✨Nguyễn Phúc Thái

Nguyễn Phúc Thái

Nguyễn Phúc Thái (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành Nguyễn Phúc Trăn, Chúa Nghĩa là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở ngôi 1687-1691), nối ngôi Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần.

Thân thế

Nguyễn Phúc Tần có hai bà vợ chính, một bà Chính phi tên Chu Thị Viên, một bà Thứ phi tên Tống Thị Đôi.

Bà Tống Thị Đôi là mẹ của Chúa Phúc Thái. Chúa Phúc Thái là người con trai thứ hai của Chúa Phúc Tần và là con đầu của bà Tống Thị Đôi.

Khi người con cả là Nguyễn Phúc Diễn mất, Nguyễn Phúc Tần cho rằng Nguyễn Phúc Thái tuy là con bà hai song lớn tuổi lại hiền đức nên phong làm Tả thủy dinh phó tướng Hoằng Ân hầu, làm phủ đệ tại dinh Tả thủ, khi Nguyễn Phúc Tần mất Nguyễn Phúc Thái đã 39 tuổi được nối ngôi Chúa, được triều thần tôn làm "Tiết Chế Thủy Bộ Tư Dinh Kiêm Tổng Nội Ngoại Binh Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái phó Hoằng Quốc công"

Điều hành Đàng Trong

Nguyễn Phúc Thái là người nổi tiếng rộng rãi, giảm nhẹ hình phạt, thuế khoá, trọng dụng quan lại cũ, trăm họ đều vui mừng.

Chúa quy định lại tang phục cho có lợi, bởi vì vào thời ấy, mỗi khi có quốc tang thì người dân dù người già, trẻ con đều la khóc kêu gào, bỏ việc đồng áng, lao động. Chúa quy định người trong Tông thất và thân trần để tang 3 năm; cai đội trở lên để tang 2 tuần; Nội ngoại đội chưởng, văn chức, câu kê để tang đến giỗ đầu; còn quân dân để tang đến Tết Trung nguyên (Rằm tháng Bảy).

Tháng 7 năm 1687, Chúa Phúc Thái dời dinh phủ Chúa sang làng Phú Xuân, lấy Bằng Sơn (nay là Ngự Bình) làm bình phong, xây đắp cung điện, thành quách rất tráng lệ. Vùng Phú Xuân rộng rãi bề thế hơn Kim Long, sông Hương trở nên rộng khi chảy ngang qua trước kinh thành

Đối ngoại

Chân Lạp

Tháng 6 năm 1688, Phó tướng Long Môn là Hoàng Tấn sinh lòng kiêu mạn, y cầm quân tấn công giết Dương Ngạn Địch ở cửa biển Mỹ Tho, xưng làm tướng quân Long Môn, rồi dời đến đóng ở xứ Rạch Năn (thuộc huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường), chiếm cứ vùng hiểm yếu, đắp lũy, đóng thuyền chiến, đúc thêm súng lớn, không cho thương nhân qua lại, quấy nhiễu cướp bóc người Cao Miên.

Chính vương Nặc Ông Thu oán giận, bỏ việc triều cống Chúa Nguyễn, đắp lũy Bích Đôi (Gò Bích), Cầu Nam, Nam Vang, lại kết bè nổi ở sông Cầu Nôm và giăng dây thép chắn ngang cửa sông để cự thủ.

Phó vương Nặc Nôn đang đóng giữ Sài Côn vội tâu lên hết mọi chuyện. Tháng 10, triều đình sai Phó tướng dinh Thái Khang là Mai Vạn Long làm Thống suất, Cai cơ trấn Biên Nguyễn Thắng Long và Nguyễn Hữu Lễ làm Tả hữu vệ, Văn Vị Xuyên làm Tham mưu cầm quân đi chinh phạt Hoàng Tấn, đồng thời ủy cho quyền mưu tính việc mở mang biên cương.

