1837, phủ Tôn nhân và bộ Lễ lại tâu nói tội ác của Mỹ Đường rất nặng, không thể lưu tên con trai con gái ở chỗ tôn phả nữa. Trừ Lệ Chung được cho miễn nghị vì để giữ việc tế tự cho Đông cung Cảnh, còn những người con khác là Lệ Ngân, Thị Vân, Thị Dao đều bị truất làm Thứ nhân, tước bỏ tên trong sổ tông thất.
Năm 1839, phong Lệ Chung làm Cảm Hóa hầu. Năm 1848, Đại học sĩ điện Đông Các là Vũ Xuân Cẩn dâng biểu nói về công lao của Thuận Nguyên hoàng hậu và Anh Duệ thái tử, mà tội của Mỹ Đường chỉ là làm mất luân thường của bản thân mà thôi, và tâu xin tấn phong cho Lệ Chung và cấp lương bổng hằng tháng cho Mỹ Đường. Vua Tự Đức chuẩn theo, sau đó cho tuân theo việc năm thứ 14 Minh Mạng, phục lại tên con cháu Mỹ Đường trong sổ tông thất và cấp cho lương bổng hàng tháng.
Năm 1849, thứ nhân Mỹ Đường qua đời, hưởng dương được 52 tuổi. Gặp khi đó trong kinh kỳ có thiên tai, bọn đại thần Tạ Quang Cự 30 người có lời tâu xin, vì thế nhà vua lấy Lệ Chung tấn phong lên tước Quận công.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phước Mỹ Đường** (阮福美堂, 1798 - 1849), còn có tên là **Nguyễn Phước Đán** (阮福旦) là hoàng thân nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, là đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long.
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Luân** (chữ Hán: 阮福㫻, 11 tháng 6 năm 1733 - 24 tháng 10 năm 1765) hay **Nguyễn Phúc Côn**, còn gọi là **Nguyễn Hưng Tổ** (阮興祖), là một Vương tử ở Đàng Trong,
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Đại Bình nguyên _(, )**_, đôi khi chỉ đơn giản là _"**the Plains**"_, là một vùng rộng lớn của đồng bằng ở Bắc Mỹ. Nó nằm ở phía tây của Sông Mississippi và phía đông
**Nguyễn Phúc Chú** (chữ Hán: 阮福澍, 1697-1738) hay **Trú** hay **Thụ** trấn Hà Tiên, để giữ gìn và mở mang xứ ấy. Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12 (1737), triều đình định lại quan
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Nguyễn Phúc Miên Phú** (chữ Hán: 阮福綿富; 28 tháng 2 năm 1817 – 15 tháng 4 năm 1885), tước phong **Phù Mỹ Quận công** (符美郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Quang** (chữ Hán: 阮福㫕, 10 tháng 9 năm 1811 – 29 tháng 6 năm 1845), tước phong **An Khánh vương** (安慶王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Đoan Trinh** (chữ Hán: 阮福端貞; 24 tháng 5 năm 1821 – 17 tháng 12 năm 1899), phong hiệu **Phú Mỹ Công chúa** (富美公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Đoan Thuận** (chữ Hán: 阮福端順; 20 tháng 8 năm 1820 – 29 tháng 5 năm 1854), phong hiệu **Định Mỹ Công chúa** (定美公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Nhàn Tuệ** (chữ Hán: 阮福嫻慧; 18 tháng 12 năm 1835 – 10 tháng 2 năm 1863), phong hiệu **Mỹ Thuận Công chúa** (美順公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Nhàn Gia** (chữ Hán: 阮福閒家; ? – 1925), phong hiệu **Phúc Lâm Công chúa** (福林公主), là một công chúa con vua Dục Đức nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Uyển Diễm** (chữ Hán: 阮福琬琰; 1815 – 29 tháng 8 năm 1836), phong hiệu **Lộc Thành Công chúa** (祿成公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Phúc Gia Trinh** (chữ Hán: 阮福嘉貞; 25 tháng 9 năm 1823 – 19 tháng 9 năm 1885), phong hiệu **Mậu Hòa Công chúa** (懋和公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Lương Đức** (chữ Hán: 阮福良德; 26 tháng 7 năm 1817 – 13 tháng 5 năm 1891), trước có tên là **Tam Xuân** (三春), phong hiệu **An Thường Công chúa** (安常公主), là một công
**Nguyễn Phúc Hồng Y** (chữ Hán: 阮福洪依, 11 tháng 9 năm 1833 – 23 tháng 2 năm 1877), tôn hiệu **Thụy Thái vương** (瑞太王) (còn được đọc trại thành **Thoại Thái vương**), biểu tự **Quân
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
