✨Quân đội Đế quốc Mông Cổ
nhỏ|phải|Giáp trụ của chiến binh Mông Cổ thumb|Cung thủ kỵ binh Mông Cổ. Ảnh trong tác phẩm [[Jami' al-tawarikh của Rashid-al-Din Hamadani.]] Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông Cổ là cơ sở cho người Mông Cổ chinh phục các quốc gia từ châu Á sang châu Âu, từ đó tạo lập nên đế quốc rộng lớn của họ.
Hệ thống này của người Mông Cổ ban đầu hình thành từ cách tổ chức đời sống du mục, về sau được Thành Cát Tư Hãn phát triển, rồi được mở rộng bởi tướng lĩnh và con cháu của ông. Quân Mông Cổ đã sử dụng các công nghệ và phương pháp khác nhau một cách linh hoạt và phù hợp với mỗi vùng đất mà họ chinh phạt. Các quân sư và chuyên gia vũ khí từ những đất nước khác đã được thu nhận và trọng dụng. Trong nhiều trường hợp, quân Mông Cổ đánh bại quân thù đông đảo hơn.
Cấu trúc chỉ huy của quân đội Mông Cổ rất linh hoạt, giúp họ có thể tổ chức tấn công hàng loạt, họ thường chia thành các nhóm nhỏ để bao vây kẻ thù và dẫn quân địch vào một khu vực phục kích, hoặc chia thành các nhóm nhỏ khoảng 10 người để truy quét tàn quân kẻ thù chạy trốn. Mặc dù họ chiến đấu theo đơn vị, từng người lính chịu trách nhiệm về trang bị, vũ khí của riêng họ và có tối đa năm con ngựa cưỡi. Gia đình và đàn gia súc đi cùng họ trong các cuộc viễn chinh.
Nguồn gốc
Khiết Đan
Người Khiết Đan có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến sự phát triển của quân đội đế quốc Mông Cổ. Vào thời kỳ nổi lên của nước Liêu, họ có một đạo quân dày dặn kinh nghiệm, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người Thổ Nhĩ Kỳ cổ, người Duy Ngô Nhĩ, người Yenisei Kyrgyz và người Hán. Quân đội Khiết Đan bao gồm một đội quân bảo vệ (ordo) là một đơn vị chiến đấu chuyên nghiệp với quân số 100.000 người kết hợp cùng với quân lính của tất cả các bộ lạc Khiết Đan. Về sau, tù binh từ các dân tộc bị họ chinh phục cũng được trưng dụng. Quân Khiết Đan được tổ chức theo hệ thống thập phân: đơn vị nhỏ nhất là một đội gồm 5 người, lớn hơn là các đội 10, 100 và 1.000 binh sĩ.
Người Khiết Đan thương sử dụng các binh sĩ chuyên việc phao tin đồn gây hoảng loạn trong doanh trại của kẻ thù. Trong các trận đánh, quân Khiết Đan sử dụng tất cả các kỹ thuật chiến đấu đặc trưng của người du mục: tấn công bất ngờ, giả vờ rút lui, phục kích. Cuộc chiến mà họ tiến hành thường được mở màn bởi các cung thủ, họ bắn tên bao phủ đội hình quân địch. Tiếp theo là các đội quân giáo và kiếm xông lên. Sau đó, quân Khiết Đan truy kích tàn quân kẻ thù bại trận để tiêu diệt tận gốc. Người Khiết Đan đã khéo léo tiến hành các hoạt động bao vây và vây hãm, trong đó các tù nhân được sử dụng thường xuyên cho các hoạt động này. Trong các cuộc bao vây, người Khiết Đan cho đào và xây dựng các công sự xung quanh pháo đài mà họ muốn hạ.
Truyền thống quân sự Khiết Đan chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Trung Quốc, và đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển quân đội của nhà nước Hắc Khiết Đan (Tây Liêu) và liên minh bộ lạc Nãi Man (乃蛮). Tuy nhiên, cho đến nay, rất ít sử liệu đề cập quân đội của vương quốc Tây Liêu. Tại Hãn quốc, tất cả đàn ông từ 18 tuổi đều có nghĩa vụ đi lính. Quân đội Hắc Khiết Đan bao gồm một đội quân bộ binh đông đảo, trang bị vũ khí giống như nhà nước Đại Liêu trước đó của họ. Năm 1211, ở Hắc Khiết Đan, Khuất Xuất Luật nắm lấy quyền lực.
