✨Quân đội nhà Nguyễn
Quân đội nhà Nguyễn (chữ Hán: 軍次 / Quân thứ) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức.
Sau Hòa ước Giáp Thân (1884), quân nhà Nguyễn được nhập vào lực lượng vệ binh thuộc địa với tên gọi lính tập, trực tiếp dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Pháp. Đội quân này tồn tại đến tháng 3 năm 1945, khi quân đội Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương.
Lịch sử và cơ cấu tổ chức
Quân đội Nguyễn trải qua hai thời kỳ tổ chức và xây dựng
Thời kỳ các Chúa Nguyễn (1558 - 1777)
Khi chúa Nguyễn Hoàng (chúa Tiên) mang quân đi trấn thủ Thuận Hóa và kết thúc lúc Nguyễn Phúc Thuần (Định Vương) bị tử trận trước quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy ở Long Xuyên. Ban đầu, quân đội đi theo Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa có khoảng 3.000 người. Từ năm 1600, được xây dựng theo hướng quân đội của một nhà nước phong kiến. Lực lượng vũ trang nhà Nguyễn lúc này gồm có: bộ binh, thủy binh, pháo binh, tượng binh. Lực lượng bộ binh và thủy binh làm lực lượng bảo đảm cho cơ động với một đội binh thuyền khoảng 200 thuyền chiến và nhiều thuyền vận tải chở quân và lương thực, lực lượng chiến đấu chính là bộ binh. Quân số thường trực có khoảng 40 nghìn người, khi chiến sự xảy ra (trong nội chiến Trịnh - Nguyễn) quân đội Nguyễn lên tới 100 nghìn người.
Hệ thống tổ chức Quân đội Nguyễn gồm có: Dinh, cơ, đội, thuyền.
Trang bị, ngoài vũ khí truyền thống như quân đội các thời trước, quân đội Nguyễn đã được trang bị một số loại vũ khí mới như hỏa pháo, súng hỏa mai, quả nổ ném (tạc đạn)… tự sản xuất dưới sự giúp đỡ của người Bồ Đào Nha.
Quân Nguyễn đã 7 lần giao chiến lớn với quân của chúa Trịnh và phần lớn đã tan rã trước quân khởi nghĩa Tây Sơn trong những năm 1772 - 1777. nhỏ|trái|Phục dựng tượng binh nhà Nguyễn tại Huế nhỏ|phải|Nghi vệ tượng binh theo tranh vẽ của Pháp thế kỷ 19 Cơ binh tổ chức theo hệ thống:
- Doanh đứng đầu là quan đề đốc;
- Liên cơ đứng đầu là quan lãnh binh;
- Cơ (tương đương vệ) đứng đầu là chưởng cơ hay quản cơ;
- Dưới cơ là các tổ chức đội, thập, ngũ.
Đội quân Cơ binh của Quân đội nhà Nguyễn thời kỳ đầu có quân số khoảng 150 nghìn người, đến cuối thời kỳ này (1880) quân số này giảm đi đáng kể, ở miền Bắc còn khoảng 60 nghìn người. Ngoài hai lực lượng chính là Vệ binh và Cơ binh, quân đội Nguyễn còn có lính trạm và lính lệ. Trong giai đoạn này, các lực lượng như thủy binh, tượng binh, pháo thủ binh được xây dựng như nước binh chủng chiến đấu.
Năm 1891, Toàn quyền Đông Dương của Pháp ra nghị định thành lập lực lượng Cơ binh do Pháp trực tiếp tổ chức, trang bị và chỉ huy; lực lượng này ban đầu có khoảng 4.000 quân, làm nhiệm vụ phục vụ quan lại người Việt ở các tỉnh, huyện và canh gác công sở ở địa phương. Và với nghị định này của Toàn quyền Đông Dương đã đặt dấu chấm hết cho Quân đội nhà Nguyễn với tư cách là lực lượng vũ trang của nhà nước phong kiến độc lập.''
Đơn vị nhà binh nhỏ nhất gọi là ngũ gồm 5 người có ngũ trưởng đứng đầu. Hai ngũ là một thập, tức 10 người có cai chỉ huy. Năm thập là một đội, tức 50 lính, có chánh suất đội chỉ huy và phó suất đội phụ tá. Tập hợp 10-12 đội là một vệ hay một cơ, tức khoảng 500-600 lính (người Pháp dịch là "bataillon"). Vệ thì có vệ úy, còn gọi là chưởng vệ hay chánh vệ (còn gọi là lãnh binh) chỉ huy và phó vệ hiệp tá. Cơ thì có quản cơ và phó quản cơ.
Các vị tướng chỉ huy tập trung lo phần chiến thuật và luyện tập trong khi chiến lược và tổng điều hành thì thuộc Bộ Binh, một trong sáu thành phần của Lục bộ trong triều.
Việc tuyển lính
Phép tuyển lính triều Nguyễn có tên là "Giản binh định lệ". Theo đó thì lính vệ được tuyển theo nguyên quán. Các tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận thì ba suất đinh tuyển lấy một lính. Các tỉnh Nam Kỳ, tức từ Bình thuận vào Nam thì năm suất đinh lấy lấy một lính. Các tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra trung châu Bắc Kỳ cùng Quảng Yên thì bảy suất đinh tuyển lấy một lính. Riêng các tỉnh thượng du gồm Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng thì 10 suất đinh mới tuyển lấy một lính.
Thời hạn tại ngũ cũng căn cứ theo loại lính và quê quán của người lính. Đối với binh lính được tuyển từ các tỉnh thuộc Nam Kỳ và từ Hà Tĩnh trở ra Bắc thì phải tòng quân 10 năm. Lính từ các Quảng Bình đến Khánh Hòa phải chịu 15 năm. Tuổi tối đa phục vụ trong quân đội thường trực là 50 (quy định này có từ năm 1868). Binh lính được cấp ruộng ở quê, hưởng lương ăn và một ít tiền. Quan võ cũng được tuyển chọn từ các kì thi võ.
Triều Minh Mạng lại lập thêm đội "Giáo dưỡng binh" để con các võ quan theo học cùng được lãnh lương hầu đào tạo giới trẻ
Khi còn giao chiến với lực lượng Tây Sơn quân đội nhà Nguyễn có thu nạp một số sĩ quan và binh lính ngoại quốc trong số đó có người ở lại nhận quan tước vào triều Gia Long như Jean-Baptiste Chaigneau và Philippe Vannier, giúp huấn luyện quân sĩ theo phương thức Âu châu. Sang triều Minh Mệnh thì đa số chọn hồi hương và quân đội nhà Nguyễn mất đi nguồn kiến thức tân tiến về chiến thuật và chiến cụ.
Ngoài ra, nhà Nguyễn còn sử dụng những người mắc tội để sung quân, làm đồn điền tại những miền biên viễn như trấn Gia Định hay trấn Tây Thành (Campuchia). Tại Gia Định, lực lượng này chủ yếu gồm những tội phạm gốc ở Bắc hay Trung Kỳ, gọi là quân Thanh Thuận, An Thuận, Hồi Lương và Bắc Thuận. Thanh Thuận và An Thuận là những người tham gia cuộc nổi loạn tại Thanh Hóa, Nghệ An trong thập kỷ 1810. Hồi Lương là những tội phạm cũ, nay được tha và đưa vào quân đội để chuộc tội. Bắc Thuận là những người trốn tránh lao dịch, bỏ làng xã, không có tên trong sổ bạ ở Bắc Thành được tuyển mộ vào quân ngũ, tức là khác với những binh lính quân dịch thông thường. Các đơn vị Hồi Lương và Bắc Thuận là những toán quân tích cực tham gia vào cuộc cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi sau này.thumb|[[Luân xa pháo trên Nhân Đỉnh, Huế, 1836]]
Quân số
Đầu thời Gia Long, quân số và trang bị như sau: 113.000 lính bộ binh, trong đó gồm: 30.000 lính trong 12 chi đoàn được trang bị vũ khí kiểu phương Tây (khoảng 3 lính có 1 súng), 15.000 pháo thủ với 400 đại bác, 42.000 lính mang gươm giáo thông thường hoặc súng cổ, 12.000 lính vệ binh được huấn luyện kiểu châu Âu, 8.000 tượng binh với 200 voi chiến, 6000 bộ binh cưỡi trâu. Xưởng đúc súng ở Phường Đúc Huế có 8.000 thợ làm việc. *26.800 lính thủy, bao gồm cả 8000 thợ trong xưởng đóng tàu. Trang bị có 3 chiến thuyền lớn kiểu phương Tây, 100 chiến thuyền lớn có máy bắn đá và đại bác, 200 chiến thuyền nhó trang bị từ 16 đến 20 đại bác, 500 thuyền nhỏ hơn có máy bắn đá và 1 đại bác.
Đến thời Minh Mạng quân số bộ binh giảm đi, nhưng tỷ lệ bộ binh mang súng tăng lên, số voi chiến cũng tăng lên 500 con. Kinh thành có 150, ở Bắc thành có 110, ở Gia Định có 75, ở Quảng Nam có 35, ở Bình Định có 30, ở Nghệ An có 21, ở Quảng Bình, Quảng Ngãi, Thanh Hóa, mỗi tỉnh có 15 con; ở Quảng Trị, Phú Yên, Bình Thuận và Ninh Thuận mỗi tỉnh có 10 voi chiến.
Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), theo lời Minh Mạng phê vào tấu sớ của tống trấn Quảng Nam, quân đội nhà Nguyễn có khoảng 10 vạn bộ binh, trong kho quân khí có khoảng 3 vạn súng cầm tay (cứ 10 lính có 3 súng), số còn lại dùng vũ khí truyền thống như gươm giáo, cung tên.
Nếu lấy trung bình là tám suất đinh lấy một lính, căn cứ trên số tráng đinh năm 1847 (thời Thiệu Trị) là 1.024.388 thì có khoảng 128.000 lính trên toàn quốc. Áp dụng phép "Biền binh định lệ" tức luân phiên cho lính về quê làm ruộng thì số quân hiện dịch là khoảng 40.000–50.000.
Theo đánh giá của tướng Pháp de Courcy khi Pháp xâm lược Việt Nam năm 1885, quân đội chính quy của nhà Nguyễn là khoảng 70.000 người, trong số đó 12.000 tuyển mộ từ các vùng quanh kinh thành Huế. Ngoài ra, theo de Courcy, cũng phải kể đến "vô số" các toán dân quân thành lập và đóng tại các tỉnh thành lớn, cũng như khắp các thôn làng. Các đội dân quân này tuy đông nhưng trang phục rách rưới, vũ trang sơ sài, và thiếu tổ chức. (do gang đúc không đảm bảo chất lượng)
Sang triều Tự Đức thì trang bị sa sút hẳn; mỗi đội (50 lính) có 5 khẩu điểu thương nên tỉ lệ rút thành 1 tay súng cho mỗi 10 lính. Hằng năm, tập bắn chỉ một lần và mỗi tay súng chỉ có quyền bắn 6 viên đạn, ai bắn hơn số ấy phải bồi thường. nhỏ|Đại bác thời Gia Long (cỡ nòng 220 mm) dùng để hành lễ. Trong thời kì Pháp thuộc (1884 – 1945), sức chiến đấu của quân đội nhà Nguyễn càng yếu kém do trang bị lạc hậu so với quân đội các nước đương thời, huấn luyện kém và triều đình ít quan tâm. Quân đội nhà Nguyễn trong giai đoạn này đã bị quân Pháp đánh bại và để đất nước rơi vào sự đô hộ của thực dân Pháp
Kiến trúc Vauban vốn du nhập Việt Nam từ thế kỷ trước do Olivier de Puymanel (sử Việt thường gọi là Nguyễn Văn Tín) đem đến nhưng đến thời Nguyễn thì được áp dụng rộng rãi. Ở những thị trấn nhỏ hơn nhưng có giá trị chiến lược triều đình cũng cho xúc tiến xây cất thành lũy phòng ngự trong số đó có Thanh Hóa (1804), Bắc Ninh (1805), Sơn Tây (1822), Nghệ An (1831), Hải Dương, Hưng Yên (1832), Nam Định (1833) (1847). Xét về mặt chiến lược thì cách xây cất có tính cách khoa học nhưng vị trí và phương hướng còn bị chi phối bởi thuật phong thủy.
Những thành lũy này phản ảnh chiến thuật coi trọng thế "thủ" hơn thế "công" của triều đình nhà Nguyễn.