**Nguyễn Phúc Bửu Hội** (1915 – 28 tháng 1 năm 1972) là nhà ngoại giao và nhà khoa học Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Phúc Bửu Hội quê quán ở Huế. Thân phụ của
**Nguyễn Phương Minh**(15 tháng 1 năm 1949 – 19 tháng 11 năm 2012) là con gái của cựu hoàng Bảo Đại, Hoàng đế cuối cùng của Việt Nam và bà Lê Thị Phi Ánh. ##
**Nguyễn Phúc Tường Tĩnh** (chữ Hán: 阮福祥靜; 5 tháng 2 năm 1828 – 24 tháng 1 năm 1875), phong hiệu **Xuân Vinh Công chúa** (春榮公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Ngọc Khuê** (chữ Hán: 阮福玉珪; 1807 – 1827), phong hiệu **Mỹ Khê Công chúa** (美溪公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Miên Dần** (chữ Hán: 阮福綿寅, 18 tháng 4 năm 1829 – 9 tháng 3 năm 1885), tước phong **Trấn Tĩnh Quận công** (鎮靖郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Quan** (chữ Hán: 阮福綿官; 21 tháng 5 năm 1827 – 3 tháng 2 năm 1847), tự là **Tắc Tư** (則思), tước phong **Kiến Tường công** (建祥公), là một hoàng tử con vua
**Nguyễn Phúc Vĩnh Thọ** (1 tháng 10 năm 1915 – 14 tháng 7 năm 2009) tên thường gọi là **Vĩnh Thọ**, là quan chức và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, đồng thời là
**Nguyễn Phúc Cự** (chữ Hán: 阮福昛; 2 tháng 10 năm 1810 – 11 tháng 8 năm 1849), tước phong **Thường Tín Quận Vương** (常信郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Tường Hòa** (chữ Hán: 阮福祥和; 14 tháng 6 năm 1827 – 28 tháng 6 năm 1847), phong hiệu **Nghĩa Hà Công chúa** (義河公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Hòa Trinh** (chữ Hán: 阮福和貞; 4 tháng 12 năm 1836 – 8 tháng 10 năm 1869), phong hiệu **Lâm Thạnh Công chúa** (林盛公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Lương Huy** (chữ Hán: 阮福良徽; 1841 – ?), phong hiệu **Tự Tân Công chúa** (自新公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Bửu Tán** (chữ Hán: 阮福寶巑; 1882 – 8 tháng 5 năm 1941), thường được gọi là **Ông Hoàng Chín**, tước phong **Tuyên Hóa vương** (宣化王), là một hoàng tử con vua Dục Đức
**Nguyễn Phúc Lương Trinh** (chữ Hán: 阮福良貞; 28 tháng 10 năm 1830 – 28 tháng 4 năm 1891), phong hiệu **Bái Ân Công chúa** (沛恩公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Hòa Tường** (chữ Hán: 阮福和祥; 27 tháng 10 năm 1835 – ?), phong hiệu **Hương Khê Công chúa** (香溪公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Dương Ngạn Địch** (chữ Hán: 楊彥迪, ?-1688), là một thủ lĩnh phản Thanh phục Minh, tổng binh của nhà Minh Trịnh ở Long Môn (龍門), Khâm Châu, Quảng Tây, Trung Quốc. Năm 1679, ông cùng
Tinh Chất phục hồi dưỡng trắng sáng da mờ vết thâm Tiam My Signature Red C Serum (30ml)Thương hiệu: TIAMThể tích: 30mlTinh Chất Tiam My Signature Red C Serum chứa 20% Vitamin C nguyên chất,
MÔ TẢ SẢN PHẨM CÙNG HIỀN HỒ PHỤC HỒI DA SAU MỤN , DA ĐẸP KHÔNG TÌ VẾT NHƯ GÁI HÀN #Tinh chất phục hồi dưỡng trắng sáng da, mờ vết thâm TIA'M My Signature
nhỏ|Một đoạn đường [[Võ Văn Kiệt tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam]] nhỏ|Đường [[Đèo St. Gotthard với những khúc cua tay áo tại dãy Alps Thuỵ Sĩ, Thuỵ Sĩ]] **Đường** là một lộ
MÔ TẢ SẢN PHẨMMặt nạ ngủ Sulwhasoo Overnight Vitalizing Mask 120ml phục hồi dưỡng ẩm cho da sau giấc ngủCông dụng Nhân sâm chống oxy hoá,chống viêm và giảm sắc tố Đương quy,lựu cung cấp
Ưu điểm nổi bật: - Tinh chất dưỡng da Secret Key 24K Gold Premium First Serum giúp cải thiện cấu trúc, độ sáng, sự săn chắc của làn da, xoá nếp nhăn và hạn chế
DẦU GỘI COLATIN TINH CHẤT TƠ TẰM!!Dung tích : 1000ml Tinh chất tơ tằm được cấu tạo bằng những sợi tơ tằm tự nhiên và tinh khiết , với 12 loại axit amin và protein
Siêu tế bào gốc phục hồi, dưỡng trắng và trẻ hoá làn da Medi Shyn Stem Cell Derma Aesthetic AmpouleXuất xứ: Hàn QuốcDung tích: 50mlTHÔNG TIN SẢN PHẨM:- Tế bào gốc Medi Shyn là dòng
SET 5 Mặt Nạ Dược Mỹ Dưỡng Da Collagen DERMATORY (miếng 35g)- Mặt Nạ Giấy Cấp Ẩm Chống Lão Hóa Dermatory Ampoule Shot Mask 35g chứa các phân tử dưỡng ẩm Super Hyaluronic Acid siêu
Gel Phục Hồi Dưỡng Ẩm WELLMAXX Hyaluron B5 50mlCông nghệ cấp ẩm đa tầng độc quyền từ Đức cho hiệu quả cấp ẩm sâu. Thẩm thấy siêu nhanh khi thoa trên da và chuyển hoá
**Nguyễn Phúc Bửu Lũy** (còn có âm đọc là **Bửu Lỗi**) (chữ Hán: 阮福寶𡾊; 1885 – 1902), tước phong **Mỹ Hóa công** (美化公), là một hoàng tử con vua Dục Đức nhà Nguyễn trong lịch
Dầu cám gạo được chiết xuất 100% từ cám gạo nguyên chất theo quy trình công nghệ ép lạnh, nhằm giữ lại nguyên vẹn những dưỡng chất có lợi nhất trong việc chăm sóc sắc