Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo (富平郡王 阮福綿; 4 tháng 1 năm 1817 - 1 tháng 2 năm 1865), trước tên là Nguyễn Phúc Miên An (阮福綿安), là một hoàng tử của Hoàng đế Minh Mạng.
Tiểu sử
Miên Áo là con trai thứ sáu của vua Minh Mạng, mẹ là Nhất giai Hiền phi Ngô Thị Chính, người huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị, con gái quan Chưởng cơ Ngô Văn Sở. Ông chào đời ngày 4 tháng 1 năm 1817, tức 27 tháng 11 năm Bính Tí theo Âm lịch, khi Minh Mạng còn là hoàng tử dưới triều vua Gia Long.
Năm Minh Mạng thứ 11 (1830), ông được vua Minh Mạng phong làm Phú Bình Quận công. Năm 1836, được cử làm Hữu tôn nhân ở Tôn nhân phủ, sau thăng làm Thân công. Trong mấy kỳ tế Đổng hưởng 1849 và Xuân hưởng 1850, Hợp hưởng 1851, Đông hưởng 1858, Xuân hưởng 1859... vì vua Tự Đức đều không khỏe trong người nên cử Miên Áo thay mặt làm lễ tế thay. Năm 1862, được làm nhiếp hiến (đứng hầu) nhà vua làm lễ tế Nam giao.
Năm 1864, vì con vợ thứ của ông là công tử Hồng Tập vì bất bình với bản Hòa ước Nhâm Tuất với Pháp, nhiều lần tâu xin với nhà vua ra quân giết các giáo sĩ Thiên Chúa và người dân theo đạo. Tự Đức không nghe và đưa tờ sớ cho Phú Bình công, để ông biết việc nóng bậy của con. Sau đó Tập bèn cùng với Phò mã Trương Văn Chất và dân thường Nguyễn Văn Viện mưu giết các đại thần là Phan Thanh Giản và Trần Tiễn Thành rồi chia quân đi càn quét dân lương giáo ở các xã thôn gần liền. Nhưng tới ngày khởi sự (mồng 2 tháng 7 ÂL) thì bọn họ sợ hãi không dám thi hành nữa. Đến khi việc phát giác ra, vua giao xuống phủ Tôn nhân và đình thần hội lại tra xét.
Năm Tự Đức thứ 17 (1864) Vũ Tập (đã đổi qua họ mẹ) bị đề nghị lăng trì xử tử, Phú Bình công thì nói là không biết dạy con nên bị cách bỏ công tước và đánh trượng lưu đày. Vua xem xong giảm án của Vũ Tập xuống thành bêu đầu. Miên Áo chuẩn cách tước công, bị chép phụ ở sau sổ Tôn thất nhưng miễn cho khỏi phải trượng đồ, đợi biết hối lỗi sẽ lại ra ơn cho.
Ngày 1 tháng 2 năm 1865, tức 6 tháng 1 năm Ất Sửu, ông qua đời, thọ 50 tuổi. Vua Tự Đức cho khôi phục tước Quận công để được thờ cúng, nhưng không được ban thụy. Năm 1878, nhân dịp Ngũ tuần đại khánh (sinh nhật 50) của Tự Đức, nhà vua ban dụ miễn tội cho ông và phục tước Thân công. Về sau ông được truy phong Phú Bình Quận vương, ban thuỵ là Trang Cung (莊恭) cho dựng đền thờ ở xã Dương Xuân, huyện Hương Trà, sau dời về phường Cát Phủ, tỉnh Thừa Thiên. Mộ ông nằm ở làng Nguyệt Biểu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Gia quyến
Anh chị em
Ngoài Miên Áo, bà Hiền phi Chính còn hạ sinh thêm 4 hoàng tử và 4 hoàng nữ khác, là:
- Anh trai: Nguyễn Phúc Miên Chính (1807), hoàng tử thứ 2, chết non
- Anh trai: Vĩnh Tường Quận vương Miên Hoành, hoàng tử thứ 5
- Em trai: Hòa Quốc công Miên Quân (1828 - 1863), hoàng tử thứ 40
- Em trai: Quảng Hóa Quận công Miên Uyển (1833 - 1893), hoàng tử thứ 60
- Chị gái: Nguyễn Phúc Ngọc Tông (1812 - 1824), trưởng công chúa, chết trẻ, thụy An Tĩnh (安静)
- Chị gái: An Phú Công chúa Khuê Gia (1813 - 1865), công chúa thứ 2
- Chị gái: Lộc Thành Công chúa Uyển Diễm (1815 - 1836), công chúa thứ 3
- Em gái: Nguyễn Phúc Thụy Thục (1829 - 1835), công chúa thứ 32, chết trẻ
Con cái
Phú Bình Quận vương có 10 con trai và bảy con gái. Con trưởng là Hồng Quế lúc đầu được phong là Hoài An Đình hầu, sau tập phong là Kỳ ngoại hầu. Về sau người em là Hồng Trạch đi tố cáo mẹ của Quế là bất hợp pháp, vì vậy mà Hồng Quế bị đoạt tước. Con thứ 7 là Hồng Vinh, năm 1883 được tập phong làm Phú Bình hầu.
