Nguyễn Phúc Miên Phú (chữ Hán: 阮福綿富; 28 tháng 2 năm 1817 – 15 tháng 4 năm 1885), tước phong Phù Mỹ Quận công (符美郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Hoàng tử Miên Phú sinh ngày 13 tháng 1 (âm lịch) năm Đinh Sửu (1817), là con trai thứ 8 của vua Minh Mạng, mẹ là Cung nhân Trần Thị Nghiêm. Hoàng tử là con đầu lòng của bà Cung nhân.
Khi còn làm hoàng tử, ông kiêu căng và ngông cuồng, thường chơi thân với bọn trẻ hư, để thuộc hạ cưỡi ngựa dẫm chết người. Việc này Đại Nam thực lục có biên chép rất rõ. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), tháng 11 (âm lịch), hoàng tử Miên Phú có một đêm cùng với đám trong phủ là Hoàng Văn Vân, Bùi Văn Nghị và Bùi Văn Quế phi ngựa ở phía tả ngoài hoàng thành. Hoàng tử sau đó về trước, đám còn lại cho ngựa chạy thi. Có một bà già khoảng 80 tuổi đi bên đường tránh không kịp, bị ngựa của tên Vân xéo chết.
Vua được tin, sai ngay Tôn nhân phủ Tôn Thất Bằng, Cơ mật viện Trương Đăng Quế và Phan Bá Đạt, Hình bộ Nguyễn Công Hoán và Nội các Hoàng Quýnh tra hỏi. Bản tấu dâng lên, vua dụ rằng: “Xem tờ tâu, trẫm rất buồn giận. Vả, ngày thường, trẫm vẫn nghiêm khắc với các hoàng tử, hễ phạm pháp thì trừng phạt ngay chưa từng khoan dung chút nào. Mà thằng con ấy, từ nhỏ bẩm tính ngu đần, lời nói việc làm đều hèn hạ, bỉ ổi đã không được kể vào hàng các hoàng tử, lớn lên, ngày chỉ rong chơi, đức nghiệp chẳng tiến. Nhiều lần trẫm đã nghiêm khắc dạy dỗ, nhưng xong việc, nó lại quên ngay, không biết chừa và sửa đổi chút nào! Nay lại gần gũi thân mật với lũ tiểu nhân phi ngựa ở đường lớn Kinh thành là nơi quan quân đi lại đông đúc, để đến nỗi kẻ cưỡi ngựa theo hầu xéo chết mạng người. Sao còn xứng đáng là công tử như thơ Lân chỉ nữa. Huống chi, lại không vâng lời cha dạy bảo, thực là đứa con xấu xa, tội nào còn lớn hơn nữa! Vậy chuẩn cho Miên Phú bị tước mũ áo, cách mất lương bổng hằng năm, đóng cửa ở nhà riêng để tự xét mình sửa lỗi, không cho ra ngoài một bước, không được lại dự vào hàng các hoàng tử, chỉ gọi tên là Phú mà thôi. Thế mới đáng tội!”. Phàm các em và con cháu, chớ nên coi khinh, lấy thân để thử pháp luật. Gương sáng chẳng xa, ai nấy phải kính cẩn đó!''”.
Tháng giêng năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), Tôn nhân phủ, viện Cơ mật và bộ Lễ bàn xin cho hoàng đệ Miên Phú được để tang vua Minh Mạng 3 năm, mặc áo sổ gấu, phàm gặp lễ ân tiến và các ngày đại lễ cho đứng chầu ở cuối hàng hoàng đệ, còn những buổi cúng sáng và chiều thì không cho ông dự. Vua dụ, sau này nếu ông biết hối lỗi, chăm học, thì cho theo ban hoàng đệ làm lễ, nhưng không được sung làm thừa tế hay nhiếp tế.
Mãi đến năm Tự Đức thứ 5 (1852), hoàng thân Miên Phú mới được phong làm Phù Mỹ Quận công (符美郡公).
Hàm Nghi năm thứ nhất, Ất Dậu (1885), ngày 28 tháng 2 (âm lịch), quận công Miên Phú qua đời, thọ 69 tuổi, thụy là Cung Lượng (恭亮). Mộ của ông được táng tại Thanh Thủy (thuộc huyện Hương Thủy, Thừa Thiên), còn phủ thờ dựng ở xã Dương Xuân cùng huyện (sau dời về Phú Cát, Huế).
Gia quyến
Anh chị em
Ngoài Miên Phú, bà Nghiêm còn sinh được 1 hoàng tử và 3 hoàng nữ khác. Tuy sinh nhiều con như vậy, nhưng suốt cuộc đời bà chỉ là một cung nhân không được xếp phẩm vị.
- Em trai: Hà Thanh Quận công Miên Tống (1822 – 1858), hoàng tử thứ 16.
- Em gái: Định Mỹ Công chúa Đoan Thuận (1820 – 1854), hoàng nữ thứ 10.
- Em gái: Cảm Đức Công chúa Thục Thận (1825 – 1907), hoàng nữ thứ 20.
