✨Nguyễn Phúc Hồng Cai

Nguyễn Phúc Hồng Cai

Nguyễn Phúc Hồng Cai (chữ Hán: 阮福洪侅; 13 tháng 12 năm 1845 – 15 tháng 5 năm 1876), tôn hiệu Kiên Thái vương (堅太王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Ông được biết đến là phụ thân của ba vị hoàng đế liên tiếp của triều Nguyễn, là Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh, đồng thời là tổ phụ của vua Khải Định và là tằng tổ phụ của vua Bảo Đại.

Tiểu sử

Hoàng tử Hồng Cai sinh ngày 5 tháng 11 (âm lịch) năm Ất Tỵ (1845), là con trai thứ 26 của vua Thiệu Trị, mẹ là Tài nhân Trương Thị Vĩnh (sau được tấn tặng làm Kỷ tần). Hồng Cai bẩm tính nhân hậu, cần kiệm, biết tuân theo phép tắc. Ông vốn chăm học từ nhỏ, khi ra ở phủ riêng cùng học với các vương công, xem rộng kinh sử.

Năm Tự Đức thứ 18 (1865), Hồng Cai được phong làm Kiên Quốc công (堅國公). Trước đó, vua ra bài cho cả ba hoàng đệ là Hồng Cai, Hồng Diêu và Hồng Dật cùng làm. Theo lệ, các hoàng thân mới đầu đều được phong làm Quận công, nhưng vì thấy Hồng Cai học hạnh tốt hơn cả nên được đặc cách gia phong như vậy. Ông được thờ tại phường Dưỡng Sinh ở trong kinh thành. Bài sách văn viết rằng:

"_Được nghe thánh thần tỏ lòng luyến ái, nghĩa thân thân là việc lớn hơn; vương giả nối nghiệp trung hưng, lễ quý quý_ _là trọng trước hết; có đức tất có báo, dẫu chết cũng như còn. Nghĩ đến Kiên quốc công là người em yêu quý của hoàng khảo Dực tông Anh hoàng đế ta, bản tính đoan trang; vốn lòng hiếu hữu, tự biết rèn luyện, thực tinh hoa lá ngọc cành vàng; không cần múa gươm, có khí khái cánh chim vó ngựa, hạnh nghĩa ấy, tam hoàng_ _rõ rệt; bản chi này bách thế còn lưu. Nên nay phải ngọc bích được truyền; cầm tỷ phù nối nghiệp, nghĩ đến rung rinh đai ấn, còn tưởng đến Đông Bình**'; hiềm vì văng vẳng sinh ca, không theo được Tử Tấn**', dòng dõi vốn lòng nhân hậu; cáo sắc phải được hiển dương. Nay tuân theo đặc Chỉ của Từ Dụ Bác Huệ Thái hoàng thái hậu, tấn tặng là Kiên vương, tên thụy là Ôn Nghị, để yên ủi linh hồn, mà tỏ rõ ơn nước. Than ôi! Hàm sắc thêm phần rực rỡ, hầu nêu vang vẻ ở tuyền đài; lá đồng_ _há phải việc riêng, che chở giúp ngầm cho căn bản, mong xin linh sảng có thấu; xin phải kính theo._"

Năm Đồng Khánh thứ 3 (1888), theo lời bàn của bộ Lễ, vua muốn tôn huy hiệu cho Kiên vương Hồng Cai và phủ thiếp Bùi Thị Thanh (mẹ vua), đồng thời cải thụy của Kiên vương thành Thuần Nghị (純毅) như trước. Đình thần và phủ Tôn Nhân cho là hợp tình hợp lễ, xin tấn tôn Kiên vương làm Kiên Thái vương (堅太王), xưng là Hoàng thúc phụ, Bùi thị làm Kiên Thái vương phi, xưng là Hoàng thúc mẫu. Cũng vì từ trước đến nay chưa có lệ phong Vương phi cho phủ thiếp nên hai hoàng thân là quốc công Miên Trữ và quốc công Miên Tuấn đều bác bỏ việc đó. Điều này làm phật ý Đồng Khánh nên hai ông bị phế bỏ tước vị.

Cũng trong năm đó, vua cho dựng đền Hân Vinh, dự định để bà Tài nhân Trương Thị Vĩnh đến ở. Nhưng cuối năm đó, Đồng Khánh băng hà, triều thần cho đặt quan tài của vua ở đền Hân Vinh, sau khi an táng vua thì lấy đền đó làm nơi thờ mới cho Kiên Thái vương Hồng Cai (là cha vua).

Dân gian Huế có câu ca dao:

:Một nhà sinh đặng ba vua. :Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài.

Hai câu này là để nói về hoàn cảnh đặc biệt của gia đình ông, khi mà cả 3 người con trai đều được nối ngôi làm vua. "Vua còn" tức Đồng Khánh, "vua mất" tức Kiến Phúc và "vua thua chạy dài" tức Xuất đế Hàm Nghi.

Phủ thiếp

  • Nguyễn Thị Thảo, chánh thất, được nhắc đến qua việc vua Khải Định ban cho bà một chiếc Kim bội có dây tua nhân tiết Thánh Thọ ngũ tuần (mừng thọ 50 tuổi của bà Thánh Cung Nguyễn Hữu Thị Nhàn, đích mẫu của Khải Định).
  • Bùi Thị Thanh (1845 – 1900), được tôn làm Kiên Thái vương phi (堅太王妃), sau khi mất được ban thụy là Đoan Nhu (端柔).
  • Phan Thị Nhàn (? – 21 tháng 1 năm 1889).

Kiên Thái vương Hồng Cai còn nhiều thứ thiếp chưa rõ tên.

Hậu duệ

Con với bà Bùi Thị Thanh

  • Nguyễn Phúc Ưng Thị, làm hoàng tử đổi tên thành Ưng Đường rồi Ưng Kỷ, tức Đồng Khánh. Ông được vua Tự Đức nhận làm con nuôi thứ 2, được Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm nuôi dưỡng. Công tử trưởng.
  • Nguyễn Phúc Ưng Đăng, làm hoàng tử đổi tên thành Ưng Hỗ, tức vua Kiến Phúc, được Tự Đức nhận làm con nuôi thứ 3, do Học phi Nguyễn Văn Thị Hương nuôi dưỡng. Công tử thứ ba.
  • Nguyễn Phúc Ưng Quyến (1871 – 1901), công tử thứ tư, tập phong Kiên Quận công (堅郡公).
  • Công nữ Như Đạm. Theo đình thần bàn nghị, vua phỏng theo lễ chế nhà Đường truy tặng người chị lớn chết yểu làm Huyện chúa.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phúc Hồng Cai** (chữ Hán: 阮福洪侅; 13 tháng 12 năm 1845 – 15 tháng 5 năm 1876), tôn hiệu **Kiên Thái vương** (堅太王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Phúc Hồng Hưu** (chữ Hán: 阮福洪休; 2 tháng 10 năm 1835 – 9 tháng 5 năm 1885), còn có tên khác là **Thuyên** (佺). Lúc còn nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, biết lĩnh
**Nguyễn Phúc Hồng Y** (chữ Hán: 阮福洪依, 11 tháng 9 năm 1833 – 23 tháng 2 năm 1877), tôn hiệu **Thụy Thái vương** (瑞太王) (còn được đọc trại thành **Thoại Thái vương**), biểu tự **Quân
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Phúc Hồng Diêu** (còn có âm đọc là **Dao**) (chữ Hán: 阮福洪傜; 16 tháng 6 năm 1845 – 5 tháng 7 năm 1875), tước phong **Phú Lương công** (富良公), là một hoàng tử con
**Nguyễn Phúc Hồng Kháng** (chữ Hán: 阮福洪伉; 5 tháng 5 năm 1837 – 19 tháng 2 năm 1865), tước phong **Phong Lộc Quận công** (豐祿郡公), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Hồng Truyền** (chữ Hán: 阮福洪傳; 3 tháng 9 năm 1837 – 18 tháng 7 năm 1889), tước phong **Tuy Hòa Quận vương** (綏和郡王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Hồng Đĩnh** (hoặc **Đình**) (chữ Hán: 阮福洪侹; 2 tháng 12 năm 1843 – 18 tháng 4 năm 1884), tước phong **Kỳ Phong Quận công** (奇峰郡公), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị
**Nguyễn Phúc Vĩnh Cẩn** (chữ Hán: 阮福永𧯢, 1914 - ?) là Hoàng thân triều Nguyễn. Ông là cháu cố của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai, là cháu nội của Kiên Quận công Nguyễn
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Phúc Đài** (chữ Hán: 阮福旲; 5 tháng 10 năm 1795 – 14 tháng 11 năm 1849), tước phong **Kiến An vương** (建安王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Miên Nghi** (chữ Hán: 阮福綿宜; 30 tháng 12 năm 1810 – 12 tháng 8 năm 1874), là một hoàng tử của nhà Nguyễn. Ông nổi tiếng là người có tài thơ ca và
**Nguyễn Phúc Gia Phúc** (chữ Hán: 阮福嘉福; 1847 – 1888), phong hiệu **Phục Lễ Công chúa** (復禮公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Bà là vị
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Giản Tông** (chữ Hán:阮簡宗; 12 tháng 2 năm 1869 – 31 tháng 7 năm 1884), tên thật là **Nguyễn Phúc Ưng Đăng** (阮福膺登), là vị hoàng đế thứ bảy của triều đại nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Phúc Miên Hoành** (chữ Hán: 阮福绵宏; 12 tháng 7 năm 1811 – 23 tháng 11 năm 1835), trước có tên là **Nguyễn Phúc Thự** (阮福曙). Ông là người con thứ hai của bà Hiền
**Nguyễn Phúc Miên Tằng** (còn có âm đọc là **Tăng**) (chữ Hán: 阮福綿𡪠; 27 tháng 10 năm 1828 – 16 tháng 4 năm 1896), tước phong **Hải Quốc công** (海國公), là một hoàng tử con
**Nguyễn Phúc Miên Miêu** (chữ Hán: 阮福綿𡩈; 3 tháng 1 năm 1832 – 25 tháng 5 năm 1865), tước phong **Trấn Định Quận công** (鎮定郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo** (富平郡王 阮福綿; 4 tháng 1 năm 1817 - 1 tháng 2 năm 1865), trước tên là **Nguyễn Phúc Miên An** (阮福綿安), là một hoàng tử của Hoàng
**Nguyễn Phước Mỹ Đường** (阮福美堂, 1798 - 1849), còn có tên là **Nguyễn Phước Đán** (阮福旦) là hoàng thân nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, là đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long.
**Nguyễn Phúc Bính** (chữ Hán: 阮福昞; 6 tháng 9 năm 1797 – 16 tháng 8 năm 1863), tước phong **Định Viễn Quận Vương** (定遠郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Quan** (chữ Hán: 阮福綿官; 21 tháng 5 năm 1827 – 3 tháng 2 năm 1847), tự là **Tắc Tư** (則思), tước phong **Kiến Tường công** (建祥公), là một hoàng tử con vua
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
**Nguyễn Phúc Miên Dần** (chữ Hán: 阮福綿寅, 18 tháng 4 năm 1829 – 9 tháng 3 năm 1885), tước phong **Trấn Tĩnh Quận công** (鎮靖郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Thanh** (chữ Hán: 阮福綿寈; 18 tháng 9 năm 1830 – 6 tháng 2 năm 1877), tự là **Giản Trọng** (柬仲), hiệu là **Quân Đình** (筠亭), tước phong **Trấn Biên Quận công** (鎮邊郡公),
**Nguyễn Phúc Miên Tể** (chữ Hán: 阮福綿宰; 21 tháng 10 năm 1822 – 5 tháng 12 năm 1844), tự là **Trọng Chân** (仲真), hiệu **Tùng Thự** (松墅), tước phong **Nghĩa Quốc công** (義國公), là một
**Nguyễn Phúc Miên Phú** (chữ Hán: 阮福綿富; 28 tháng 2 năm 1817 – 15 tháng 4 năm 1885), tước phong **Phù Mỹ Quận công** (符美郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Sủng** (chữ Hán: 阮福綿寵; 8 tháng 4 năm 1831 – 23 tháng 7 năm 1865), tước phong **Tuy Biên Quận công** (綏邊郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Đông Hải Đại Vương** (chữ Hán: 東海大王) hay **Nguyễn Phục** (阮復) hay còn gọi Phục Công (復公) hiệu là Tùng Giang tiên sinh (松江先生) là một vị quan thời Lê sơ trong lịch sử Việt
**Nguyễn Thị Cẩm** (? - ?), là phi tần của Nguyễn Dực Tông Tự Đức, dưỡng mẫu của Cảnh Tông Đồng Khánh. ## Tiểu sử ### Nhập cung Bà là người huyện Quảng Điền, phủ
**Nguyễn Phúc Bửu Tủng** (còn đọc là **Tung**) (chữ Hán: 阮福寶𡾼; ? – 1900), tước phong **An Hóa Quận vương** (安化郡王), là một hoàng tử con vua Đồng Khánh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**"Bông hồng cài áo"** là tên đoản văn viết về mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và cũng là tên một ca khúc do nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sáng tác trong năm 1967,
**Nguyễn Phúc Bửu Lũy** (còn có âm đọc là **Bửu Lỗi**) (chữ Hán: 阮福寶𡾊; 1885 – 1902), tước phong **Mỹ Hóa công** (美化公), là một hoàng tử con vua Dục Đức nhà Nguyễn trong lịch
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Lưu Vĩnh Phúc** (tiếng Trung: 劉永福/刘永福) (1837—1917), tự **Uyên Đình** (淵亭/渊亭), người Khâm Châu, Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây), quê ở Bác Bạch, Ngọc Lâm, Quảng Tây, là một vị tướng vào cuối thời
**Đồng Khánh Đế** (chữ Hán: 同慶 19 tháng 2 năm 1864 – 28 tháng 1 năm 1889), tên húy là **Nguyễn Phúc Ưng Thị** (阮福膺豉) và **Nguyễn Phúc Ưng Đường** (阮福膺禟 ), lên ngôi lấy
Trích đoạn cải lương _Tự Đức dâng roi_ – màn trình diễn cải lương trên [[chợ nổi tại Liên hoan Ẩm thực Món ngon các nước lần V – 2010 tại Thành phố Hồ Chí
**Hồng Kông** (, , ; ), tên chính thức là **Đặc khu hành chính Hồng Kông thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa**, là một vùng đô thị đặc biệt, cũng như một trong hai
**Vĩnh Phúc** là một tỉnh cũ thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam, nằm ở chính giữa trung tâm hình học trên bản đồ miền Bắc. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế