✨Quân đội Đế quốc Mông Cổ

Quân đội Đế quốc Mông Cổ

nhỏ|phải|Giáp trụ của chiến binh Mông Cổ thumb|Cung thủ kỵ binh Mông Cổ. Ảnh trong tác phẩm [[Jami' al-tawarikh của Rashid-al-Din Hamadani.]] Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông Cổ là cơ sở cho người Mông Cổ chinh phục các quốc gia từ châu Á sang châu Âu, từ đó tạo lập nên đế quốc rộng lớn của họ.

Hệ thống này của người Mông Cổ ban đầu hình thành từ cách tổ chức đời sống du mục, về sau được Thành Cát Tư Hãn phát triển, rồi được mở rộng bởi tướng lĩnh và con cháu của ông. Quân Mông Cổ đã sử dụng các công nghệ và phương pháp khác nhau một cách linh hoạt và phù hợp với mỗi vùng đất mà họ chinh phạt. Các quân sư và chuyên gia vũ khí từ những đất nước khác đã được thu nhận và trọng dụng. Trong nhiều trường hợp, quân Mông Cổ đánh bại quân thù đông đảo hơn.

Cấu trúc chỉ huy của quân đội Mông Cổ rất linh hoạt, giúp họ có thể tổ chức tấn công hàng loạt, họ thường chia thành các nhóm nhỏ để bao vây kẻ thù và dẫn quân địch vào một khu vực phục kích, hoặc chia thành các nhóm nhỏ khoảng 10 người để truy quét tàn quân kẻ thù chạy trốn. Mặc dù họ chiến đấu theo đơn vị, từng người lính chịu trách nhiệm về trang bị, vũ khí của riêng họ và có tối đa năm con ngựa cưỡi. Gia đình và đàn gia súc đi cùng họ trong các cuộc viễn chinh.

Nguồn gốc

Khiết Đan

Người Khiết Đan có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến sự phát triển của quân đội đế quốc Mông Cổ. Vào thời kỳ nổi lên của nước Liêu, họ có một đạo quân dày dặn kinh nghiệm, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người Thổ Nhĩ Kỳ cổ, người Duy Ngô Nhĩ, người Yenisei Kyrgyz và người Hán. Quân đội Khiết Đan bao gồm một đội quân bảo vệ (ordo) là một đơn vị chiến đấu chuyên nghiệp với quân số 100.000 người kết hợp cùng với quân lính của tất cả các bộ lạc Khiết Đan. Về sau, tù binh từ các dân tộc bị họ chinh phục cũng được trưng dụng. Quân Khiết Đan được tổ chức theo hệ thống thập phân: đơn vị nhỏ nhất là một đội gồm 5 người, lớn hơn là các đội 10, 100 và 1.000 binh sĩ.

Người Khiết Đan thương sử dụng các binh sĩ chuyên việc phao tin đồn gây hoảng loạn trong doanh trại của kẻ thù. Trong các trận đánh, quân Khiết Đan sử dụng tất cả các kỹ thuật chiến đấu đặc trưng của người du mục: tấn công bất ngờ, giả vờ rút lui, phục kích. Cuộc chiến mà họ tiến hành thường được mở màn bởi các cung thủ, họ bắn tên bao phủ đội hình quân địch. Tiếp theo là các đội quân giáo và kiếm xông lên. Sau đó, quân Khiết Đan truy kích tàn quân kẻ thù bại trận để tiêu diệt tận gốc. Người Khiết Đan đã khéo léo tiến hành các hoạt động bao vây và vây hãm, trong đó các tù nhân được sử dụng thường xuyên cho các hoạt động này. Trong các cuộc bao vây, người Khiết Đan cho đào và xây dựng các công sự xung quanh pháo đài mà họ muốn hạ.

Truyền thống quân sự Khiết Đan chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Trung Quốc, và đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển quân đội của nhà nước Hắc Khiết Đan (Tây Liêu) và liên minh bộ lạc Nãi Man (乃蛮). Tuy nhiên, cho đến nay, rất ít sử liệu đề cập quân đội của vương quốc Tây Liêu. Tại Hãn quốc, tất cả đàn ông từ 18 tuổi đều có nghĩa vụ đi lính. Quân đội Hắc Khiết Đan bao gồm một đội quân bộ binh đông đảo, trang bị vũ khí giống như nhà nước Đại Liêu trước đó của họ. Năm 1211, ở Hắc Khiết Đan, Khuất Xuất Luật nắm lấy quyền lực.

Nữ Chân

Dân tộc Nữ Chân cũng có quân đội phát triển không kém gì Khiết Đan. Quân Nữ Chân được tổ chức theo cách tương tự như Khiết Đan: quân đội được chia thành các đơn vị 5, 10, 100 và 1.000. Lực lượng cốt lõi của quân đội có vai trò bảo vệ hoàng gia. Kỷ luật sắt có vai trò quan trọng trong quân đội. Lực lượng chính của quân đội là kỵ binh, được chia thành kỵ binh nặng và kỵ binh nhẹ. Các lực lượng khác bao gồm bộ binh, pháo binh ném đá và bắn súng, được xây dựng theo mô hình quân đội của Trung Quốc.

Chiến thuật của quân Nữ Chân bao gồm đánh tạt sườn, đánh tập hậu và tấn công đồng loạt. Một đội tiêu chuẩn sẽ bao gồm 20 kỵ binh bọc áo giáp và trang bị giáo sẽ tấn công xung phong. Đây là những chiến binh dũng cảm nhất, kiên định và mạnh mẽ nhất. Theo sau đội hình này là 50 cung thủ mặc áo giáp da được trang bị cung tên. нөхөр là lực lượng nòng cốt trong các lực lượng vũ trang bộ tộc của Mông Cổ. Một trường huấn luyện quân sự cũng đã được thành lập để đào tạo tướng lĩnh.

Quân đội Mông Cổ được tổ chức theo hệ thống thập phân. Quân đội được chia thành hàng chục (thập hộ; 十户), hàng trăm (bách hộ sở; 百户所), hàng ngàn (thiên hộ chế; 千户制) và hàng chục ngàn (Vạn hộ chế; 万户制), đứng đầu là lĩnh ban (領班), bách phu trưởng, thiên phu trưởng và vạn phu trưởng. Hàng ngàn người không chỉ là một đơn vị quân đội, mà còn là một đơn vị hành chính - lãnh thổ. Các đơn vị vạn hộ chế thống nhất có đạo quân kỵ binh đông đảo với số lượng lên tới 100.000 người. Quân đội Mông Cổ được chia thành 3 phần: trung tâm, cánh phải và cánh trái. Trong quân đội thời Thành Cát Tư Hãn, một đơn vị gồm hàng chục và hàng trăm lính theo quy chuẩn xuất phát từ một gia tộc hoặc một nhóm gia tộc. Các đơn vị hợp thành lớn hơn, chẳng hạn như đơn vị thiên hộ chế, được hình thành bởi một nhóm các bộ tộc và bộ lạc thống nhất. Đây là một phần trong chính sách định hướng mục tiêu của Thành Cát Tư Hãn, với mục tiêu là vượt qua tình trạng mất đoàn kết và tập trung hóa quyền lực nhà nước.

Nhà nước Mông Cổ tập trung nhiều vào chiến tranh: phụ nữ có nghĩa vụ phải phục vụ. Pháp luật Mông Cổ ghi rằng:...những người phụ nữ hành quân cùng với quân đội nên làm các công việc và các nhiệm vụ của đàn ông trong và sau khi họ đi chinh chiến. Những người không thể phục vụ trong quân đội thì phải có nghĩa vụ lao động.

Bảo vệ

*Bài chi tiết: Khiếp bệ thumb|Các chiến binh Mông Cổ được trang bị mạnh với hệ thống vũ khí công thành. Một bản biên niên sử thu nhỏ của Rashid ad-Din.

Theo lệnh của Thành Cát Tư Hãn:

"Một đội quân của khiếp bệ nên bổ sung những người con trai có năng lực và sức mạnh vượt trội của vạn phu trưởng, thiên phu trưởng, bách phu trưởng, cũng như con trai của những người thuộc tầng lớp tự do. Các con của họ phải đi quân dịch với mười cặp anh em trai. Các "na nhan" chuyên cấp ngựa phải gửi đến năm cặp anh em trai. Các con của lĩnh ban na nhan, cũng như con của những người tự do, phải đi quân dịch với ba cặp anh em trai, đồng thời tất cả đều có nghĩa vụ phải trình diện ngựa riêng, để hành quân qua các vùng đất." Những người không thể phục vụ trong quân đội có nghĩa vụ lao động khác. Kỵ binh Mông Cổ được xem là yếu và ít hiệu quả so với lính cung thủ.

Dựa trên cách huy động này, vệ binh đông đến 10 nghìn lính. Vị trí đặc quyền mà đội vệ binh có là bất kỳ khiếp bệ nào sẽ đều có cấp bậc cao hơn một binh sĩ hoặc chỉ huy cùng cấp. Mặc dù có tư cách đặc quyền, lính canh khiếp bệ được giao thêm các nhiệm vụ: ở lại với hãn trong lúc không có chiến sự. Đội vệ binh từng tồn tại trong quân đội của nhiều dân tộc du mục, nhưng chính người Mông Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn đã thành công trong việc hợp nhất vệ binh với quân đội thành một.

Lệnh

Thành Cát Tư Hãn đã tạo ra một thể chế đặc biệt cho quân đội của ông, với trách nhiệm chính là lên kế hoạch bố trí quân đội, trinh sát quân địch, vạch ra các tuyến đường cho những người du mục, vị trí của các trại. Các tướng tham mưu được gọi là yurtsi (Mông Cổ bao thị) báo cáo trực tiếp việc binh sự lên hãn. Vị trí của yurtchi trưởng có thể sánh ngang với vị trí của thủ lĩnh đứng đầu bộ tộc.

Thư từ và báo tin, mua hàng hóa

Thành Cát Tư Hãn đã tổ chức một hệ thống gửi thư và báo tin hợp lý. Vô số "trạm bưu chính" xuất hiện trên lãnh thổ của đế chế. Tất cả các con đường dài được chia thành nhiều phần trong đó có một quan chức coi quản để duy trì trật tự, người qua lại và hàng hóa. Tại các trạm này, họ ưu tiên cho kỵ binh đưa thư của hãn. Nhờ những đổi mới này, các mệnh lệnh của hãn đã nhanh chóng đến được quân đội ở các nơi. Điều này được đề cập trong Yase (luật) của Thành Cát Tư Hãn: Ông ra lệnh thiết lập các vị trí thường trực cho đại hãn, để sớm biết về tất cả các sự kiện diễn ra trong đế quốc.). Một hệ thống tương tự như vậy cũng đã từng tồn tại trong quân đội Nữ Chân. Bộ luật được thành lập bởi Thành Cát Tư Hãn (gọi là Yasa), yêu cầu những người lính hỗ trợ lẫn nhau. Vì vậy, nếu trong một cuộc hành quân, một người lính Mông Cổ đánh rơi thứ gì đó xuống đất, người lính di chuyển phía sau anh ta có nghĩa vụ phải nhặt thứ rơi xuống đó lên và trao lại cho người chủ của nó, nếu không thì người sau sẽ phải đối mặt với hình phạt tàn khốc. Mỗi chiến binh Mông Cổ có nghĩa vụ phải chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc hành quân: hình phạt có thể được áp dụng bởi sự thiếu chuẩn bị vũ khí và những thứ cần thiết trên đường hành quân. Hình phạt tử hình cũng được áp dụng, chẳng hạn như cướp bóc chưa đúng thời cơ vào trại địch hoặc ngủ tại doanh trại. Phạm tội nhỏ thường bị trừng phạt bằng tiền phạt cũng như hình phạt về thể xác. Từ thời thơ ấu các chiến binh Mông Cổ đã sở hữu nhiều loại vũ khí và bắn cung thành thạo.