Suy thoái và thất bại
Năm 1822, Đại sứ Anh John Crawfurd sang thăm Việt Nam đã có ghi chép về quân đội nhà Nguyễn thời Minh Mạng. Họ được trang bị súng hỏa mai, lưỡi lê hoặc giáo. Súng được bảo quản tốt, quân lính có kỷ luật và diễn tập theo chiến thuật châu Âu. Người lính Nguyễn nhìn chung dễ bảo và biết nghe lệnh; tuy thấp bé nhưng mạnh mẽ, linh hoạt và bền bỉ. Tuy nhiên, Crawfurd cho rằng lính nhà Nguyễn không có đủ can đảm. Sự cưỡng bức phục vụ quân đội gây ra nhiều hệ lụy, tinh thần và kỹ năng của quân lính kém cỏi. Ông đánh giá rằng quân Nguyễn chỉ đe dọa được các nước nhỏ kế bên, họ không có cơ hội nào để chống lại một quân đội châu Âu đầu thế kỷ 19. Thậm chí, Crawfurd tin rằng, ở châu Á, Việt Nam là quốc gia dễ dàng bị chinh phục bởi châu Âu nhất. Hai vùng Bắc Thành và Gia Định Thành nằm cách xa, hay có nổi loạn. Các đồn binh và kho vũ khí, kể cả kinh đô, đều nằm sát bờ biển, rất dễ bị tập kích. Miền Trung phụ thuộc vào các nguồn cung và lương thực từ miền Bắc và miền Nam theo đường biển vốn dễ bị cắt đứt, nhất là Gia Định Thành. Crawfurd cho rằng, đối với thời Minh Mạng, chỉ cần một lực lượng quân châu Âu với 5.000 người, và một đội tàu chiến cỡ nhỏ cũng dư sức chinh phục và thiết lập sự cai trị vĩnh viễn nước này. Crawfurd đã dự đoán viễn cảnh mà nước Việt Nam bị cai trị bởi châu Âu, nhất là người Pháp (điều này 60 năm sau đã trở thành sự thật)
Sau thời Minh Mạng, quân đội nhà Nguyễn càng ngày càng lạc hậu do các vị vua sau này không quan tâm mấy đến việc võ bị. Dưới thời Tự Đức, công tác quốc phòng của nhà Nguyễn có sự tương phản rõ rệt với các triều trước. Một trong các lý do khiến tình hình quân đội suy sút là vấn đề tài chính. Thời kỳ Gia Long hay Minh Mạng, lấy quân đội phương Tây làm kiểu mẫu, cần tinh nhuệ chứ không cần nhiều, nên bỏ bớt số lượng người cầm cờ từ 40 người xuống 2 người trong đội ngũ đơn vị 1 vệ. Thời Minh Mạng, các cuộc chiến với Xiêm và các cuộc nổi dậy trong nước đã khiến ngân khố cạn kiệt, nên sang thời Tự Đức, vũ khí và trang thiết bị mới gần như không có. Về thủy binh, không tàu hơi nước nào được đóng mới, thủy quân thậm chí không đủ khả năng bảo vệ bờ biển chống hải tặc. Việc giảng dạy binh pháp không chú trọng tới sách vở phương Tây nữa mà quay trở lại với Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Đời sống quân lính không được quan tâm thoả đáng, lương thực lại bị ăn bớt. Do đó tinh thần chiến đấu của quân sĩ không cao.
Nhà sử học Trần Trọng Kim đã nhận xét về việc võ bị thời Tự Đức:
Do quan điểm khoa học quân sự của vua quan nhà Nguyễn không hề vượt quá khuôn khổ của khoa học quân sự phong kiến. Việc không bắt kịp với thành tựu mới của khoa học phương Tây thời Tự Đức khiến quân sự Việt Nam bị lạc hậu nhiều so với phương Tây. Do đó, khi bị người Pháp đánh năm 1858, khoảng cách về trang thiết bị giữa quân đội nhà Nguyễn và quân Pháp đã khá xa.
Đến thập niên 1860, quân đội nhà Nguyễn đã rất suy thoái. Năm 1873, quân Pháp kéo ra Bắc Bộ, chỉ với vài trăm lính đã đánh tan tác quân Nguyễn, chiếm được nhiều vùng. Tiêu biểu như trận thành Ninh Bình, chỉ 8 lính Pháp cũng đã chiếm được tòa thành do 1700 lính Nguyễn phòng thủ mà không chịu thuơng vong nào (vì quân Nguyễn đã bỏ chạy hết sau khi nghe tiếng đạn pháo, không ai dám bắn trả).
Không chống nổi quân Pháp, ngay cả các nhóm thổ phỉ như quân Cờ đen mà quân chính quy nhà Nguyễn cũng không thể đánh dẹp được, để nhóm này cướp phá khắp nhiều tỉnh Bắc bộ. Cuối cùng nhà Nguyễn phải quay sang trả tiền để thuê nhóm này giúp chống Pháp. Một võ tướng bấy giờ là Ông Ích Khiêm không đồng tình khi triều đình Huế thuê quân Cờ Đen chống chọi với Pháp. Ông cũng chê trách các võ quan Việt bất tài, khi có biến thì phải nhờ vào người Tàu để đánh giặc. Ông có làm bài thơ chê trách sự xa xỉ, hèn nhát của các quan trong triều: :Áo chúa cơm vua hưởng bấy lâu :Đến khi có giặc phải thuê Tàu :Từng phen võng giá mau chân nhẩy :Đến bước chông gai thấy mặt đâu :Tiền bạc quyên hoài dân xác mướp :Trâu dê ngày hiến đứa răng bầu :Ai ôi hãy chống trời Nam lại :Kẻo nửa dân ta phải cạo đầu
Hình ảnh
File:Nguyen troops.jpg|Các loại quân thời Nguyễn. Tranh viện Viễn Đông Bác Cổ. Bảo tàng Hà Nội.