Nữ Chân
Dân tộc Nữ Chân cũng có quân đội phát triển không kém gì Khiết Đan. Quân Nữ Chân được tổ chức theo cách tương tự như Khiết Đan: quân đội được chia thành các đơn vị 5, 10, 100 và 1.000. Lực lượng cốt lõi của quân đội có vai trò bảo vệ hoàng gia. Kỷ luật sắt có vai trò quan trọng trong quân đội. Lực lượng chính của quân đội là kỵ binh, được chia thành kỵ binh nặng và kỵ binh nhẹ. Các lực lượng khác bao gồm bộ binh, pháo binh ném đá và bắn súng, được xây dựng theo mô hình quân đội của Trung Quốc.
Chiến thuật của quân Nữ Chân bao gồm đánh tạt sườn, đánh tập hậu và tấn công đồng loạt. Một đội tiêu chuẩn sẽ bao gồm 20 kỵ binh bọc áo giáp và trang bị giáo sẽ tấn công xung phong. Đây là những chiến binh dũng cảm nhất, kiên định và mạnh mẽ nhất. Theo sau đội hình này là 50 cung thủ mặc áo giáp da được trang bị cung tên. нөхөр là lực lượng nòng cốt trong các lực lượng vũ trang bộ tộc của Mông Cổ. Một trường huấn luyện quân sự cũng đã được thành lập để đào tạo tướng lĩnh.
Quân đội Mông Cổ được tổ chức theo hệ thống thập phân. Quân đội được chia thành hàng chục (thập hộ; 十户), hàng trăm (bách hộ sở; 百户所), hàng ngàn (thiên hộ chế; 千户制) và hàng chục ngàn (Vạn hộ chế; 万户制), đứng đầu là lĩnh ban (領班), bách phu trưởng, thiên phu trưởng và vạn phu trưởng. Hàng ngàn người không chỉ là một đơn vị quân đội, mà còn là một đơn vị hành chính - lãnh thổ. Các đơn vị vạn hộ chế thống nhất có đạo quân kỵ binh đông đảo với số lượng lên tới 100.000 người. Quân đội Mông Cổ được chia thành 3 phần: trung tâm, cánh phải và cánh trái. Trong quân đội thời Thành Cát Tư Hãn, một đơn vị gồm hàng chục và hàng trăm lính theo quy chuẩn xuất phát từ một gia tộc hoặc một nhóm gia tộc. Các đơn vị hợp thành lớn hơn, chẳng hạn như đơn vị thiên hộ chế, được hình thành bởi một nhóm các bộ tộc và bộ lạc thống nhất. Đây là một phần trong chính sách định hướng mục tiêu của Thành Cát Tư Hãn, với mục tiêu là vượt qua tình trạng mất đoàn kết và tập trung hóa quyền lực nhà nước.
Nhà nước Mông Cổ tập trung nhiều vào chiến tranh: phụ nữ có nghĩa vụ phải phục vụ. Pháp luật Mông Cổ ghi rằng:...những người phụ nữ hành quân cùng với quân đội nên làm các công việc và các nhiệm vụ của đàn ông trong và sau khi họ đi chinh chiến. Những người không thể phục vụ trong quân đội thì phải có nghĩa vụ lao động.
Bảo vệ
*Bài chi tiết: Khiếp bệ thumb|Các chiến binh Mông Cổ được trang bị mạnh với hệ thống vũ khí công thành. Một bản biên niên sử thu nhỏ của Rashid ad-Din.
Theo lệnh của Thành Cát Tư Hãn:
"Một đội quân của khiếp bệ nên bổ sung những người con trai có năng lực và sức mạnh vượt trội của vạn phu trưởng, thiên phu trưởng, bách phu trưởng, cũng như con trai của những người thuộc tầng lớp tự do. Các con của họ phải đi quân dịch với mười cặp anh em trai. Các "na nhan" chuyên cấp ngựa phải gửi đến năm cặp anh em trai. Các con của lĩnh ban na nhan, cũng như con của những người tự do, phải đi quân dịch với ba cặp anh em trai, đồng thời tất cả đều có nghĩa vụ phải trình diện ngựa riêng, để hành quân qua các vùng đất." Những người không thể phục vụ trong quân đội có nghĩa vụ lao động khác. Kỵ binh Mông Cổ được xem là yếu và ít hiệu quả so với lính cung thủ.