Trong thời gian huấn luyện, chiến binh Mông Cổ triển khai diễn tập chiến đấu giống như một cuộc săn bắn. Khi mùa săn bắn đến, người Mông Cổ mài giũa kỹ năng điều động và bao vây. Họ triển khai đội hình vòng tròn đột kích xung quanh một vùng đất rộng lớn để săn bắn, và dần dần trong vòng một đến ba tháng lùa chúng về vùng đất có hãn đóng trại. Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc săn bắn, khi đội hình bao vây vòng tròn khép lại, mỗi người buộc dây quanh chu vi vùng đất bằng dây thừng. Việc bắn những con thú bị lùa và nhốt sẽ bắt đầu từ hãn, theo sau là các hoàng tử và theo sau đó là binh lính.

Quy mô quân đội

Qua nhiều thời kỳ, giới sử học đã đưa ra những con số khác nhau về số lượng quân đội Mông Cổ. Số lượng tối đa được đưa ra là 600.000 bởi Giovanni da Pian del Carpine. Nikolai Mikhailovich Karamzin ước tính tổng số quân Mông Cổ xâm chiếm nước Nga là 500.000 người. Nhưng sau đó ông đã giảm ước tính của ông xuống còn 300.000 người. Quân số Mông Cổ đã bị phóng đại rất nhiều, về sau các nhà sử học đưa ra những con số ước tính khác nhau về quân số của Thành Cát Tư Hãn và Bạt Đô. Việc xác định số quân là vô cùng khó khăn do số quân của Mông Cổ nằm dao động qua các thời kỳ khác nhau, các nhà nghiên cứu người Ba Tư, người Trung Quốc và người Nga có xu hướng đánh giá quá cao số lượng của quân Mông Cổ. E. Hara-Davan dựa trên dữ liệu từ các nhà nghiên cứu tại Anh đã tuyên bố số lượng quân Mông Cổ tối đa trong toàn bộ thời kỳ trị vì của Thành Cát Tư Hãn là 230.000. Dưới đây là dữ liệu về các đơn vị quân đội khác nhau của quân đội Mông Cổ trong chiến dịch đánh Khorezm.

Rashid-al-Din Hamadani trong biên niên sử do ông soạn ghi rằng vào thời điểm Thành Cát Tư Hãn qua đời, số lượng quân đội Mông Cổ là 129.000. Hara-Davan và G.V. Vernadsky chấp nhận con số này. Lớp Vecni này bảo vệ vũ khí khỏi bị ẩm ướt và giữ khô ráo. Cung thủ sử dụng 2 loại cung tên: cung tên của Trung Quốc và cung tên của Trung Đông. Mỗi chiến binh sở hữu một số cung và túi mang nhiều mũi tên thuộc nhiều loại khác nhau, và có thêm một vỏ da lớn để bọc cây cung. Mỗi túi đựng tên thường đựng 30 mũi tên. Ngoài ra, tất cả những người lính đều có dây cột ngựa chuyên dụng (en) mà họ dùng để săn bắn và dùng trong chiến đấu, cũng như mang theo dao hay các loại vũ khí nhẹ khác. Ngoài ra, mỗi chiến binh phải có một cây kim và sợi chỉ, một cái dùi và một sợi dây thừng, một công cụ để mài đầu mũi tên, một chiếc mũ nơ và một túi thức ăn. Khi băng qua sông, các chiến binh Mông Cổ sử dụng túi bằng da, đồ đạc và quần áo được gấp lại vào đó để tránh bị ướt. Vào mùa đông, các chiến binh Mông Cổ đội mũ lông và áo khoác da cừu bên ngoài áo giáp của họ.

Người Mông Cổ chiến đấu trên lưng ngựa với những con ngựa thấp cực kỳ khỏe mạnh trong mọi điều kiện khí hậu. Trong lúc hành quân, ngựa được bảo vệ khỏi cái lạnh bằng lớp len dày đặc. Những con ngựa này có thể được chăm sóc theo nhiều cách. Chúng có thể ăn cỏ trên đường khi đang di chuyển, ăn cả rễ và lá cây. Chúng có thể ăn mọi loại cây cỏ khác nhau. Vào mùa đông, những con ngựa có thể ăn các thức ăn mà chúng tìm thấy bên dưới các lớp tuyết. Thông thường, mỗi người dân du mục sở hữu 3 con ngựa (nhiều hơn so với những dân tộc định cư), nhưng theo mệnh lệnh của Thành Cát Tư Hãn thì cần 5 ngựa cho mỗi chiến binh. Theo George Vernadsky

Yên ngựa khá nặng, nặng tới 4 kg và được bôi mỡ cừu để tránh bị ướt khi trời mưa. Những chiếc yên ngựa có độ cong cao. Các bàn đạp được kỵ binh Mông Cổ sử dụng thì tương đối ngắn.

Kỵ binh nặng

Kỵ binh nặng được vũ trang mạnh bao gồm các loại gươm hay kiếm, một cây giáo dài có móc để tròng và kéo lính địch ra khỏi yên ngựa, một chiếc rìu lớn, một trát giáp hoặc áo giáp gỗ, một chiếc mũ sắt, một chiếc khiên tròn nhỏ. Các loại vũ khí bằng gỗ dài khác nhau cũng được sử dụng, đặc biệt là một loại đao cán dài. Ngoài kim loại, da dày được chế tác nhiều kiểu và được sử dụng kết hợp với các loại vật liệu cứng khác. Hầu hết các kiểu là áo giáp hoặc các vật che chắn để bảo vệ cơ thể. Như áo giáp gương, giáp cẳng tay, giáp cẳng chân. Mũ bảo vệ, mặt nạ, loại mặt nạ che nửa mặt, tấm lưới kim loại để bảo vệ và máng che mắt. Áo giáp thường được phủ men vecni và sơn trang trí. Giovanni da Pian del Carpine đã mô tả công nghệ sản xuất áo giáp bằng kim loại của người Mông Cổ như sau:

_...Họ làm một dải (kim loại) mỏng dài bằng chiều rộng của ngón tay và chiều dài của lòng bàn tay, họ chuẩn bị nhiều dải; mỗi dải được khoét tám lỗ nhỏ và chèn ba dây đai chặt với nhau ở bên trong, đặt các dải này lên nhau, chồng lên các gờ, và buộc các dải trên bằng dây đai mỏng xuyên qua các lỗ đã khoét; ở phần trên, họ khâu một dây đeo, gấp đôi ở hai bên và may nối với dây đeo kia, sao cho các dải khớp với nhau thật đều và chắc chắn, sau khi hoàn thành tạo các dây đeo từ các dải, buộc mọi thứ lại với nhau thành từng mảnh. Họ làm cả hai loại, loại để trang bị ngựa và loại để trang bị cho người. Và họ làm cho nó bóng loáng để mọi người có thể nhìn thấy khuôn mặt của người lính mang chúng_.

Chùy cũng được sử dụng phổ biến. Về sau, vũ khí quả tạ và áo giáp vòng tròn xuất hiện trong kho vũ khí của kỵ binh nặng Mông Cổ. Đến thế kỷ thứ 14, Khatanga degel được gia cố từ bên trong bằng các tấm sắt đã trở thành áo giáp phổ biến nhất: gồm loại carapace của người Mông Cổ và loại của người Nga gọi là kuyak. Ngoài ra, các kiểu áo giáp kết hợp cũng xuất hiện, kết hợp các loại áo giáp khác nhau. Quân đội cũng có thói quen mặc nhiều áo giáp cùng một lúc.

Các chiến binh nổi bật và giàu có nhất bảo vệ ngựa của họ bằng áo giáp bằng da hoặc sắt.

thumb|Sự sụp đổ của Baghdad. Minh họa trong Jami 'at-tawarih của Rashid ad-din. Tuyến đầu là các chiến binh Mông Cổ với vũ khí hạng nặng. Bên trái - Vũ khí bao vây của Mông Cổ

Kỹ thuật bao vây

Quá trình nắm bắt và sử dụng các trang bị quân sự của người Mông Cổ diễn ra theo từng giai đoạn. Ở giai đoạn ban đầu, người Mông Cổ đã vay mượn các công nghệ bao vây của người Đảng Hạng, sớm hơn so với người Trung Quốc và người Nữ Chân. Người Mông Cổ mượn các yếu tố của kỹ thuật bao vây Đảng Hạng làm phương tiện chiến đấu (như tháp bao vây là loại phát triển của họ), nhiều loại máy phóng khác nhau (từ máy ném đá đơn giản và máy phóng nhẹ đến máy ném đá cố định). Quân đội Đảng Hạng cũng dùng các thiết bị phụ trợ sử dụng trong các cuộc bao vây (móc sắt, dây thừng, thuổng và rìu). Người Mông Cổ đã vay mượn tất cả những thứ này và áp dụng thành công trong các cuộc bao vây.

Quân Mông Cổ đã làm quen với kỹ thuật bao vây của người Nữ Chân trong quá trình họ tiến hành các chiến dịch xâm lược, mặc dù thực tế là trước đó họ đã tấn công lãnh thổ Nữ Chân. Máy phóng Nữ Chân mà người Mông Cổ vay mượn tốt hơn máy phóng của Đảng Hạng, được chia thành nhiều loại, ngoài ra họ còn dùng máy ném đá đủ các loại. Các trang bị bao vây Nữ Chân tương tự với trang bị của Trung Quốc. Loại trang bị này của quân Nữ Chân cũng được trang bị thiết bị chữa cháy (chống lại mũi tên lửa và chống lại đạn pháo). Bắt chước các đối thủ của mình, quân Mông Cổ đã thành lập các đơn vị kỹ thuật và pháo binh trong quân đội của họ, có nhân sự được đào tạo và hỗ trợ vật chất đầy đủ.

Người Mông Cổ cũng dùng vũ khí công thành lấy được từ lãnh thổ Trung Quốc mà họ đã chinh phục, đặc biệt là các cỗ máy công thành Trung Quốc hoạt động theo nguyên tắc đòn bẩy, cũng như loại nỏ cỡ lớn vận hành ít nhất bởi 100 người lính. Ngoài ra, người Mông Cổ đã sử dụng đạn pháo cầm tay và pháo công thành chứa đầy thuốc súng hoặc các vật liệu dễ cháy khác.

Về sau, các thiết bị bao vây từ thế giới Hồi giáo đã được đưa vào sử dụng trong quân đội Mông Cổ, đặc biệt là trebuchet cỡ lớn (tiếng Ả Rập gọi là Manjanik), bắn đạn đá nặng tới 70 kg. Người Mông Cổ sử dụng máy phóng và máy dùng lò so xoắn với các bộ phận đối trọng mà các kỹ sư Trung Quốc không biết, người Mông Cổ gọi là "hồi hồi pháo" (回回炮). Theo Giovanni da Pian del Carpine, quân Mông Cổ cũng sử dụng trang bị gọi là lửa Hy Lạp. Trong cuộc bao vây, quân Mông Cổ đã sử dụng bất kỳ vật liệu ngẫu hứng nào để dùng mà không cần mang theo sẵn đạn pháo. Trong việc công thành, người Mông Cổ ưa thích dùng các kiểu nồi chứa đạn pháo, từ đó quân thủ thành không còn có thể chống lại hiệu quả những kẻ bao vây. Vũ khí công thành thường được điều khiển bởi các tù nhân và được chỉ dẫn bởi các kỹ sư Trung Quốc và Hồi giáo. Người Mông Cổ cũng canh tân quân đội, bắt đầu lần đầu tiên khi họ sử dụng đạn cháy. Vì vậy, để đối phó lại quân Mông Cổ, vào năm 1259, quân Nam Tống đã tạo ra và sử dụng hỏa thương, bắn đạn ở khoảng cách lên tới 250 mét.

thumb|

[[Đội hình chiến thuật|Đội hình chiến đấu của quân Mông Cổ
từ bài báo "Lịch sử nghệ thuật quân sự"»
(«Từ điển bách khoa quân sự Sytin»; năm 1913)
]]

Trước trận đánh, một đội tiên phong gồm binh lính vũ trang nhẹ tiến về phía trước. Nhiệm vụ của họ là "tắm" quân thù trong "mưa" mũi tên, làm bị thương ngựa chiến, gây đảo lộn đội hình kết hợp và dẫn đến hỗn loạn. Đội tiên phong được theo sau bởi một cánh quân bên phải và một cánh quân bên trái. Họ cũng có đội tiên phong riêng. Đối với quân Mông Cổ trước trận đánh, thông thường họ tổ chức quân thành 5 hàng. Các hàng cuối cùng bao gồm các chiến binh được trang bị mạnh, thường là kỵ binh giáp nặng triển khai ở hai hàng đầu tiên, và các đội kỵ binh trang bị nhẹ thường xuất kích tiên phong qua các khoảng trống trong hàng của kỵ binh giáp nặng.

Các cuộc bao vây thành phố

phải|thumb|[[Bao vây Baghdad (1258)|Cuộc bao vây Baghdad năm 1258 trên một bức họa Ba Tư]] Một nhược điểm trong chiến thuật quân sự của Mông Cổ là không thể chiếm được thành trì. Vì khả năng và sở thích của họ là giao chiến với quân thù trên một vùng đất rộng mở. Nếu quân đội Mông Cổ tác chiến trong một khu vực được phòng thủ tốt, thì tướng lĩnh quân đội Mông Cổ thích đánh tập hậu địch từ phía sau lưng. Người Mông Cổ bắt đầu thu nhận các kỹ sư Trung Quốc và sau đó là các kỹ sư Hồi giáo chuyên về bao vây, để công phá thành trì. Do đó, người Mông Cổ đã sớm tiếp nhận kho tàng vũ khí công thành của nhiều dân tộc.

Trong hoạt động bao vây, người Mông Cổ sử dụng rộng rãi lao động là tù nhân. Mỗi kỵ binh có nghĩa vụ phải mang theo 10 tù nhân. Họ đặt dưới sự giám sát của các kỹ sư, làm các công việc chế tạo và bảo dưỡng các phương tiện công thành, trực tiếp thực hiện bao vây thành trì kẻ thù, lấp hoặc đào mương. Trong các cuộc tấn công, quân Mông Cổ đã thúc các tù nhân ra tuyến trước, sử dụng họ như lá chắn sống (thông thường người Mông Cổ sử dụng chiến thuật này trong các trận chiến đấu mở). Tù nhân trở thành phương tiện chính trong cuộc chiến bao vây các thành trì từ lâu, vốn đã được sử dụng ở nhiều dân tộc phương Đông - bởi Seljuks, Khiết Đan và Nữ Chân. Khi tiến hành bao vây, quân Mông Cổ phá hoại mọi thứ xung quanh, nếu có một con sông gần pháo đài bị bao vây, họ sẽ chặn nó bằng các con đập để thay đổi dòng chảy làm ngập các công sự của đối phương. Quân Mông Cổ không dừng trận chiến trong một ngày, họ không cho quân bảo vệ thành được nghỉ ngơi. Người Mông Cổ chia quân thành các đơn vị luân phiên, thay thế nhau liên tục tấn công dồn dập. Nhiều nguồn sử liệu cũng ghi chép hoạt động xây dựng các bức tường, hàng rào hoặc thành lũy cao xung quanh pháo đài bị bao vây. Tuy nhiên, người Mông Cổ không ngừng cố gắng lôi kéo quân thủ thành vào trận chiến mở, họ sử dụng các toán lính nhỏ để khiêu khích đối phương.

Quân Nguyên cũng bao gồm quân của các bộ lạc liên quan đến quân Mông Cổ do chỉ huy riêng của họ lãnh đạo. Ngoài người Trung Quốc, Hàn Quốc, Nữ Chân, Khiết Đan và Tây Tạng cũng phục vụ trong quân đội Mông Cổ. Trên thực tế, tù binh Tống phục vụ chủ yếu trong bộ binh và pháo binh và là những đơn vị ít được tin cậy nhất của quân Nguyên. Quân đội Nhà Nguyên cũng bao gồm lính đánh thuê bị bắt, là các binh lính trước đây phục vụ cho quân đội nhà Tống.

Quân Mông Cổ đã bị suy yếu rất nhiều qua các chiến dịch xâm lược, cũng như do nhiều cuộc nổi dậy của dân chúng chống lại quân xâm lược. Người Mông Cổ cũng rơi vào tình trạng cần ngựa chiến nghiêm trọng, vì họ không thể nuôi những đàn lớn ở Trung Quốc vì vậy buộc phải mua ngựa. Hoàn cảnh này làm suy yếu đáng kể sức mạnh quân sự của Mông Cổ tại Trung Quốc. Tuy nhiên, người Mông Cổ vẫn là một thế lực đáng gờm đối với đối thủ của họ. Vệ binh hoàng gia được đóng tại kinh đô. Đến năm 1352, khoảng 100.000 binh sĩ phục vụ trong vệ binh Mông Cổ. Dựa vào kinh nghiệm dày dặn của những người tiền nhiệm, Thiếp Mộc Nhi đã xây dựng một đội quân hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu cho phép ông ta giành được những chiến thắng rực rỡ trên chiến trường trước các đối thủ của mình. Đội quân này là là một đạo quân đa sắc tộc, nòng cốt là các chiến binh du mục người Thổ Nhĩ Kỳ - Mông Cổ. Quân đội Thiếp Mộc Nhi được chia thành kỵ binh và bộ binh, có vai trò tăng lên rất nhiều vào đầu thế kỷ 14-15. Tuy nhiên, chủ lực của quân đội là các đơn vị kỵ binh du mục, "xương sống" bao gồm các đơn vị kỵ binh giáp nặng vô cùng tinh nhuệ, cũng như các đơn vị vệ sĩ Tamerlan. Bộ binh thường đóng vai trò hỗ trợ, nhưng cần thiết trong cuộc bao vây pháo đài. Hầu hết bộ binh được trang bị vũ khí nhẹ, chủ yếu là cung thủ, tuy nhiên, bộ binh của họ cũng có các toán tấn công vũ trang mạnh.

Ngoài lực lượng chính của quân đội (kỵ binh nặng, kỵ binh nhẹ và bộ binh) trong quân đội của Thiếp Mộc Nhi còn có các kiểu lính khác, công nhân, kỹ sư và các chuyên gia vũ khí khác, cũng như có các đơn vị bộ binh đặc biệt, chuyên chiến đấu ở vùng núi (họ được tuyển chọn từ cư dân sống trong các ngôi làng trên núi). Tổ chức của quân đội Thiếp Mộc Nhi tương tự với tổ chức thập phân của Thành Cát Tư Hãn, nhưng có một số thay đổi (ví dụ, có các đơn vị từ 50 đến 300 người được gọi là Hồi koshun, số lượng đơn vị lớn hơn là kulul thì không ổn định lắm, thường biến động về số quân). Về sau, dân quân giống như các chỉ huy của họ, những người xuất thân từ giới quý tộc du mục Thổ - Mông, cũng bắt đầu nhận được chu cấp đất đai. Hệ thống sở hữu này hợp pháp hoá bởi Nghị định của Hãn Gazan vào năm 1303. Kể từ khi việc chu cấp đất đai được ban hành đã dẫn đến việc thu ngân sách giảm và suy yếu bộ máy nhà nước. Quân đội của Hãn, ngoài đội hình Mông Cổ chủ yếu, còn bao gồm quân đội Armenia và Gruzia đồng minh, cũng như dân quân được tuyển mộ từ cư dân địa phương. Hệ thống thập phân truyền thống tương tự với tổ chức thị tộc của các bộ lạc Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ. Hệ thống quân sự của nhà nước Hãn quốc Y Nhi cho thấy sự yếu kém của nó trong các cuộc chiến với Mamluk, và khu vực Tây Nam Á.

Ảnh hưởng đến sự phát triển quân sự khu vực Á-Âu

Truyền thống lâu dài của nền quân sự Mông Cổ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển quân sự của nhiều dân tộc. Do đó, loại vũ khí của Mông Cổ (áo giáp ngựa dùng trong quân đội Galicia–Volhynia, cũng như quân đội Tatar, được mô tả vào năm 1248 tương tự như mô tả của Giovanni da Pian del Carpine) đã được các binh sĩ Nga sử dụng thành công trong các cuộc chiến tranh chống lại quân đội các đối thủ phương Tây. Do hậu quả cuộc xâm lược của người Mông Cổ ở Nga, các đơn vị kỵ binh hạng nặng chuyên tấn công trực tiếp bằng vũ khí cầm tay dần chuyển sang đội hình tấn công xạ tiễn (được hồi sinh trên cơ sở sử dụng lực lượng vũ trang bán thường xuyên vào đầu thế kỷ 16, sau sự sụp đổ của ách thống trị Mông Cổ-Tatar). Quân đội Nga một lần nữa buộc phải chiến đấu bằng giáo và kiếm bên cạnh việc bắn bằng cung tên. Dưới ảnh hưởng của Mông Cổ, các chiến thuật quân sự đã thay đổi rất nhiều: lính Nga bắt đầu ưu tiên chiến đấu tránh cận chiến (cung thủ) và tác chiến linh hoạt từ khoảng cách xa, họ cũng chú ý nhiều đến hoạt động tình báo và bảo vệ. Ngoài ra, quân Nga bắt đầu loại bỏ truy kích quân thù vì điều này có thể gây nguy hiểm cho một chiến thắng chung, đó là một trong những lý do cho thất bại tại Kalka (xem Trận sông Vozhe, Trận Kulikovo). Quân đội của Nhà nước Moscow được xây dựng một phần dựa trên các nguyên tắc của nghệ thuật quân sự Mông Cổ. Vào cuối thế kỷ 14, các chiến binh Nga thường sử dụng vũ khí ở một số khía cạnh hoàn hảo hơn Các phương pháp chiến tranh hiệu quả từng được sử dụng bởi người Mông Cổ đã được các dân tộc du mục khác vay mượn. Người Mông Cổ có ảnh hưởng mạnh nhất đến sử dụng vũ khí và tổ chức quân sự của các dân tộc thuộc nhóm nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và nói tiếng Mông Cổ.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Giáp trụ của chiến binh Mông Cổ thumb|Cung thủ kỵ binh Mông Cổ. Ảnh trong tác phẩm [[Jami' al-tawarikh của Rashid-al-Din Hamadani.]] **Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
nhỏ|Quân đội của Thiết Mộc Nhĩ **Quân đội của Thiếp Mộc Nhi** là lực lượng quân đội của Đế quốc Timur được thành lập và tồn tại trong thời kỳ nắm quyền của Thiếp Mộc
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
**Cuộc xâm lược Khwarezmia** bắt đầu từ 1219 đến 1221 đánh dấu điểm khởi đầu của quá trình người Mông Cổ chinh phục các nhà nước Hồi giáo. Sự bành trướng của Mông Cổ cuối
****, sự kiện diễn ra năm 1274 và năm 1281, bao gồm những nỗ lực quân sự quy mô lớn do Hốt Tất Liệt của Đế quốc Mông Cổ tiến hành nhằm chinh phục quần
**Đại hãn quốc Mông Cổ** () là chính phủ Mông Cổ (Ngoại Mông Cổ) giữa năm 1911 và 1919, và một lần nữa từ 1921 tới 1924. Vào mùa xuân năm 1911, một số quý
Là một phần của Mông Cổ xâm lược Châu Âu, Đế chế Mông Cổ đã xâm chiếm Rus Kiev vào thế kỷ XIII, phá hủy nhiều thành phố, bao gồm Ryazan, Kolomna, Moskva, Vladimir và
nhỏ|alt=A partially unrolled scroll. opened from left to right to show a portion of the scroll with widely spaced vertical lines of a foreign language. Imprinted over two of the lines is an official-looking square
**Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly** (1231 - 1273) là cuộc xâm lăng Vương quốc Cao Ly (vương triều cai trị bán đảo Triều Tiên từ năm 918 đến năm 1392) của Đế quốc
**Cuộc xâm lăng của Mông Cổ ở Java** là một nỗ lực quân sự của Hốt Tất Liệt, người sáng lập nhà Nguyên (một phần của Đế quốc Mông Cổ), xâm chiếm Java, một hòn
nhỏ|Đại sứ quán Mông Cổ tại Washington DC, Hoa Kỳ. nhỏ|Tổng thống Mông Cổ [[Tsakhiagiin Elbegdorj và Tổng thống Mỹ Barack Obama.]] **Quan hệ Hoa Kỳ – Mông Cổ** là quan hệ song phương giữa
Cuộc xâm lược Trung Á của Mông Cổ được tiến hành sau sự thống nhất các bộ lạc người Mông Cổ và Đột Quyết trên thảo nguyên Mông Cổ năm 1206. Cuộc xâm lược này
**Mông Cổ thuộc Thanh** (chữ Hán: 清代蒙古), còn gọi là **Mông Cổ Minh kỳ** (蒙古盟旗), là sự cai trị của nhà Thanh của Trung Quốc trên thảo nguyên Mông Cổ, bao gồm cả bốn aimag
**Cách mạng Mông Cổ 1921** (), còn gọi là Cách mạng Dân chủ 1921, Cách mạng Ngoại Mông 1921, là một sự kiện quân sự và chính trị do những nhà cách mạng Mông Cổ
**Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng Mông Cổ** bắt đầu vào tháng 10 năm 1919 và kéo dài cho đến đầu năm 1921, khi quân đội Trung Quốc trong Urga bị đánh bại bởi lực
**Quân Mông Cổ bao vây Khai Phong** từ năm 1232 đến năm 1233, kết quả là chiếm được Biện Kinh của triều Kim. Người Mông Cổ và Kim khi đó đã giao chiến trong gần
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
## Thời kỳ đầu tiên nhỏ|trái|Lãnh thổ của người Hung Nô dưới thời vua Mặc Đốn Vùng đất Mông Cổ ngày nay từng là nơi sinh sống của rất nhiều tộc người từ thời tiền
**Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ** ( (БНМАУ), Tập tin:Mongolian People's Republic.svg, _Bügd Nairamdakh Mongol Ard Uls (BNMAU)_) là một nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại ở vùng Đông Á từ năm 1924
**Mông Cổ chinh phạt nhà Kim** (chữ Hán: 蒙古罰金; phiên âm: _Mông Cổ phạt Kim_), hay **Chiến tranh Mông–Kim** (chữ Hán: 蒙金戰爭; phiên âm: _Mông-Kim chiến tranh_), là cuộc xâm lược toàn diện của người
**Hãn quốc Kim Trướng** là một hãn quốc Hồi giáo gốc Mông Cổ, sau này đã Đột Quyết hoá, được thành lập ở vùng phía tây Đế quốc Mông Cổ sau chiến dịch xâm lược
**Chiến tranh Mông Nguyên- Đại Việt** hay **Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên** (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Hãn quốc Sát Hợp Đài** hay **Sát Hợp Đài hãn quốc** (tiếng Mông Cổ: Tsagadai Khan Uls/Цагадайн улс) là một hãn quốc Turk-Mông Cổ bao gồm các phần lãnh thổ do Sát Hợp Đài cùng
**Hãn quốc Y Nhi**, (, _Hülegü-yn Ulus_, , _Ilxānān_, chữ Hán: 伊兒汗國), còn dịch là **hãn quốc Y Lợi** (伊利汗国) hoặc **hãn quốc Y Nhĩ** (伊尔汗国), là một hãn quốc của người Mông Cổ thành
Văn hoá truyền thống của Mông Cổ là văn hoá thảo nguyên tiếp biến qua nhiều năm lịch sử, do đó, hình tượng con ngựa luôn gắn bó với người dân du mục thảo nguyên.
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
Đại hãn **Mông Kha** (tiếng Mông Cổ: Tập tin:Mongke qaghan.svg Мөнх хаан (Mönkh khaan), còn gọi là **Mông Ca** (theo tiếng Trung: 蒙哥); sinh khoảng năm 1208 và mất năm 1259). Ông là đại hãn
**Nguyên Thái Định Đế** (28 tháng 11, 1293 - 15 tháng 8 1328), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Dã Tôn Thiết Mộc Nhi** (;phiên âm: Borjigin Yesun Temur), là vị Hoàng đế thứ
Quyền **đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới** (tiếng Mông Cổ: _Лесбиян, Гей, Бисексуал, Трансжендер_) ở **Mông Cổ** không được hưởng đầy đủ các quyền mà những người không phải là
**Mông Cổ dưới sự hợp tác của nhà Nguyên** là thời kỳ mà nhà Nguyên do Hốt Tất Liệt Hãn thành lập, trị vì trên thảo nguyên Mông Cổ, cụ thể là Nội Mông và
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong
thumb|[[Cecil Rhodes và dự án đường sắt Cape-Cairo. Rhodes thích "tô bản đồ nước Anh màu đỏ" và tuyên bố: "tất cả những ngôi sao này... những thế giới bao la vẫn còn ngoài tầm
nhỏ|phải|Một trận đấu vật Mông Cổ **Đấu vật Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: _Bökh_, ᠪᠥᠬᠡ, _Бөх_ hoặc _Үндэсний бөх_) là phong cách đấu vật cổ truyền của người Mông Cổ ở vùng Mông Cổ, vùng
**Đế quốc Khwarazm**, sử liệu Trung Quốc phiên âm là **Hoa Lạt Tử Mô**, là một đế chế Hồi giáo dòng Sunni của người Thổ-Ba Tư cai trị phần lớn Trung Á, Afghanistan và Iran
Đế kỳ [[Nhà Hohenzollern|Hohenzollern.]] **Đế quốc Đức** (tiếng Đức: _Deutsches Reich_), hay **Đế chế thứ hai** hay **Đệ nhị Đế chế** () được tuyên bố thiết lập vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 sau
**Nguyên Thiên Thuận Đế** (tiếng Hoa: 元天顺帝; 1320-1328) tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân A Tốc Cát Bát** (孛兒只斤阿剌吉八; Borjigit Arigabag), Hoàng đế thứ 7 của nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc và
**Mông Ngột Quốc** (tiếng Mông Cổ: _Хамаг монгол_, phiên âm là **Khamag Mongol**, nghĩa là toàn Mông Cổ) là một khanlig của các bộ lạc Mông Cổ tồn tại ở cao nguyên Mông Cổ trong
**Đế quốc Mali** (Manding: _Nyeni_ hoặc _Niani_; cũng được lịch sử gọi là **Manden Kurufaba**, đôi khi được rút ngắn thành **Manden**) là một đế quốc ở Tây Phi từ 1235 đến 1670. Đế chế
phải|nhỏ|300x300px| Tổng hành dinh Hải quân Đế quốc Nhật Bản, những năm 1930 là cơ quan tối cao trong nội bộ Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Cơ quan này phụ trách công việc phát
**_Mông Cổ bí sử_** (chữ Mông Cổ cổ điển: Tập tin:Monggol-un Nigucha Tobchiyian.png _Mongγol-un niγuca tobčiyan_, tiếng Mông Cổ Khalkha: Монголын нууц товчоо, _Mongolyn nuuts tovchoo_) là tác phẩm văn chương tiếng Mông Cổ lâu
**Tiếng Mông Cổ** (chữ Mông Cổ truyền thống:; chữ Kirin Mông Cổ:) là ngôn ngữ chính thức của Mông Cổ, và là thành viên nổi bật hơn cả của ngữ hệ Mông Cổ. Số người
**Đệ Nhị Đế quốc Bulgaria** (; ) là thời kỳ lịch sử của Bulgaria kéo dài từ năm 1185 đến 1396. Đây là nhà nước kế thừa Đế quốc Bulgaria thứ nhất, nhà nước này
**Mông Cổ chinh phục Tây Hạ** hay **Chiến tranh Mông - Hạ** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế quốc Mông Cổ và vương quốc Tây Hạ của người Đảng Hạng. Với sự
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
**Đế quốc Việt Nam** (chữ Hán: ; , cựu tự thể: , chuyển tự _Etsunan Teikoku,_ tiếng Pháp: Empire du Viêt Nam) là tên gọi chính thức của một Nhà nước Việt Nam thân Nhật