- Em gái: Hoàng nữ thứ 19 mất sớm.
Con cái
Phù Mỹ Quận công có 13 con trai và 8 con gái. Ông được ban cho bộ chữ Thực (食) để đặt tên cho các con cháu trong phòng. Công tử Hồng Ninh con trai ông là con của vợ thứ, được tập phong làm Phù Mỹ Đình hầu (符美亭侯).
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phúc Miên Phú** (chữ Hán: 阮福綿富; 28 tháng 2 năm 1817 – 15 tháng 4 năm 1885), tước phong **Phù Mỹ Quận công** (符美郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Phúc Miên Nghi** (chữ Hán: 阮福綿宜; 30 tháng 12 năm 1810 – 12 tháng 8 năm 1874), là một hoàng tử của nhà Nguyễn. Ông nổi tiếng là người có tài thơ ca và
**Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo** (富平郡王 阮福綿; 4 tháng 1 năm 1817 - 1 tháng 2 năm 1865), trước tên là **Nguyễn Phúc Miên An** (阮福綿安), là một hoàng tử của Hoàng
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
**Nguyễn Phúc Miên Lâm** (chữ Hán: 阮福綿㝝; 20 tháng 1 năm 1832 – 28 tháng 12 năm 1897), tước phong **Hoài Đức Quận vương** (懷德郡王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Dần** (chữ Hán: 阮福綿寅, 18 tháng 4 năm 1829 – 9 tháng 3 năm 1885), tước phong **Trấn Tĩnh Quận công** (鎮靖郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Kiền** (chữ Hán: 阮福綿𡨊; 28 tháng 9 năm 1831 – 20 tháng 7 năm 1854), tự là **Trọng Cung** (仲恭), **Thúc Cung** (叔恭), hiệu là **Chi Hựu** (止囿). Ông là người con
**Nguyễn Phúc Miên Thủ** (chữ Hán: 阮福綿守; 5 tháng 3 năm 1819 – 24 tháng 9 năm 1859), tự là **Thị Phủ** (是甫), hiệu là **Thận Trai** (慎齋), tước phong **Hàm Thuận công** (咸順公), là
**Nguyễn Phúc Miên Thần** (chữ Hán: 阮福綿宸; 16 tháng 2 năm 1817 – 7 tháng 10 năm 1878), tước phong **Nghi Hòa Quận công** (宜禾郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Tằng** (còn có âm đọc là **Tăng**) (chữ Hán: 阮福綿𡪠; 27 tháng 10 năm 1828 – 16 tháng 4 năm 1896), tước phong **Hải Quốc công** (海國公), là một hoàng tử con
**Nguyễn Phúc Miên Chí** (hoặc **Trí**) (chữ Hán: 阮福綿寘; 20 tháng 9 năm 1836 – 18 tháng 12 năm 1888), tước phong **Vĩnh Lộc Quận công** (永祿郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng
**Nguyễn Phúc Miên Trữ** (chữ Hán: 阮福綿宁; 11 tháng 7 năm 1820 – 20 tháng 8 năm 1890), tước phong **Tuân Quốc công** (遵國公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Hoành** (chữ Hán: 阮福绵宏; 12 tháng 7 năm 1811 – 23 tháng 11 năm 1835), trước có tên là **Nguyễn Phúc Thự** (阮福曙). Ông là người con thứ hai của bà Hiền
**Nguyễn Phúc Miên Tuấn** (chữ Hán: 阮福綿寯; 12 tháng 6 năm 1827 – 22 tháng 6 năm 1907), tự là **Dương Hiền** (陽賢), **Ngạn Thúc** (彦叔), **Ngạn Chi** (彦之), **Trọng Diên** (仲延), **Nhã Trang** (雅莊),
**Nguyễn Phúc Miên Gia** (chữ Hán: 阮福綿家; 22 tháng 5 năm 1826 – 20 tháng 7 năm 1875), tước phong **Quảng Biên Quận công** (廣邊郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Lịch** (chữ Hán: 阮福綿𡫯; 13 tháng 5 năm 1841 – 5 tháng 11 năm 1919), tước phong **An Thành vương** (安城王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Thanh** (chữ Hán: 阮福綿寈; 18 tháng 9 năm 1830 – 6 tháng 2 năm 1877), tự là **Giản Trọng** (柬仲), hiệu là **Quân Đình** (筠亭), tước phong **Trấn Biên Quận công** (鎮邊郡公),
**Nguyễn Phúc Miên Phong** (chữ Hán: 阮福綿寷; 16 tháng 5 năm 1824 – 30 tháng 10 năm 1860), tước phong **Tân Bình Quận công** (新平郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Miêu** (chữ Hán: 阮福綿𡩈; 3 tháng 1 năm 1832 – 25 tháng 5 năm 1865), tước phong **Trấn Định Quận công** (鎮定郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Quan** (chữ Hán: 阮福綿官; 21 tháng 5 năm 1827 – 3 tháng 2 năm 1847), tự là **Tắc Tư** (則思), tước phong **Kiến Tường công** (建祥公), là một hoàng tử con vua