Trong văn hoá đại chúng
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo** (富平郡王 阮福綿; 4 tháng 1 năm 1817 - 1 tháng 2 năm 1865), trước tên là **Nguyễn Phúc Miên An** (阮福綿安), là một hoàng tử của Hoàng
**Nguyễn Phúc Miên Dần** (chữ Hán: 阮福綿寅, 18 tháng 4 năm 1829 – 9 tháng 3 năm 1885), tước phong **Trấn Tĩnh Quận công** (鎮靖郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Hoành** (chữ Hán: 阮福绵宏; 12 tháng 7 năm 1811 – 23 tháng 11 năm 1835), trước có tên là **Nguyễn Phúc Thự** (阮福曙). Ông là người con thứ hai của bà Hiền
**Nguyễn Phúc Miên Tằng** (còn có âm đọc là **Tăng**) (chữ Hán: 阮福綿𡪠; 27 tháng 10 năm 1828 – 16 tháng 4 năm 1896), tước phong **Hải Quốc công** (海國公), là một hoàng tử con
**Nguyễn Phúc Miên Thần** (chữ Hán: 阮福綿宸; 16 tháng 2 năm 1817 – 7 tháng 10 năm 1878), tước phong **Nghi Hòa Quận công** (宜禾郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1835)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Nguyễn Phúc Miên Phú** (chữ Hán: 阮福綿富; 28 tháng 2 năm 1817 – 15 tháng 4 năm 1885), tước phong **Phù Mỹ Quận công** (符美郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Trữ** (chữ Hán: 阮福綿宁; 11 tháng 7 năm 1820 – 20 tháng 8 năm 1890), tước phong **Tuân Quốc công** (遵國公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Tuấn** (chữ Hán: 阮福綿寯; 12 tháng 6 năm 1827 – 22 tháng 6 năm 1907), tự là **Dương Hiền** (陽賢), **Ngạn Thúc** (彦叔), **Ngạn Chi** (彦之), **Trọng Diên** (仲延), **Nhã Trang** (雅莊),
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Phúc Lương Đức** (chữ Hán: 阮福良德; 26 tháng 7 năm 1817 – 13 tháng 5 năm 1891), trước có tên là **Tam Xuân** (三春), phong hiệu **An Thường Công chúa** (安常公主), là một công
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
:_Bài này viết về công chúa con vua Gia Long, về công nữ có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến** (chữ Hán: 阮福玉玔; 20 tháng 10 năm 1792 – 1851),
**Nguyễn Phúc Đài** (chữ Hán: 阮福旲; 5 tháng 10 năm 1795 – 14 tháng 11 năm 1849), tước phong **Kiến An vương** (建安王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Phúc Ngọc Anh** (chữ Hán: 阮福玉瑛; 1790 – 1850), phong hiệu **Bảo Lộc Công chúa** (保祿公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Hồng Kháng** (chữ Hán: 阮福洪伉; 5 tháng 5 năm 1837 – 19 tháng 2 năm 1865), tước phong **Phong Lộc Quận công** (豐祿郡公), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
thumb|Một cô gái ở [[thành phố Hồ Chí Minh mặc áo dài trắng và cầm hoa phượng đỏ. Ảnh chụp vào tháng 5 năm 2021.]] **Áo dài** là trang phục truyền thống của Việt Nam
**Áo bà ba** là một loại trang phục phổ biến ở các miền quê miền Nam Việt Nam. Chiếc áo này do Trương Vĩnh Ký cải tiến từ áo của dân Bà-ba đảo Pê-năng, Malaysia.