Tháng 1 năm 1689, quan quân kéo đến đóng ở Rạch Gầm (thuộc thôn Kim Sơn, huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường) rồi nói thác là đi đánh Nặc Thu, giả bộ ra triệu cho Hoàng Tấn đem quân sở bộ đến để làm tiên phong, nhưng Hoàng Tấn không đến.

Văn Thông dâng kế với Mai Văn Long, giả làm ông già họ Trương để dụ Hoàng Tấn ra hàng, Hoàng Tấn tin lời đi thuyền ra sông đến hội binh, quân Hoàng Tấn đang ở giữa sông bị phục binh 4 phía đánh vào và phá hết đồn trại của Hoàng Tấn. Hoàng Tấn bỏ thuyền chạy về hướng cửa biển Lôi Lạp. Vợ con Tấn trong lũy đều bị chém cả, đội quân Long Môn được chiêu dụ, những kẻ bị Tấn bắt ép phải theo đều được tha thứ.

Quan quân thừa thế tiến đánh Nặc Thu, giao cho tướng sĩ Long Môn Trần Thượng Xuyên làm tiên phong, đốt hết dây thép chắn ngang sông, tiến công chiếm được ba lũy Cầu Nôm, Nam Vang và Gò Vách.

Nặc Thu rút quân lui về giữ thành Oudong (Long Úc). Nguyễn Thắng Quyền khinh địch ham tiến bị Ông Thu đánh bại, Nguyễn Thắng Sơn đem quân đến cứu, xông trận đánh hăng, buộc Nặc Thu rút vào thành cố thủ. Rồi lập mưu sai nữ sứ giả là Chiêm Dao Luật đến xin hàng và đề nghị quan quân rút lui để họ chuẩn bị lễ vật cống hiến. Thực ra ấy là mưu kế để họ kịp mộ binh tiếp viện tính việc chống cự. Mai Vạn Long nhẹ dạ tin theo rồi cho lui quân về đóng ở Bến Nghé (nay là chợ Điều Khiển).

Đã hơn một năm trôi qua mà Nặc Thu không chịu tiến cống, lúc ấy lại bỗng xảy ra bệnh dịch, quân sĩ nhiều người bị bệnh và chết, Cai cơ Nguyễn Thắng Sơn cùng các tướng làm tờ tấu đàn hạch Mai Vạn Long về tội chần chừ làm hỏng quân cơ.

Mùa đông năm 1689, triều đình sai Cai cơ Nguyễn Hữu Hào làm thống suất, Hòa Tín làm Tham mưu, Cai đội Nguyễn Thắng Sơn hầu làm Tiên phong, tuyển lựa tinh binh ở các xứ Phú Yên, Thái Khang và Phan Rí để tiến đánh Cao Miên, rồi cho bắt trói bọn Vạn Long hầu cùm đưa về kinh sư. Sau đó triều đình miễn chức Vạn Long hầu cho về làm thường dân, giáng Vị Xuyên hầu xuống làm tướng thần thuộc lại.

Nguyễn Hữu Hào tiến quân đóng ở Bích Đôi, cho dựng lũy, sắp xếp quân thủy bộ. Rồi sai người đến chỗ Nặc Thu yêu cầu bắt cống nộp, nhưng Nặc Thu lại giở trò lần lữa như trước chỉ tiến cống một phần.

Tháng 3 năm 1690, Nguyễn Hữu Hào đánh thắng Cao Miên, bắt vua Cao Miên là Nặc Thu đem về Sài Côn rồi nghỉ quân, Cao Miên từ đó mới bình định.

Sau đó Nặc Thu bị bệnh mất, Nặc Non cũng mất, các tướng tâu lên rằng dòng đích của vua Cao Miên không còn ai, do đó triều đình phong cho con Nặc Non là Nặc Yêm làm vua và lệnh cho đóng ở thành Gò Vách. (Sử Cao Miên ghi niên hiệu Thiên Vận (1622) là năm Thìn, Nặc Yêm con của Nặc Non là Tham - đích - sá - chiêu - trùy lên làm vua, so ra thời đại và tên gọi khá phù hợp nhưng tháng năm thì sai khác, điều đó còn cần khảo cứu thêm).