Dựa trên cách huy động này, vệ binh đông đến 10 nghìn lính. Vị trí đặc quyền mà đội vệ binh có là bất kỳ khiếp bệ nào sẽ đều có cấp bậc cao hơn một binh sĩ hoặc chỉ huy cùng cấp. Mặc dù có tư cách đặc quyền, lính canh khiếp bệ được giao thêm các nhiệm vụ: ở lại với hãn trong lúc không có chiến sự. Đội vệ binh từng tồn tại trong quân đội của nhiều dân tộc du mục, nhưng chính người Mông Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn đã thành công trong việc hợp nhất vệ binh với quân đội thành một.
Lệnh
Thành Cát Tư Hãn đã tạo ra một thể chế đặc biệt cho quân đội của ông, với trách nhiệm chính là lên kế hoạch bố trí quân đội, trinh sát quân địch, vạch ra các tuyến đường cho những người du mục, vị trí của các trại. Các tướng tham mưu được gọi là yurtsi (Mông Cổ bao thị) báo cáo trực tiếp việc binh sự lên hãn. Vị trí của yurtchi trưởng có thể sánh ngang với vị trí của thủ lĩnh đứng đầu bộ tộc.
Thư từ và báo tin, mua hàng hóa
Thành Cát Tư Hãn đã tổ chức một hệ thống gửi thư và báo tin hợp lý. Vô số "trạm bưu chính" xuất hiện trên lãnh thổ của đế chế. Tất cả các con đường dài được chia thành nhiều phần trong đó có một quan chức coi quản để duy trì trật tự, người qua lại và hàng hóa. Tại các trạm này, họ ưu tiên cho kỵ binh đưa thư của hãn. Nhờ những đổi mới này, các mệnh lệnh của hãn đã nhanh chóng đến được quân đội ở các nơi. Điều này được đề cập trong Yase (luật) của Thành Cát Tư Hãn: Ông ra lệnh thiết lập các vị trí thường trực cho đại hãn, để sớm biết về tất cả các sự kiện diễn ra trong đế quốc.). Một hệ thống tương tự như vậy cũng đã từng tồn tại trong quân đội Nữ Chân. Bộ luật được thành lập bởi Thành Cát Tư Hãn (gọi là Yasa), yêu cầu những người lính hỗ trợ lẫn nhau. Vì vậy, nếu trong một cuộc hành quân, một người lính Mông Cổ đánh rơi thứ gì đó xuống đất, người lính di chuyển phía sau anh ta có nghĩa vụ phải nhặt thứ rơi xuống đó lên và trao lại cho người chủ của nó, nếu không thì người sau sẽ phải đối mặt với hình phạt tàn khốc. Mỗi chiến binh Mông Cổ có nghĩa vụ phải chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc hành quân: hình phạt có thể được áp dụng bởi sự thiếu chuẩn bị vũ khí và những thứ cần thiết trên đường hành quân. Hình phạt tử hình cũng được áp dụng, chẳng hạn như cướp bóc chưa đúng thời cơ vào trại địch hoặc ngủ tại doanh trại. Phạm tội nhỏ thường bị trừng phạt bằng tiền phạt cũng như hình phạt về thể xác. Từ thời thơ ấu các chiến binh Mông Cổ đã sở hữu nhiều loại vũ khí và bắn cung thành thạo.
Trong thời gian huấn luyện, chiến binh Mông Cổ triển khai diễn tập chiến đấu giống như một cuộc săn bắn. Khi mùa săn bắn đến, người Mông Cổ mài giũa kỹ năng điều động và bao vây. Họ triển khai đội hình vòng tròn đột kích xung quanh một vùng đất rộng lớn để săn bắn, và dần dần trong vòng một đến ba tháng lùa chúng về vùng đất có hãn đóng trại. Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc săn bắn, khi đội hình bao vây vòng tròn khép lại, mỗi người buộc dây quanh chu vi vùng đất bằng dây thừng. Việc bắn những con thú bị lùa và nhốt sẽ bắt đầu từ hãn, theo sau là các hoàng tử và theo sau đó là binh lính.
Quy mô quân đội
Qua nhiều thời kỳ, giới sử học đã đưa ra những con số khác nhau về số lượng quân đội Mông Cổ. Số lượng tối đa được đưa ra là 600.000 bởi Giovanni da Pian del Carpine. Nikolai Mikhailovich Karamzin ước tính tổng số quân Mông Cổ xâm chiếm nước Nga là 500.000 người. Nhưng sau đó ông đã giảm ước tính của ông xuống còn 300.000 người. Quân số Mông Cổ đã bị phóng đại rất nhiều, về sau các nhà sử học đưa ra những con số ước tính khác nhau về quân số của Thành Cát Tư Hãn và Bạt Đô. Việc xác định số quân là vô cùng khó khăn do số quân của Mông Cổ nằm dao động qua các thời kỳ khác nhau, các nhà nghiên cứu người Ba Tư, người Trung Quốc và người Nga có xu hướng đánh giá quá cao số lượng của quân Mông Cổ. E. Hara-Davan dựa trên dữ liệu từ các nhà nghiên cứu tại Anh đã tuyên bố số lượng quân Mông Cổ tối đa trong toàn bộ thời kỳ trị vì của Thành Cát Tư Hãn là 230.000. Dưới đây là dữ liệu về các đơn vị quân đội khác nhau của quân đội Mông Cổ trong chiến dịch đánh Khorezm.
Rashid-al-Din Hamadani trong biên niên sử do ông soạn ghi rằng vào thời điểm Thành Cát Tư Hãn qua đời, số lượng quân đội Mông Cổ là 129.000. Hara-Davan và G.V. Vernadsky chấp nhận con số này. Lớp Vecni này bảo vệ vũ khí khỏi bị ẩm ướt và giữ khô ráo. Cung thủ sử dụng 2 loại cung tên: cung tên của Trung Quốc và cung tên của Trung Đông. Mỗi chiến binh sở hữu một số cung và túi mang nhiều mũi tên thuộc nhiều loại khác nhau, và có thêm một vỏ da lớn để bọc cây cung. Mỗi túi đựng tên thường đựng 30 mũi tên. Ngoài ra, tất cả những người lính đều có dây cột ngựa chuyên dụng (en) mà họ dùng để săn bắn và dùng trong chiến đấu, cũng như mang theo dao hay các loại vũ khí nhẹ khác. Ngoài ra, mỗi chiến binh phải có một cây kim và sợi chỉ, một cái dùi và một sợi dây thừng, một công cụ để mài đầu mũi tên, một chiếc mũ nơ và một túi thức ăn. Khi băng qua sông, các chiến binh Mông Cổ sử dụng túi bằng da, đồ đạc và quần áo được gấp lại vào đó để tránh bị ướt. Vào mùa đông, các chiến binh Mông Cổ đội mũ lông và áo khoác da cừu bên ngoài áo giáp của họ.
Người Mông Cổ chiến đấu trên lưng ngựa với những con ngựa thấp cực kỳ khỏe mạnh trong mọi điều kiện khí hậu. Trong lúc hành quân, ngựa được bảo vệ khỏi cái lạnh bằng lớp len dày đặc. Những con ngựa này có thể được chăm sóc theo nhiều cách. Chúng có thể ăn cỏ trên đường khi đang di chuyển, ăn cả rễ và lá cây. Chúng có thể ăn mọi loại cây cỏ khác nhau. Vào mùa đông, những con ngựa có thể ăn các thức ăn mà chúng tìm thấy bên dưới các lớp tuyết. Thông thường, mỗi người dân du mục sở hữu 3 con ngựa (nhiều hơn so với những dân tộc định cư), nhưng theo mệnh lệnh của Thành Cát Tư Hãn thì cần 5 ngựa cho mỗi chiến binh. Theo George Vernadsky
Yên ngựa khá nặng, nặng tới 4 kg và được bôi mỡ cừu để tránh bị ướt khi trời mưa. Những chiếc yên ngựa có độ cong cao. Các bàn đạp được kỵ binh Mông Cổ sử dụng thì tương đối ngắn.
Kỵ binh nặng
Kỵ binh nặng được vũ trang mạnh bao gồm các loại gươm hay kiếm, một cây giáo dài có móc để tròng và kéo lính địch ra khỏi yên ngựa, một chiếc rìu lớn, một trát giáp hoặc áo giáp gỗ, một chiếc mũ sắt, một chiếc khiên tròn nhỏ. Các loại vũ khí bằng gỗ dài khác nhau cũng được sử dụng, đặc biệt là một loại đao cán dài. Ngoài kim loại, da dày được chế tác nhiều kiểu và được sử dụng kết hợp với các loại vật liệu cứng khác. Hầu hết các kiểu là áo giáp hoặc các vật che chắn để bảo vệ cơ thể. Như áo giáp gương, giáp cẳng tay, giáp cẳng chân. Mũ bảo vệ, mặt nạ, loại mặt nạ che nửa mặt, tấm lưới kim loại để bảo vệ và máng che mắt. Áo giáp thường được phủ men vecni và sơn trang trí. Giovanni da Pian del Carpine đã mô tả công nghệ sản xuất áo giáp bằng kim loại của người Mông Cổ như sau:
_...Họ làm một dải (kim loại) mỏng dài bằng chiều rộng của ngón tay và chiều dài của lòng bàn tay, họ chuẩn bị nhiều dải; mỗi dải được khoét tám lỗ nhỏ và chèn ba dây đai chặt với nhau ở bên trong, đặt các dải này lên nhau, chồng lên các gờ, và buộc các dải trên bằng dây đai mỏng xuyên qua các lỗ đã khoét; ở phần trên, họ khâu một dây đeo, gấp đôi ở hai bên và may nối với dây đeo kia, sao cho các dải khớp với nhau thật đều và chắc chắn, sau khi hoàn thành tạo các dây đeo từ các dải, buộc mọi thứ lại với nhau thành từng mảnh. Họ làm cả hai loại, loại để trang bị ngựa và loại để trang bị cho người. Và họ làm cho nó bóng loáng để mọi người có thể nhìn thấy khuôn mặt của người lính mang chúng_.
Chùy cũng được sử dụng phổ biến. Về sau, vũ khí quả tạ và áo giáp vòng tròn xuất hiện trong kho vũ khí của kỵ binh nặng Mông Cổ. Đến thế kỷ thứ 14, Khatanga degel được gia cố từ bên trong bằng các tấm sắt đã trở thành áo giáp phổ biến nhất: gồm loại carapace của người Mông Cổ và loại của người Nga gọi là kuyak. Ngoài ra, các kiểu áo giáp kết hợp cũng xuất hiện, kết hợp các loại áo giáp khác nhau. Quân đội cũng có thói quen mặc nhiều áo giáp cùng một lúc.
Các chiến binh nổi bật và giàu có nhất bảo vệ ngựa của họ bằng áo giáp bằng da hoặc sắt.
thumb|Sự sụp đổ của Baghdad. Minh họa trong Jami 'at-tawarih của Rashid ad-din. Tuyến đầu là các chiến binh Mông Cổ với vũ khí hạng nặng. Bên trái - Vũ khí bao vây của Mông Cổ
Kỹ thuật bao vây
Quá trình nắm bắt và sử dụng các trang bị quân sự của người Mông Cổ diễn ra theo từng giai đoạn. Ở giai đoạn ban đầu, người Mông Cổ đã vay mượn các công nghệ bao vây của người Đảng Hạng, sớm hơn so với người Trung Quốc và người Nữ Chân. Người Mông Cổ mượn các yếu tố của kỹ thuật bao vây Đảng Hạng làm phương tiện chiến đấu (như tháp bao vây là loại phát triển của họ), nhiều loại máy phóng khác nhau (từ máy ném đá đơn giản và máy phóng nhẹ đến máy ném đá cố định). Quân đội Đảng Hạng cũng dùng các thiết bị phụ trợ sử dụng trong các cuộc bao vây (móc sắt, dây thừng, thuổng và rìu). Người Mông Cổ đã vay mượn tất cả những thứ này và áp dụng thành công trong các cuộc bao vây.
Quân Mông Cổ đã làm quen với kỹ thuật bao vây của người Nữ Chân trong quá trình họ tiến hành các chiến dịch xâm lược, mặc dù thực tế là trước đó họ đã tấn công lãnh thổ Nữ Chân. Máy phóng Nữ Chân mà người Mông Cổ vay mượn tốt hơn máy phóng của Đảng Hạng, được chia thành nhiều loại, ngoài ra họ còn dùng máy ném đá đủ các loại. Các trang bị bao vây Nữ Chân tương tự với trang bị của Trung Quốc. Loại trang bị này của quân Nữ Chân cũng được trang bị thiết bị chữa cháy (chống lại mũi tên lửa và chống lại đạn pháo). Bắt chước các đối thủ của mình, quân Mông Cổ đã thành lập các đơn vị kỹ thuật và pháo binh trong quân đội của họ, có nhân sự được đào tạo và hỗ trợ vật chất đầy đủ.
Người Mông Cổ cũng dùng vũ khí công thành lấy được từ lãnh thổ Trung Quốc mà họ đã chinh phục, đặc biệt là các cỗ máy công thành Trung Quốc hoạt động theo nguyên tắc đòn bẩy, cũng như loại nỏ cỡ lớn vận hành ít nhất bởi 100 người lính. Ngoài ra, người Mông Cổ đã sử dụng đạn pháo cầm tay và pháo công thành chứa đầy thuốc súng hoặc các vật liệu dễ cháy khác.
Về sau, các thiết bị bao vây từ thế giới Hồi giáo đã được đưa vào sử dụng trong quân đội Mông Cổ, đặc biệt là trebuchet cỡ lớn (tiếng Ả Rập gọi là Manjanik), bắn đạn đá nặng tới 70 kg. Người Mông Cổ sử dụng máy phóng và máy dùng lò so xoắn với các bộ phận đối trọng mà các kỹ sư Trung Quốc không biết, người Mông Cổ gọi là "hồi hồi pháo" (回回炮). Theo Giovanni da Pian del Carpine, quân Mông Cổ cũng sử dụng trang bị gọi là lửa Hy Lạp. Trong cuộc bao vây, quân Mông Cổ đã sử dụng bất kỳ vật liệu ngẫu hứng nào để dùng mà không cần mang theo sẵn đạn pháo. Trong việc công thành, người Mông Cổ ưa thích dùng các kiểu nồi chứa đạn pháo, từ đó quân thủ thành không còn có thể chống lại hiệu quả những kẻ bao vây. Vũ khí công thành thường được điều khiển bởi các tù nhân và được chỉ dẫn bởi các kỹ sư Trung Quốc và Hồi giáo. Người Mông Cổ cũng canh tân quân đội, bắt đầu lần đầu tiên khi họ sử dụng đạn cháy. Vì vậy, để đối phó lại quân Mông Cổ, vào năm 1259, quân Nam Tống đã tạo ra và sử dụng hỏa thương, bắn đạn ở khoảng cách lên tới 250 mét.
thumb|
từ bài báo "Lịch sử nghệ thuật quân sự"»
(«Từ điển bách khoa quân sự Sytin»; năm 1913)
Trước trận đánh, một đội tiên phong gồm binh lính vũ trang nhẹ tiến về phía trước. Nhiệm vụ của họ là "tắm" quân thù trong "mưa" mũi tên, làm bị thương ngựa chiến, gây đảo lộn đội hình kết hợp và dẫn đến hỗn loạn. Đội tiên phong được theo sau bởi một cánh quân bên phải và một cánh quân bên trái. Họ cũng có đội tiên phong riêng. Đối với quân Mông Cổ trước trận đánh, thông thường họ tổ chức quân thành 5 hàng. Các hàng cuối cùng bao gồm các chiến binh được trang bị mạnh, thường là kỵ binh giáp nặng triển khai ở hai hàng đầu tiên, và các đội kỵ binh trang bị nhẹ thường xuất kích tiên phong qua các khoảng trống trong hàng của kỵ binh giáp nặng.
Các cuộc bao vây thành phố
phải|thumb|[[Bao vây Baghdad (1258)|Cuộc bao vây Baghdad năm 1258 trên một bức họa Ba Tư]] Một nhược điểm trong chiến thuật quân sự của Mông Cổ là không thể chiếm được thành trì. Vì khả năng và sở thích của họ là giao chiến với quân thù trên một vùng đất rộng mở. Nếu quân đội Mông Cổ tác chiến trong một khu vực được phòng thủ tốt, thì tướng lĩnh quân đội Mông Cổ thích đánh tập hậu địch từ phía sau lưng. Người Mông Cổ bắt đầu thu nhận các kỹ sư Trung Quốc và sau đó là các kỹ sư Hồi giáo chuyên về bao vây, để công phá thành trì. Do đó, người Mông Cổ đã sớm tiếp nhận kho tàng vũ khí công thành của nhiều dân tộc.
Trong hoạt động bao vây, người Mông Cổ sử dụng rộng rãi lao động là tù nhân. Mỗi kỵ binh có nghĩa vụ phải mang theo 10 tù nhân. Họ đặt dưới sự giám sát của các kỹ sư, làm các công việc chế tạo và bảo dưỡng các phương tiện công thành, trực tiếp thực hiện bao vây thành trì kẻ thù, lấp hoặc đào mương. Trong các cuộc tấn công, quân Mông Cổ đã thúc các tù nhân ra tuyến trước, sử dụng họ như lá chắn sống (thông thường người Mông Cổ sử dụng chiến thuật này trong các trận chiến đấu mở). Tù nhân trở thành phương tiện chính trong cuộc chiến bao vây các thành trì từ lâu, vốn đã được sử dụng ở nhiều dân tộc phương Đông - bởi Seljuks, Khiết Đan và Nữ Chân. Khi tiến hành bao vây, quân Mông Cổ phá hoại mọi thứ xung quanh, nếu có một con sông gần pháo đài bị bao vây, họ sẽ chặn nó bằng các con đập để thay đổi dòng chảy làm ngập các công sự của đối phương. Quân Mông Cổ không dừng trận chiến trong một ngày, họ không cho quân bảo vệ thành được nghỉ ngơi. Người Mông Cổ chia quân thành các đơn vị luân phiên, thay thế nhau liên tục tấn công dồn dập. Nhiều nguồn sử liệu cũng ghi chép hoạt động xây dựng các bức tường, hàng rào hoặc thành lũy cao xung quanh pháo đài bị bao vây. Tuy nhiên, người Mông Cổ không ngừng cố gắng lôi kéo quân thủ thành vào trận chiến mở, họ sử dụng các toán lính nhỏ để khiêu khích đối phương.
Quân Nguyên cũng bao gồm quân của các bộ lạc liên quan đến quân Mông Cổ do chỉ huy riêng của họ lãnh đạo. Ngoài người Trung Quốc, Hàn Quốc, Nữ Chân, Khiết Đan và Tây Tạng cũng phục vụ trong quân đội Mông Cổ. Trên thực tế, tù binh Tống phục vụ chủ yếu trong bộ binh và pháo binh và là những đơn vị ít được tin cậy nhất của quân Nguyên. Quân đội Nhà Nguyên cũng bao gồm lính đánh thuê bị bắt, là các binh lính trước đây phục vụ cho quân đội nhà Tống.
Quân Mông Cổ đã bị suy yếu rất nhiều qua các chiến dịch xâm lược, cũng như do nhiều cuộc nổi dậy của dân chúng chống lại quân xâm lược. Người Mông Cổ cũng rơi vào tình trạng cần ngựa chiến nghiêm trọng, vì họ không thể nuôi những đàn lớn ở Trung Quốc vì vậy buộc phải mua ngựa. Hoàn cảnh này làm suy yếu đáng kể sức mạnh quân sự của Mông Cổ tại Trung Quốc. Tuy nhiên, người Mông Cổ vẫn là một thế lực đáng gờm đối với đối thủ của họ. Vệ binh hoàng gia được đóng tại kinh đô. Đến năm 1352, khoảng 100.000 binh sĩ phục vụ trong vệ binh Mông Cổ. Dựa vào kinh nghiệm dày dặn của những người tiền nhiệm, Thiếp Mộc Nhi đã xây dựng một đội quân hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu cho phép ông ta giành được những chiến thắng rực rỡ trên chiến trường trước các đối thủ của mình. Đội quân này là là một đạo quân đa sắc tộc, nòng cốt là các chiến binh du mục người Thổ Nhĩ Kỳ - Mông Cổ. Quân đội Thiếp Mộc Nhi được chia thành kỵ binh và bộ binh, có vai trò tăng lên rất nhiều vào đầu thế kỷ 14-15. Tuy nhiên, chủ lực của quân đội là các đơn vị kỵ binh du mục, "xương sống" bao gồm các đơn vị kỵ binh giáp nặng vô cùng tinh nhuệ, cũng như các đơn vị vệ sĩ Tamerlan. Bộ binh thường đóng vai trò hỗ trợ, nhưng cần thiết trong cuộc bao vây pháo đài. Hầu hết bộ binh được trang bị vũ khí nhẹ, chủ yếu là cung thủ, tuy nhiên, bộ binh của họ cũng có các toán tấn công vũ trang mạnh.
Ngoài lực lượng chính của quân đội (kỵ binh nặng, kỵ binh nhẹ và bộ binh) trong quân đội của Thiếp Mộc Nhi còn có các kiểu lính khác, công nhân, kỹ sư và các chuyên gia vũ khí khác, cũng như có các đơn vị bộ binh đặc biệt, chuyên chiến đấu ở vùng núi (họ được tuyển chọn từ cư dân sống trong các ngôi làng trên núi). Tổ chức của quân đội Thiếp Mộc Nhi tương tự với tổ chức thập phân của Thành Cát Tư Hãn, nhưng có một số thay đổi (ví dụ, có các đơn vị từ 50 đến 300 người được gọi là Hồi koshun, số lượng đơn vị lớn hơn là kulul thì không ổn định lắm, thường biến động về số quân). Về sau, dân quân giống như các chỉ huy của họ, những người xuất thân từ giới quý tộc du mục Thổ - Mông, cũng bắt đầu nhận được chu cấp đất đai. Hệ thống sở hữu này hợp pháp hoá bởi Nghị định của Hãn Gazan vào năm 1303. Kể từ khi việc chu cấp đất đai được ban hành đã dẫn đến việc thu ngân sách giảm và suy yếu bộ máy nhà nước. Quân đội của Hãn, ngoài đội hình Mông Cổ chủ yếu, còn bao gồm quân đội Armenia và Gruzia đồng minh, cũng như dân quân được tuyển mộ từ cư dân địa phương. Hệ thống thập phân truyền thống tương tự với tổ chức thị tộc của các bộ lạc Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ. Hệ thống quân sự của nhà nước Hãn quốc Y Nhi cho thấy sự yếu kém của nó trong các cuộc chiến với Mamluk, và khu vực Tây Nam Á.
Ảnh hưởng đến sự phát triển quân sự khu vực Á-Âu
Truyền thống lâu dài của nền quân sự Mông Cổ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển quân sự của nhiều dân tộc. Do đó, loại vũ khí của Mông Cổ (áo giáp ngựa dùng trong quân đội Galicia–Volhynia, cũng như quân đội Tatar, được mô tả vào năm 1248 tương tự như mô tả của Giovanni da Pian del Carpine) đã được các binh sĩ Nga sử dụng thành công trong các cuộc chiến tranh chống lại quân đội các đối thủ phương Tây. Do hậu quả cuộc xâm lược của người Mông Cổ ở Nga, các đơn vị kỵ binh hạng nặng chuyên tấn công trực tiếp bằng vũ khí cầm tay dần chuyển sang đội hình tấn công xạ tiễn (được hồi sinh trên cơ sở sử dụng lực lượng vũ trang bán thường xuyên vào đầu thế kỷ 16, sau sự sụp đổ của ách thống trị Mông Cổ-Tatar). Quân đội Nga một lần nữa buộc phải chiến đấu bằng giáo và kiếm bên cạnh việc bắn bằng cung tên. Dưới ảnh hưởng của Mông Cổ, các chiến thuật quân sự đã thay đổi rất nhiều: lính Nga bắt đầu ưu tiên chiến đấu tránh cận chiến (cung thủ) và tác chiến linh hoạt từ khoảng cách xa, họ cũng chú ý nhiều đến hoạt động tình báo và bảo vệ. Ngoài ra, quân Nga bắt đầu loại bỏ truy kích quân thù vì điều này có thể gây nguy hiểm cho một chiến thắng chung, đó là một trong những lý do cho thất bại tại Kalka (xem Trận sông Vozhe, Trận Kulikovo). Quân đội của Nhà nước Moscow được xây dựng một phần dựa trên các nguyên tắc của nghệ thuật quân sự Mông Cổ. Vào cuối thế kỷ 14, các chiến binh Nga thường sử dụng vũ khí ở một số khía cạnh hoàn hảo hơn Các phương pháp chiến tranh hiệu quả từng được sử dụng bởi người Mông Cổ đã được các dân tộc du mục khác vay mượn. Người Mông Cổ có ảnh hưởng mạnh nhất đến sử dụng vũ khí và tổ chức quân sự của các dân tộc thuộc nhóm nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và nói tiếng Mông Cổ.