Nguyễn Phúc Kỳ (chữ Hán: 阮福淇, ? - 22 tháng 7, 1631), về sau gọi là Tôn Thất Kỳ (尊室淇) hay Ông Hoàng Kỳ, là một vị thế tử dưới thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong thuộc thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Ông là con trai trưởng của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên với bà chánh thất là Mạc Thị Giai. Ban đầu được giao chức Chưởng cơ. Năm 1615, tức 2 năm sau khi chúa Sãi trở thành người đứng đầu xứ Đàng Trong, công tử cả Tôn Thất Kỳ được phong Hữu phủ Chưởng phủ sự, Trấn thủ Quảng Nam. Với quyết định này, ông đã được ngầm công nhận là người sẽ kế nghiệp ngôi Chúa. Trong thời gian ở Quảng Nam, ông chăm làm ơn huệ, vỗ về thương yêu quân và dân, làm cho trong cõi được yên ổn.
Tôn Thất Kỳ Kỳ cũng có thái độ thân thiện với các giáo sĩ phương Tây. Sách Lịch sử truyền giáo có viết: “Làm quan trấn thủ Quảng Nam ông có cảm tình với đạo, đã nhiều lần bênh vực cho các cha”. Chính nhờ thái độ thân thiện của ông, các giáo sĩ như Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes mới có điều kiện sống nhiều năm ở Hội An và Thanh Chiêm từ đó thực hiện việc La-tinh hóa tiếng Việt để cho ra đời chữ Quốc ngữ.
Ngày 22 tháng 7 năm 1631 (tức 24 tháng 6 năm Tân Mùi), Tôn Thất Kỳ mất ở Quảng Nam, hưởng dương khoảng hơn 30 tuổi. Theo sử sách nhà Nguyễn, thì Kỳ ở Quảng Nam ân và uy đều sáng tỏ đến lúc chết, sĩ dân ai cũng thương tiếc. Ông được triều đình nhà Lê tặng phong Thiếu bảo, Khánh quận công. Người em cùng mẹ với ông là Nguyễn Phúc Lan trở thành người kế vị nhà Nguyễn, sau chính là chúa Thượng.
Dinh Quảng Nam dưới thời Nguyễn Phúc Kỳ được đánh giá là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất. Nhà nghiên cứu Phan Du nhận định rằng:
:Cũng như cha là chúa Sãi, công tử Nguyễn Phúc Kỳ vừa có tài lại vừa có đức, được quân dân cảm mến và trong 18 năm dưới quyền cai trị của ông, nhân dân Quảng Nam đã được vui sống trong cảnh an cư lạc nghiệp.
Hậu sự
Bà vợ chánh thất của ông là Tống Thị Toại, con gái của Cai cơ Tống Phước Thông, đã sinh cho ông ba người con trai. Phước Thông thường hy vọng rằng về sau mình sẽ được vinh hiển vì là ông nhạc của nhà Chúa, đến khi Kỳ mất, ông ta rất thất vọng, liền bỏ trốn theo về với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, riêng Tống thị vẫn ở lại Thuận Quảng.
Mùa xuân năm 1639, Tống thị vào yết kiến chúa Thượng. Vì bà ta có vẻ xinh đẹp, khéo ứng đối, từng nhân việc vào ra mắt, đem tình trạng đau khổ kêu xin và xâu một chuỗi ngọc bách hoa. Chúa thương tình, bèn cho được ra vào cung phủ, nhân đó tư thông với Tống thị. Mối quan hệ chị dâu - em chồng này về sau trở thành một bê bối lớn trong gia tộc họ Nguyễn Phúc. Vì được sủng ái, Tống thị ra sức vơ vét làm giàu, của cải chất như núi, đình thần nhiều người ganh ghét. Người em thứ 4 của Chúa là Chưởng cơ Tôn Thất Trung bèn mưu giết Tống thị. Tống thị sợ, nhân cha là Phước Thông đang được Thanh vương Trịnh Tráng tin dùng, bèn viết mật thư và xâu một chuỗi ngọc bánh hoa bằng trân châu, sai người đem đưa cho Phước Thông để biếu họ Trịnh, lại xin cất quân đánh Đàng Trong, Tống thị nguyện đem gia tài để giúp lương quân. Đó là điểm khởi đầu của cuộc giao chiến Trịnh - Nguyễn lần thứ 4 năm 1648. Cùng năm đó, chúa Thượng bị Tống thị đầu độc đến chết, con là chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần lên nối ngôi. Vì quân Trịnh không chiếm được Đàng Trong mà bản thân đã bị Chưởng cơ Trung ganh ghét, Tống thị sợ bèn hết lòng chiều nịnh và chuyển sang tư thông với Trung, rồi khuyên Trung tạo phản. Có người thuộc hạ của Trung là Thắng Bố tố cáo. Chúa Hiền giam cầm Trung vào ngục, sau đó ban rượu độc giết chết, rồi giết Tống thị lấy hết gia tài tán cấp cho quân dân.
Kỳ có 4 trai. Ba con đầu là Nhuệ, Xuân, Tài đều là bà vợ cả Tống Thị Toại sinh ra, còn người con út là Trí là con của bà vợ thứ Bùi Thị Phượng. Cả 4 người đều làm đến Chưởng doanh. Cháu 5 đời của ông tên là Nguyễn Phúc Thận, làm Cai đội. Vào năm 1774, Thận theo Chưởng cơ Tôn Thất Thăng đi đánh giặc Tây Sơn ở Quảng Nam. Thăng nhát, chạy trước; Thận cố đánh, bị chết trận. Hai em Thận là Hoàn và Đăng đều làm Đội trưởng theo Tả quân Nguyễn Cửu Dật đi đánh ở Quảng Nam, chiến đấu với giặc đều chết trận. Năm thứ 4 đời vua Gia Long nhà Nguyễn (1806), vua cử 5 người làm nhiệm vụ coi mả cho Khánh quận công Tôn Thất Kỳ.
Sau khi qua đời, Tôn Thất Kỳ được an táng ở làng Thanh Quýt (nay là xã Điện Thắng, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Lăng mộ của ông tồn tại hơn 350 năm tại đây. Sau năm 1975, trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, lăng của Nguyễn Phúc bị san bằng để lấy đất gieo trồng, nhưng cũng may là nền móng thành quách và tấm bia cổ của ngôi mộ ông vẫn còn nguyên ngay tại vị trí cũ. Năm 2000, con cháu Nguyễn Phước tộc Quảng Nam - Đà Nẵng cải táng mộ ông về xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tọa lạc trên một ngọn đồi có cây cối rợp bóng xanh, khu mộ có diện tích gần 100m2, quay về hướng Đông Bắc – Tây Nam, thành ngoại xây bằng đá chẻ, nền láng xi măng, hiện nay thuộc là nghĩa địa Ba Truông thôn Chiêm Sơn, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, gần khu du lịch sinh thái Duy Sơn.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phúc Kỳ** (chữ Hán: 阮福淇, ? - 22 tháng 7, 1631), về sau gọi là **Tôn Thất Kỳ** (尊室淇) hay **Ông Hoàng Kỳ**, là một vị thế tử dưới thời chúa Nguyễn ở Đàng
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1835)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Phúc Chú** (chữ Hán: 阮福澍, 1697-1738) hay **Trú** hay **Thụ** trấn Hà Tiên, để giữ gìn và mở mang xứ ấy. Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12 (1737), triều đình định lại quan
**Nguyễn Phúc Trung** (chữ Hán: 阮福忠), sau gọi là **Tôn Thất Trung**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Ông nổi tiếng vì vụ bê bối
**Nguyễn Cao Kỳ** (8 tháng 9 năm 1930 – 22 tháng 7 năm 2011) là một tướng lĩnh Không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng trước khi tham gia
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Phúc Bửu Thạch** (Hán Nôm: **阮福寶石**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông là cháu nội của Thụy Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (阮福洪依), con của Kiến Thụy quận
**Nguyễn Phúc Anh** (chữ Hán: 阮福渶, 1601 - 1635), còn gọi là **Tôn Thất Anh**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Lúc sinh thời ông
**Nguyễn Phúc Luân** (chữ Hán: 阮福㫻, 11 tháng 6 năm 1733 - 24 tháng 10 năm 1765) hay **Nguyễn Phúc Côn**, còn gọi là **Nguyễn Hưng Tổ** (阮興祖), là một Vương tử ở Đàng Trong,
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Bửu Trác** (Hán Nôm: **阮福寶卓**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông sinh năm 1887 tại Huế, thuộc đệ tam hệ chánh phòng Văn Lãng quận vương Nguyễn Phúc
**Nguyễn Phúc Miên Nghi** (chữ Hán: 阮福綿宜; 30 tháng 12 năm 1810 – 12 tháng 8 năm 1874), là một hoàng tử của nhà Nguyễn. Ông nổi tiếng là người có tài thơ ca và
**Nguyễn Phúc Hồng Cai** (chữ Hán: 阮福洪侅; 13 tháng 12 năm 1845 – 15 tháng 5 năm 1876), tôn hiệu **Kiên Thái vương** (堅太王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
**Nguyễn Phúc Hồng Đĩnh** (hoặc **Đình**) (chữ Hán: 阮福洪侹; 2 tháng 12 năm 1843 – 18 tháng 4 năm 1884), tước phong **Kỳ Phong Quận công** (奇峰郡公), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị
**Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo** (富平郡王 阮福綿; 4 tháng 1 năm 1817 - 1 tháng 2 năm 1865), trước tên là **Nguyễn Phúc Miên An** (阮福綿安), là một hoàng tử của Hoàng
**Nguyễn Phúc Miên Hoành** (chữ Hán: 阮福绵宏; 12 tháng 7 năm 1811 – 23 tháng 11 năm 1835), trước có tên là **Nguyễn Phúc Thự** (阮福曙). Ông là người con thứ hai của bà Hiền
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
**Nguyễn Phúc Ngọc Tú** (chữ Hán: 阮福玉琇; 1759 – 1823), phong hiệu **Long Thành Công chúa** (隆城公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Miên Ký** (chữ Hán: 阮福綿寄; 5 tháng 4 năm 1838 – 15 tháng 12 năm 1881), tước phong **Cẩm Xuyên Quận vương** (錦川郡王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Tấn** (chữ Hán: 阮福晉; 21 tháng 3 năm 1799 – 17 tháng 7 năm 1854), còn có huý là **Thản**, tước phong **Diên Khánh Vương** (延慶王), là một hoàng tử con vua Gia
**Nguyễn Phúc Hồng Y** (chữ Hán: 阮福洪依, 11 tháng 9 năm 1833 – 23 tháng 2 năm 1877), tôn hiệu **Thụy Thái vương** (瑞太王) (còn được đọc trại thành **Thoại Thái vương**), biểu tự **Quân
**Nguyễn Phúc Miên Miêu** (chữ Hán: 阮福綿𡩈; 3 tháng 1 năm 1832 – 25 tháng 5 năm 1865), tước phong **Trấn Định Quận công** (鎮定郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Dần** (chữ Hán: 阮福綿寅, 18 tháng 4 năm 1829 – 9 tháng 3 năm 1885), tước phong **Trấn Tĩnh Quận công** (鎮靖郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Điền** (chữ Hán: 阮福沺; 14 tháng 4 năm 1700 – 23 tháng 7 năm 1739), tước phong **Dận Quốc công** (胤國公), là một công tử con của chúa Nguyễn Phúc Chu trong lịch
:_Bài này viết về hoàng tử con vua Gia Long, về công tử có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Mão** (chữ Hán: 阮福昴; 25 tháng 10 năm 1813 – 18 tháng
**Nguyễn Phúc Miên Ngung** (còn có âm đọc là **Ngôn**) (chữ Hán: 阮福綿㝘; 1 tháng 1 năm 1830 – 18 tháng 10 năm 1853), hiệu là **Mạn Viên** (漫園), tự là **Hòa Phủ** (和甫), tước
**Nguyễn Phúc Miên Tằng** (còn có âm đọc là **Tăng**) (chữ Hán: 阮福綿𡪠; 27 tháng 10 năm 1828 – 16 tháng 4 năm 1896), tước phong **Hải Quốc công** (海國公), là một hoàng tử con
**Nguyễn Phúc Bửu Trưng** (chữ Hán: 阮福寶徵; 1893 – 1947) là quan chức nhà Nguyễn, xuất thân vương tộc Gia Hưng, dòng chính thống thứ ba của tôn thất triều Nguyễn. ## Tiểu sử Nguyễn
**Nguyễn Phúc Đồng** (chữ Hán: 阮福晍; ? – 18 tháng 10 năm 1777), là một Công tử con của Khang vương Nguyễn Phúc Luân trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Công tử Đồng,
**Nguyễn Phúc Tứ** (chữ Hán: 阮福泗; 16 tháng 2 năm 1700 – 18 tháng 7 năm 1753), còn có tên là **Đán** (旦), tước phong **Luân quốc công** (倫國公), là một Công tử, con của
**Nguyễn Phúc Quang** (chữ Hán: 阮福㫕, 10 tháng 9 năm 1811 – 29 tháng 6 năm 1845), tước phong **An Khánh vương** (安慶王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Đài** (chữ Hán: 阮福旲; 5 tháng 10 năm 1795 – 14 tháng 11 năm 1849), tước phong **Kiến An vương** (建安王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Hồng Khẳng** (Chữ Hán: 阮福洪肯; 1861 - 1931), tự **Sĩ Hoạch** (士彠), hiệu **Vấn Trai** (問齋), là quan đại thần triều Nguyễn. Ông là con trai thứ 13 của Tùng Thiện vương. ##
**Nguyễn Phước Mỹ Đường** (阮福美堂, 1798 - 1849), còn có tên là **Nguyễn Phước Đán** (阮福旦) là hoàng thân nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, là đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long.
**Nguyễn Phúc Thanh Cát** (chữ Hán: 阮福清吉; 1839 – 1879), phong hiệu **Quảng Thi Công chúa** (廣施公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Bửu Tán** (chữ Hán: 阮福寶巑; 1882 – 8 tháng 5 năm 1941), thường được gọi là **Ông Hoàng Chín**, tước phong **Tuyên Hóa vương** (宣化王), là một hoàng tử con vua Dục Đức
**Nguyễn Phúc Phúc Huy** (chữ Hán: 阮福福徽; 1846 – 1870), phong hiệu **Thuận Mỹ Công chúa** (順美公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Miên Thủ** (chữ Hán: 阮福綿守; 5 tháng 3 năm 1819 – 24 tháng 9 năm 1859), tự là **Thị Phủ** (是甫), hiệu là **Thận Trai** (慎齋), tước phong **Hàm Thuận công** (咸順公), là