Qua đời

Mùa xuân năm Tân Mùi 1691, Chúa Nghĩa ốm nặng, ông triệu Thế tử là Tộ Trường hầu Nguyễn Phúc Chu đến và căn dặn: "Ta nối Tổ nghiệp trước, vẫn để lại, thường lấy làm lo, mong sao nối theo được chí, làm theo được việc. Con nay kế nghiệp, nên noi giữ Thánh đức của Tổ tông, cầu hiền đãi sĩ, yêu dân thương quân, đừng tin lời nói gièm pha, đừng bỏ những người ngay thẳng, để xây dựng nghiệp lớn, đó là điều đại hiếu".

Cùng ngày, Chúa Nghĩa qua đời (ngày 10 tháng Giêng năm Tân Mùi), thọ 43 tuổi.

Lăng mộ an táng tại núi Kim Ngọc (Định Môn, Hương Trà, Thừa Thiên). Tên lăng là Trường Mậu (長茂陵), đặt thụy là Đại Nguyên Soái Thống Quốc Chính Thiệu Hư Toản Nghiệp Hoằng Nghĩa vương (大元帥總國政紹休纂業弘義王), đến năm Cảnh Hưng thứ năm đời Chúa Vũ dâng thụy là Thiệu Hư Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu Nghĩa vương (紹休纂業寬洪博厚溫惠慈祥孝義王).

Thế tử Nguyễn Phúc Chu lên kế nghiệp, tức Chúa Minh.

Sau này, Nhà Nguyễn - vua Gia Long truy tôn ông miếu hiệu là Anh Tông (英宗), thụy là Thiệu Hư Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu Nghĩa Hoàng đế (紹休纂業寬洪博厚溫惠慈祥孝義皇帝).

Gia đình

Vợ

  • Hiếu Nghĩa Hoàng hậu Tống Thị Lĩnh (1653 - 1696), quê quán ở huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, con gái quan Thiếu phó Quận công Tống Phúc Vinh, mẹ bà họ Lê. Bà vào hầu Nghĩa vương nơi tiềm để, sau được phong lên bậc Cung tần. Khi mất, được phong tặng là Quốc Thái Phu nhân, táng ở làng Định Môn (Hương Trà, Thừa Thiên). Vua Gia Long truy tôn: Từ Tiết Tĩnh Thục Tuệ Mẫn Hiến Thuận Hiếu Nghĩa Hoàng hậu, đặt tên lăng là Vĩnh Mậu. Bà được phối thờ với đức Anh Tông ở Thái Miếu, án thứ hai bên phải.

Con

Công tử

Nguyễn Phúc Chu, tức Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế.

Nguyễn Phúc Tuân, mất sớm, vô tự (không có con kế tự).

Nguyễn Phúc Toàn, mất sớm, vô tự.

Ngoại tả Chưởng dinh Nguyễn Phúc Trinh, mất sớm, vô tự.

Nguyễn Phúc Quảng, mất sớm, vô tự.

Công nữ

Khuyết danh (không rõ tên), bà hạ giá lấy Tín Quận công (không rõ họ tên).

Khuyết danh (không rõ tên), bà hạ giá lấy Tài Quận công (không rõ họ tên).

Nguyễn Phúc Ngọc Nhiễm (? - 1703), bà hạ giá lấy Chưởng dinh Trương Phúc Phan. Bà mất năm Quý Mùi 1703. Khi mất được truy phong Tống Sơn Quận công Thục Phu nhân, an táng tại làng Định Môn.

Nguyễn Phúc Ngọc Niệu, mất sớm.