**Lưu Vĩnh Phúc** (tiếng Trung: 劉永福/刘永福) (1837—1917), tự **Uyên Đình** (淵亭/渊亭), người Khâm Châu, Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây), quê ở Bác Bạch, Ngọc Lâm, Quảng Tây, là một vị tướng vào cuối thời
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" ## Phân loại Phục bích có nhiều dạng, đại để như sau: #Trường
**Thừa Thiên Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 承天高皇后, 19 tháng 1 năm 1762 - 22 tháng 2 năm 1814), tên thật là **Tống Thị Lan** (宋氏蘭), là người vợ nguyên phối và Chánh cung Hoàng
**Nguyễn Giản Tông** (chữ Hán:阮簡宗; 12 tháng 2 năm 1869 – 31 tháng 7 năm 1884), tên thật là **Nguyễn Phúc Ưng Đăng** (阮福膺登), là vị hoàng đế thứ bảy của triều đại nhà Nguyễn
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Trang phục truyền thống Việt Nam** bao gồm các loại y phục của người Việt và y phục cung đình. Một số quan điểm khác tổng quát các dân tộc đã sống trên lãnh thổ
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
Nói đến trang phục mùa hè, không thể không nhắc đến một món đồ quen thuộc và cơ bản, chính là chiếc áo sơ mi trắng.. Áo blouse /sơ mi trắng là đáp án hoàn
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Quân đội nhà Nguyễn** (chữ Hán: 軍次 / **Quân thứ**) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức. Sau
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Ngữ tộc Miền** hay **ngữ tộc Dao** (thường được gọi **tiếng Miền, tiếng Mùn** hay **tiếng Dao**) là nhóm các ngôn ngữ của người Dao ở Trung Quốc, Việt Nam, Lào, bắc Thái Lan, và
**Áo tấc** hay còn gọi là **áo ngũ thân tay thụng**, **áo lễ**, **áo thụng** (ở miền Nam còn gọi là **áo rộng**), là một trang phục truyền thống của Việt Nam thời phong kiến,
nhỏ|Số kết quả 'GIS' trên internet. (Số lượng kết quả 'GIS' qua Google được hiển thị cho tất cả các tên miền cấp cao chung (bên trái) và tên miền cấp cao chung châu Âu
**Nguyễn Quang Thùy** (chữ Hán: 阮光垂; ? – 1802), là con vua Quang Trung và là _Tiết chế thủy bộ chư quân miền Bắc_ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
nhỏ|phải|Một cô gái trong trang phục Hồi giáo khi dự một tang lễ ở Iran **Trang phục Hồi giáo** (_Islamic clothing_) là trang phục, quần áo ăn bận phù hợp với giáo lý của đạo
**Nguyễn Thiếp** (chữ Hán: 阮浹, 1723 - 1804) tự Khải Xuyên, là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô,
**Nguyễn Văn Nhơn** () hay **Nguyễn Văn Nhân**, tục gọi là **Quan lớn Sen** (1753-1822), là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) trong lịch sử Việt Nam.
**Lịch sử Áo** là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên _Ostarrîchi_ (Áo) đã được sử dụng
**Đồng Khánh Đế** (chữ Hán: 同慶 19 tháng 2 năm 1864 – 28 tháng 1 năm 1889), tên húy là **Nguyễn Phúc Ưng Thị** (阮福膺豉) và **Nguyễn Phúc Ưng Đường** (阮福膺禟 ), lên ngôi lấy
**Áo**, quốc hiệu là **Cộng hòa Áo**, là một quốc gia không giáp biển nằm tại Trung Âu. Quốc gia này tiếp giáp với Cộng hòa Séc và Đức về phía bắc, Hungary và Slovakia