**Nguyễn Phúc Miên Mật** (chữ Hán: 阮福綿宓, 17 tháng 8 năm 1825 – 23 tháng 5 năm 1847), hiệu là **Vân Đình** (芸亭), tước phong **Quảng Ninh Quận vương** (廣寧郡王), là một hoàng tử con
**Nguyễn Phúc Miên Vãn** (chữ Hán: 阮福綿𡩄; 28 tháng 9 năm 1832 – 1 tháng 9 năm 1895), tước phong **Cẩm Giang Quận công** (錦江郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Cung** (chữ Hán: 阮福綿宮; 17 tháng 1 năm 1824 – 2 tháng 10 năm 1849), tước phong **Sơn Định Quận công** (山定郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Quân** (còn có âm đọc là **Quần**) (chữ Hán: 阮福綿宭; 31 tháng 8 năm 1828 – 17 tháng 8 năm 1863), tước phong **Hòa Quốc công** (和國公), là một hoàng tử con
**Nguyễn Phúc Miên Ngung** (còn có âm đọc là **Ngôn**) (chữ Hán: 阮福綿㝘; 1 tháng 1 năm 1830 – 18 tháng 10 năm 1853), hiệu là **Mạn Viên** (漫園), tự là **Hòa Phủ** (和甫), tước
**Nguyễn Phúc Miên Liêu** (chữ Hán: 阮福綿寮; 23 tháng 8 năm 1824 – 1881), tước phong **Quỳ Châu Quận công** (葵州郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Phúc Miên Bàng** (chữ Hán: 阮福綿㝑; 5 tháng 6 năm 1838 – 19 tháng 8 năm 1902), tước phong **An Xuyên vương** (安川王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Thân** (chữ Hán: 阮福綿寴; 20 tháng 7 năm 1837 – 17 tháng 8 năm 1875), tự là **Trọng Chí**, hiệu là **Trúc Viên**, tước phong **Phù Cát Quận công** (符吉郡公), là một
**Nguyễn Phúc Miên Tống** (chữ Hán: 阮福綿宋; 17 tháng 3 năm 1822 – 2 tháng 3 năm 1858), tước phong **Hà Thanh Quận công** (河清郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Tể** (chữ Hán: 阮福綿宰; 21 tháng 10 năm 1822 – 5 tháng 12 năm 1844), tự là **Trọng Chân** (仲真), hiệu **Tùng Thự** (松墅), tước phong **Nghĩa Quốc công** (義國公), là một
**Nguyễn Phúc Miên Thể** (chữ Hán: 阮福綿寀; 5 tháng 1 năm 1829 – 22 tháng 9 năm 1864), tước phong **Tây Ninh Quận công** (西寧郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Sạ** (chữ Hán: 阮福綿宱; 13 tháng 3 năm 1830 – 13 tháng 1 năm 1902), tước phong **Tĩnh Gia công** (靜嘉公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Ngô** (còn có âm đọc là **Ngộ**) (chữ Hán: 阮福綿𡨂; 9 tháng 6 năm 1831 – 13 tháng 9 năm 1873), tước phong **Quế Sơn Quận công** (桂山郡公), là một hoàng tử
**Nguyễn Phúc Miên Ký** (chữ Hán: 阮福綿寄; 5 tháng 4 năm 1838 – 15 tháng 12 năm 1881), tước phong **Cẩm Xuyên Quận vương** (錦川郡王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Tiệp** (chữ Hán: 阮福綿寁; 18 tháng 8 năm 1832 – 9 tháng 12 năm 1871), tước phong **Duy Xuyên Quận công** (濰川郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Kháp** (chữ Hán: 阮福綿㝓; 5 tháng 10 năm 1828 – 14 tháng 7 năm 1893), tước phong **Tuy An Quận công** (綏安郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Ngụ** (chữ Hán: 阮福綿寓; 29 tháng 4 năm 1833 – 20 tháng 3 năm 1847), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Phúc Lương Đức** (chữ Hán: 阮福良德; 26 tháng 7 năm 1817 – 13 tháng 5 năm 1891), trước có tên là **Tam Xuân** (三春), phong hiệu **An Thường Công chúa** (安常公主), là một công
**Nguyễn Phúc Bửu Thạch** (Hán Nôm: **阮福寶石**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông là cháu nội của Thụy Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (阮福洪依), con của Kiến Thụy quận
Hoàng thân **Nguyễn Phúc Bửu Lộc** (sinh ngày 22 tháng 8 năm 1914 tại Huế, mất ngày 27 tháng 2 năm 1990 tại Paris) là Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Phức hợp tương thích mô chính** (_major histocompatibility complex_, **MHC**) hay ở người còn được gọi **kháng nguyên bạch cầu người** (_human leucocyte antigen_, **HLA**) là một nhóm gene mã hoá cho các protein trình
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là