Tưởng nhớ

Tên ông đã được đặt tên cho một con đường ở tỉnh Thừa Thiên Huế, thành phố Huế.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Phúc Chú** (chữ Hán: 阮福澍, 1697-1738) hay **Trú** hay **Thụ** trấn Hà Tiên, để giữ gìn và mở mang xứ ấy. Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12 (1737), triều đình định lại quan
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Nguyễn Phúc Hồng Cai** (chữ Hán: 阮福洪侅; 13 tháng 12 năm 1845 – 15 tháng 5 năm 1876), tôn hiệu **Kiên Thái vương** (堅太王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
**Nguyễn Phúc Hồng Y** (chữ Hán: 阮福洪依, 11 tháng 9 năm 1833 – 23 tháng 2 năm 1877), tôn hiệu **Thụy Thái vương** (瑞太王) (còn được đọc trại thành **Thoại Thái vương**), biểu tự **Quân
**Nguyễn Phước Mỹ Đường** (阮福美堂, 1798 - 1849), còn có tên là **Nguyễn Phước Đán** (阮福旦) là hoàng thân nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, là đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long.
Hoàng tử **Nguyễn Phúc Vĩnh Chương** tục danh "_mệ Cưởi_" (sinh 1902 - 1987). Ông là con thứ 8 của vua Thành Thái. Ngày 3 tháng 11 năm 1916, Ông cùng gia đình vua cha
**Nguyễn Phúc Ưng Huy** (chữ Hán: 阮福膺䘗; 14 tháng 2 năm 1866 – 9 tháng 6 năm 1927) là quan lại, tôn thất nhà Nguyễn và là con trai thứ bảy của Gia Hưng vương
**Nguyễn Phúc Kỳ** (chữ Hán: 阮福淇, ? - 22 tháng 7, 1631), về sau gọi là **Tôn Thất Kỳ** (尊室淇) hay **Ông Hoàng Kỳ**, là một vị thế tử dưới thời chúa Nguyễn ở Đàng
**Nguyễn Phúc Ngọc Cầu** (chữ Hán: 阮福玉球; 1734 – 8 tháng 7 năm 1804), là một Công nữ, đồng thời là một cung tần của Chúa Nguyễn Phúc Khoát trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Dĩ Ngu** (chữ Hán: 阮福以娛; 1885 – 16 tháng 9 năm 1942), phong hiệu **Ngọc Lâm Công chúa** (玉林公主), là một công chúa con vua Đồng Khánh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Phúc Bửu Thạch** (Hán Nôm: **阮福寶石**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông là cháu nội của Thụy Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (阮福洪依), con của Kiến Thụy quận
**Nguyễn Phúc Bính** (chữ Hán: 阮福昞; 6 tháng 9 năm 1797 – 16 tháng 8 năm 1863), tước phong **Định Viễn Quận Vương** (定遠郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
:_Bài này viết về công chúa con vua Gia Long, về công nữ có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến** (chữ Hán: 阮福玉玔; 20 tháng 10 năm 1792 – 1851),
**Nguyễn Phúc Nhàn Gia** (chữ Hán: 阮福閒家; ? – 1925), phong hiệu **Phúc Lâm Công chúa** (福林公主), là một công chúa con vua Dục Đức nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Bửu Tán** (chữ Hán: 阮福寶巑; 1882 – 8 tháng 5 năm 1941), thường được gọi là **Ông Hoàng Chín**, tước phong **Tuyên Hóa vương** (宣化王), là một hoàng tử con vua Dục Đức
**Nguyễn Phúc Hồng Phó** (chữ Hán: 阮福洪付; 20 tháng 4 năm 1833 – 8 tháng 5 năm 1890), tước phong **Thái Thạnh Quận vương** (泰盛郡王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Lâm** (chữ Hán: 阮福綿㝝; 20 tháng 1 năm 1832 – 28 tháng 12 năm 1897), tước phong **Hoài Đức Quận vương** (懷德郡王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Vĩnh Cẩn** (chữ Hán: 阮福永𧯢, 1914 - ?) là Hoàng thân triều Nguyễn. Ông là cháu cố của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai, là cháu nội của Kiên Quận công Nguyễn
**Nguyễn Phúc Ngọc Anh** (chữ Hán: 阮福玉瑛; 1790 – 1850), phong hiệu **Bảo Lộc Công chúa** (保祿公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Vĩnh Giu** (3 tháng 2 năm 1922 - 18 tháng 3 năm 2007) là con thứ 19 của vua Thành Thái với bà thứ phi Chí Lạc. Ông được chính phủ Pháp cho
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Phúc Hạo** (chữ Hán: 阮福暭; ? – ?), tước phong **Tương Dương Quận vương** (襄陽郡王), là một hậu duệ của Chúa Nguyễn và là anh của vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử
**Nguyễn Phúc Đồng** (chữ Hán: 阮福晍; ? – 18 tháng 10 năm 1777), là một Công tử con của Khang vương Nguyễn Phúc Luân trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Công tử Đồng,
nhỏ|196x196px|Chân dung Bà Chúa Nhất **Nguyễn Phúc Tốn Tùy** (còn có âm đọc là **Tôn Thụy**) (chữ Hán: 阮福巽隨; 1872 – 1964), thường được gọi là **Bà Chúa Nhất**, phong hiệu **Mỹ Lương Công chúa**
**Nguyễn Phúc Hồng Kiện** (chữ Hán: 阮福洪健; 6 tháng 5 năm 1837 – 15 tháng 7 năm 1895), tước phong **An Phúc Quận vương** (安福郡王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Ngọc Quỳnh** (chữ Hán: 阮福玉瓊; 1788 – 1849), phong hiệu **Bình Hưng Công chúa** (平興公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Châu Hoàn** (chữ Hán: 阮福珠環; 1883 – ?), thường được gọi là **Bà Chúa Tám**, phong hiệu **Tân Phong Công chúa** (新豐公主), là một trong tám vị công chúa, con vua Dục Đức
**Nguyễn Phúc Bửu Kiêm** (chữ Hán: 阮福寶嵰; 1884 – 5 tháng 8 năm 1940), thường được gọi là **Ông Hoàng Mười**, tước phong **Hoài Ân vương** (懷恩王), là một hoàng tử con vua Dục Đức
**Nguyễn Phúc Phương Mai** (1 tháng 8 năm 1937 – 16 tháng 1 năm 2021), phong hiệu Thái Công tước Phu nhân xứ Addis Ababa và Thái Hầu tước Phu nhân xứ Sabotino, là con
**Nguyễn Phúc Điển** (chữ Hán: 阮福晪; ? – 1783), tước phong **Thông Hoá Quận vương** (通化郡王), là một hậu duệ của chúa Nguyễn và là em của vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử
**Nguyễn Phúc Mân** (chữ Hán: 阮福旻; ? – 26 tháng 3 năm 1783), tước phong **An Biên Quận vương** (安邊郡王), là một hậu duệ của chúa Nguyễn và là em của vua Gia Long nhà
**Nguyễn Phúc Ngọc Châu** (chữ Hán: 阮福玉珠; 1782 – 1847), phong hiệu **Bình Thái Công chúa** (平泰公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Tĩnh Hảo** (chữ Hán: 阮福静好; 1825– 1848), phong hiệu **Diên Phúc Công chúa** (延福公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Cuộc đời Hoàng
**Nguyễn Phúc Hồng Tố** (chữ Hán: 阮福洪傃; 25 tháng 10 năm 1834 – 18 tháng 9 năm 1922), tước phong **Hoằng Trị vương** (弘治王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Nhàn Yên** (chữ Hán: 阮福嫻嫣; ? – ?), phong hiệu **An Thạnh Công chúa** (安盛公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Sử sách không
**Nguyễn Phúc Hồng Kháng** (chữ Hán: 阮福洪伉; 5 tháng 5 năm 1837 – 19 tháng 2 năm 1865), tước phong **Phong Lộc Quận công** (豐祿郡公), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Bửu Trác** (Hán Nôm: **阮福寶卓**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông sinh năm 1887 tại Huế, thuộc đệ tam hệ chánh phòng Văn Lãng quận vương Nguyễn Phúc
**Nguyễn Phúc Tấn** (chữ Hán: 阮福晉; 21 tháng 3 năm 1799 – 17 tháng 7 năm 1854), còn có huý là **Thản**, tước phong **Diên Khánh Vương** (延慶王), là một hoàng tử con vua Gia
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân