✨Hải quân Đế quốc Nhật Bản
Hải quân Đế quốc Nhật Bản (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: Dai-Nippon Teikoku Kaigun, phiên âm Hán-Việt: Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân), tên chính thức Hải quân Đế quốc Đại Nhật Bản, thường gọi tắt là Hải quân Nhật, là Lực lượng Hải quân của Đế quốc Nhật Bản từ năm 1869 khi thành lập cho đến năm 1947 thì bị giải thể theo điều 9 của Hiến pháp Nhật Bản từ bỏ việc sử dụng vũ lực như là phương cách để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Đây là Lực lượng Hải quân lớn thứ ba trên thế giới vào năm 1920 sau Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Hoàng gia Anh, và có lẽ là Lực lượng Hải quân hiện đại nhất thời điểm cận kề Chiến tranh Thế giới II. Những chiến hạm trong lực lượng này còn được hỗ trợ bằng phi cơ quân sự và hoạt động không kích từ Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội.
Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân có nguồn gốc từ những xung đột ban đầu với các quốc gia trên lục địa châu Á, khởi đầu từ đầu thời kỳ trung cổ và đạt đến đỉnh cao trong các hoạt động vào thế kỷ thứ 16 và 17, lúc diễn ra sự trao đổi văn hóa với các cường quốc Châu Âu trong Kỷ nguyên Khám phá. Sau hai thế kỷ trì trệ do chính sách toả quốc do các tướng quân chủ trương trong thời kỳ Edo, Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân đã bị tụt hậu nhiều mặt cho đến khi đất nước bị buộc phải mở cửa trao đổi thương mại do sự can thiệp của Hoa Kỳ vào năm 1854. Điều này dẫn đến cuộc Minh Trị duy tân khởi điểm năm 1868. Từ sự hồi phục quyền lực về tay Thiên hoàng Meiji là giai đoạn hiện đại hóa và công nghiệp hóa rầm rộ. Lịch sử một chuỗi các chiến thắng của Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân, có lúc chiến đấu với những thế lực quân sự mạnh hơn hẳn, như trong Chiến tranh Thanh-Nhật năm 1895 và Chiến tranh Nga-Nhật năm 1905. Số phận của Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân đã kết thúc và gần như bị tiêu diệt hoàn toàn trong những ngày cuối cùng của Thế Chiến II. Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân chính thức giải thể vào năm 1947.
Nguồn gốc
nhỏ|Trận thủy chiến [[Trận chiến Dan-no-ura|Dan-no-Ura năm 1185]] Nhật Bản đã có những xung đột về hải quân với lục địa châu Á từ xa xưa, trong đó có việc vận chuyển quân giữa Triều Tiên và Nhật Bản, tối thiểu là bắt đầu từ thời kỳ Kofun vào thế kỷ thứ 3.
Sau những nỗ lực của Mông Cổ nhằm xâm lược Nhật Bản do Hốt Tất Liệt lãnh đạo vào năm 1274 và 1281, những hoạt động cướp bóc của Oa khấu (hải tặc Nhật Bản) diễn ra rất mãnh liệt ở vùng duyên hải Trung Quốc. nhỏ|trái|Một chiếc [[Châu ấn thuyền của Nhật vào năm 1634, kết hợp cả công nghệ đông tây.]] Nhật Bản bắt đầu xây dựng hải quân vào thế kỷ thứ 16, trong Thời Chiến quốc, khi những lãnh chúa phong kiến tranh nhau xây dựng những đội thủy quân khổng lồ lên tới vài trăm chiến thuyền. Trong khoảng thời gian đó, Nhật Bản có thể đã đóng được Thiết giáp hạm đầu tiên, lúc Oda Nobunaga, một đại danh người Nhật, yêu cầu đóng sáu chiếc thiếp giáp hạm Oatakebune (An Trạch thuyền) vào năm 1576. Vào năm 1588, Toyotomi Hideyoshi ban hành lệnh cấm Oa khấu; họ sau đó trở thành chư hầu của Toyotomi, và là thành phần của lực lượng thủy quân trong cuộc xâm lược Triều Tiên của Nhật Bản. Cũng có người cho rằng Đô đốc Yi đã đóng được chiếc thiết giáp hạm đầu tiên với nhiệm vụ đánh phá các tàu tiếp tế của Nhật trong Cuộc chiến Imjin Waeran vào năm 1592-1597.
Nhật đã đóng được những chiếc tàu chiến lớn đầu tiên để đi lại trên đại dương vào đầu thế kỷ 17, sau sự thông thương với các nước phương Tây trong thời kỳ Nanban mậu dịch mậu dịch Nam Man. Vào năm 1613, một đại danh của vùng Sendai, theo một hiệp ước với Mạc phủ Tokugawa, đã đóng chiếc Date Maru (Y Đạt Hoàn), một dạng thuyền chiến 500 tấn để đưa đại sứ Nhật Bản Hasekura Tsunenaga đến Mỹ, sau đó đến châu Âu, thường được trang bị vũ khí và kết hợp với các công nghệ phương Tây, rồi được Mạc phủ ủy nhiệm để dùng chủ yếu cho giao thương với Đông Nam Á.
Chính sách Bế quan Tỏa cảng - Học hỏi Phương Tây
Tàu chiến Nhật [[Shohei Maru năm 1854 được chế tạo dựa trên các bản vẽ kỹ thuật của Hà Lan.]] Từ năm 1640 và trong hơn 200 năm tiếp theo, Nhật Bản chọn chính sách "toả quốc", ngăn cấm mọi tiếp xúc với Phương Tây, bài trừ đạo Thiên Chúa, và ngăn cấm việc đóng thuyền có thể đi biển được với hình phạt gắt gao là đánh đòn hay xử tử. Dù sao việc tiếp xúc vẫn được duy trì thông qua tô giới Hà Lan tại Dejima, cho phép chuyển giao một khối lượng lớn kiến thức liên quan đến kỹ thuật Phương Tây và cuộc cách mạng khoa học. Việc học tập các môn khoa học Phương Tây, gọi là "Lan học", cho phép Nhật Bản cập nhật kiến thức trong những lĩnh vực liên quan đến khoa học hàng hải, như khoa bản đồ, quang học hay các môn khoa học cơ khí. Sự học hỏi đầy đủ kỹ thuật đóng tàu Phương Tây được tái tục vào những năm 1840 trong thời đại Hậu kỳ Edo ("Bakumatsu", 幕末, Mạc Mạt) và diễn ra mạnh mẽ trong những năm tiếp theo.
Bước đầu hiện đại hóa Hải quân các lãnh chúa
Trong những năm 1853 và 1854, Phó Đề đốc Hải quân Hoa Kỳ Matthew Perry thực hiện những cuộc biểu dương lực lượng gồm những chiến hạm chạy hơi nước mới nhất của Hải quân Mỹ. Perry cuối cùng cũng khiến cho nước Nhật phải mở cửa thông thương với quốc tế thông qua Hiệp ước Kanagawa năm 1854. Nó được tiếp nối không lâu sau đó bởi Hiệp ước Hữu nghị và Thương mại Mỹ-Nhật "bất bình đẳng" năm 1858, cho phép thành lập các tô giới nước ngoài, những nhượng địa cho người nước ngoài, và mức thuế tối thiểu đánh trên hàng nhập khẩu. nhỏ|[[Kanrin Maru, tàu chiến chạy hơi nước chân vịt đầu tiên của Nhật, 1857]]
Ngay sau khi Nhật Bản đồng ý mở cửa giao lưu với nước ngoài, Mạc phủ Tokugawa khởi sự một chính sách tích cực hấp thụ các kỹ thuật hải quân Phương Tây. Năm 1855, dưới sự giúp đỡ của Hà Lan, Mạc phủ đã có được chiếc tàu chiến chạy hơi nước đầu tiên, Kankō Maru, dùng để huấn luyện, và thành lập Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nagasaki. Năm 1857, họ có được chiếc tàu chiến chạy hơi nước chân vịt đầu tiên Kanrin Maru (Hàm Lâm Hoàn). Năm 1859, Trung tâm Huấn luyện Hải quân được chuyển đến Tsukiji ở Tokyo. Học viên hải quân được gửi đi học tại các trường hải quân Phương Tây trong nhiều năm, như trường hợp Takeaki Enomoto, người trở thành Đô Đốc trong tương lai, học tại Hà Lan từ 1862 đến 1867, là khởi đầu cho một truyền thống các nhà chỉ huy hải quân tương lai được đào tạo ở nước ngoài, như các Đô Đốc Togo Heihachiro, và sau này, Yamamoto Isoroku.
Chiếc tàu chiến hơi nước Nhật Bản đầu tiên đóng trong nước, pháo hạm Chiyodagata, 1863. Ngay từ năm 1863, không đầy 10 năm sau khi mở cửa đất nước, Nhật Bản hoàn tất chiếc tàu chiến hơi nước đầu tiên đóng trong nước, đó là chiếc pháo hạm Chiyodagata (Thiên Đại Điền Hình). Năm 1865, kỹ sư hải quân người Pháp Léonce Verny được thuê để xây dựng các xưởng hải quân hiện đại đầu tiên tại Yokosuka và Nagasaki. Trong các năm 1867-1868, một phái đoàn Hải quân Anh do thuyền trưởng Tracey dẫn đầu được gửi đến Nhật để giúp phát triển Hải quân và tổ chức Trường Hải quân Tsukiji.
nhỏ|[[Kotetsu (nguyên là chiếc CSS Stonewall), thiết giáp hạm hiện đại đầu tiên của Nhật, 1869]] Cuối thời kỳ Mạc phủ Tokugawa năm 1867, hạm đội của Mạc phủ đã là hạm đội lớn nhất khu vực Đông Á, được tổ chức chung quanh tám tàu chiến hơi nước kiểu Phương Tây và kỳ hạm Kaiyō Maru (Khai Dương Hoàn). Chúng được sử dụng chống lại các lực lượng bảo hoàng trong Chiến tranh Mậu Thìn, dưới sự chỉ huy của Đô Đốc Enomoto. Vụ xung đột leo thang đến cực điểm trong trận hải chiến Hakodate năm 1869, trận hải chiến quy mô lớn hiện đại đầu tiên của Nhật, và kết thúc bằng sự thất bại của các lực lượng Mạc phủ Tokugawa cuối cùng và phục hồi quyền lực cho Nhật Hoàng. Chiếc tàu chiến bọc thép mang tính cách mạng Kotetsu (Giáp Thiết) do Pháp chế tạo, trước đây do Mạc phủ Tokugawa đặt hàng, được phe Bảo hoàng thu nạp và được sử dụng có tính quyết định cho đến cuối cuộc xung đột này.
Quá trình thành lập Hải quân Đế quốc Nhật Bản (1869)
Ký tự [[Kanji: "Đại Nhật Bản Đế quốc Hải Quân"]] Từ năm 1868, Nhật hoàng Minh Trị sau khi nắm quyền tiếp tục công cuộc cải cách công nghiệp hóa và quân sự hóa nước Nhật nhằm ngăn ngừa Hoa Kỳ và các thế lực châu Âu lấn át họ. Ngày 17 tháng 1-1868, Binh bộ tỉnh (兵部省) được thành lập, với Tomomi Iwakura, Tadayoshi Shimazu và Hoàng tử Akihito Komatsu là các Bí thư Thứ Nhất. Chiếc tàu chiến [[Ryūjō - tàu chiến Nhật Bản|Ryūjō (Long Tương) là kỳ hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cho đến năm 1881.]] Ngày 26 tháng 3-1868, buổi duyệt binh Hải quân đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản được tổ chức tại vịnh Osaka, với sự tham gia của 6 tàu chiến từ các lực lượng hải quân của 6 phiên Saga, Chōshū, Satsuma, Kurume, Kumamoto và Hiroshima. Chúng có tải trọng tổng cộng là 2252 tấn, cộng lại vẫn còn nhỏ hơn tải trọng của một chiếc tàu ngoại quốc duy nhất (của Hải quân Pháp) cùng tham gia duyệt binh. Vào năm sau, tháng 7-1869, Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chính thức thành lập, hai tháng sau trận chiến cuối cùng của Chiến tranh Mậu Thìn.
Tháng 7-1869, các lực lượng hải quân của các lãnh địa bị giải tán, và 11 chiếc tàu của các phiên đó được sáp nhập chung vào 7 chiếc còn lại của lực lượng hải quân Mạc phủ Tokugawa để tạo nên nòng cốt của Hải quân Đế quốc Nhật Bản mới. Tháng 2-1872, Lực lượng quân sự được tách thành Lục quân tỉnh (陸軍省) và Hải quân tỉnh (海軍省). Tháng 10-1873, Kaishu Katsu trở thành Quốc vụ Đại thần Hải quân tỉnh. Chính quyền mới thảo một kế hoạch đầy tham vọng xây dựng một lực lượng hải quân gồm 200 tàu chiến tổ chức thành 10 hạm đội. Không đầy một năm sau kế hoạch này bị bỏ dở vì không có tiềm lực.
Sự hỗ trợ của Anh
nhỏ|Học viên pháo binh Hải quân trên chiếc [[Jho Sho Maru|Ryūjō, chung quanh huấn luyện viên người Anh, Đại úy Hải quân Horse (ホース中尉), đầu năm 1871.]] Trong những năm 1870 và 1880, Hải quân Đế quốc Nhật Bản vẫn còn là một lực lượng hải quân phòng thủ ven biển, cho dù chính quyền Minh Trị liên tục hiện đại hóa nó. Tàu Jo Sho Maru (sau đó đặt tên lại là Ryūjō Maru), do Thomas Glover trang bị, được hạ thủy tại Aberdeen, Scotland ngày 27 tháng 3-1869. Năm 1870, một sắc lệnh của Đế quốc quy định rằng Hải quân Hoàng gia của Vương quốc Anh sẽ là kiểu mẫu để phát triển thay vì Hà Lan.
Từ tháng 9 năm 1870, Đại úy Hải quân Horse người Anh, nguyên là huấn luyện viên về pháo binh tại phiên Saga trong giai đoạn Mạc mạt, được giao trách nhiệm hướng dẫn thực tập pháo binh trên chiếc Ryūjō. Nhật Bản đã chế được ngư lôi đầu tiên vào năm 1884, và thành lập "Trung tâm Huấn luyện Ngư lôi" ở Yakosuka vào năm 1886.
Những chiếc tàu này, được đặt hàng trong năm tài chính 1885 và 1886, là những hợp đồng lớn cuối cùng với Pháp. Vụ đắm tàu Unebi không giải thích được trên đường từ Pháp đến Nhật vào tháng 12 năm 1886, đã tạo ra sự rạn nứt về ngoại giao và nghi ngờ về khả năng thiết kế của người Pháp.
Dựa trên công nghiệp đóng tàu Anh Quốc
nhỏ|tàu phóng lôi Kotaka (1887) Nhật Bản tiếp tục nhờ đến sự hỗ trợ của Anh Quốc, với yêu cầu về một loại tàu phóng lôi mang tính cách mạng, chiếc Kotaka năm 1887, con tàu được coi là mẫu tàu khu trục thiết kế hiệu quả đầu tiên. Năm 1889, Nhật Bản đặt mua loại tàu Chiyoda được đóng trên sông Clyde, đây là một loại tuần dương hạm bọc thép.
Sau năm 1882 (cho tới 1918, với chuyến thăm của phái đoàn quân sự Pháp tới Nhật Bản), Hải Quân Đế quốc Nhật Bản ngừng phụ thuộc vào các chuyên gia huấn luyện nước ngoài. Họ tự sản xuất thuốc súng nâu cho riêng mình năm 1886, đến năm 1892, một trong những sĩ quan của họ đã chế tạo ra loại thuốc súng có sức công phá lớn, thuốc súng Shimose.]] Hải quân Nhật Bản đã phá hủy Hạm đội Bắc Dương của nhà Thanh nằm ở ngoài cửa sông Nha Lục trong Cuộc chiến sông Nha Lục vào ngày 17 tháng 9 năm 1894, trong đó hạm đội Trung Quốc bị mất 8 trong 12 tàu chiến. Dù Nhật Bản giành được chiến thắng, hai thiết giáp hạm được chế tạo tại Đức của Hải quân Trung Quốc vẫn nguyên vẹn sau khi bị pháo Nhật bắn phá, nêu bật sự cần thiết phải có tàu chủ lực trong Hải quân Nhật Bản (chiếc Đinh Viễn cuối cùng đã bị ngư lôi đánh chìm và Trấn Viễn đã bị bắt giữ với ít hư hỏng). Bước tiếp theo của quá trình mở rộng Hải quân Đế quốc Nhật Bản do đó bao gồm cả việc kết hợp các tàu chiến lớn có trang bị vũ khí hạng nặng với các thiết bị tấn công đã được cải tiến và nhỏ gọn hơn, cho phép thực hiện các chiến thuật mạnh mẽ hơn.
Do kết quả của cuộc xung đột, theo Hiệp ước Shimonoseki (Mã Quan) (ngày 17 tháng 4 năm 1895), Đài Loan và quần đảo Bành Hồ đã được chuyển giao cho Nhật Bản. Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã giành được quyền kiểm soát các đảo này và đàn áp các phong trào chống đối trong giai đoạn từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1895, và các đảo này tiếp tục là thuộc địa của Nhật Bản cho đến năm 1945. Nhật Bản cũng giành được Bán đảo Liêu Đông, dù Nhật bị Nga buộc phải trả lại bán đảo này cho Trung Quốc, và Nga đã chiếm lấy nó ngay sau đó.
Dập tắt cuộc nổi dậy của Nghĩa Hòa Đoàn (1900)
nhỏ|Hải quân Nhật dưới sự chỉ huy của sĩ quan chỉ huy Anh [[Edward Hobart Seymour|Seymour trong cuộc Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn.]]
Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã can thiệp sâu hơn vào Trung Quốc trong năm 1900 thông qua việc tham gia cùng với các cường quốc phương Tây trong việc đàn áp cuộc khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn. Hải quân Nhật đã cung cấp một số lượng các tàu chiến lớn nhất (18 trong tổng số 50 tàu chiến), và đã gửi đội quân lớn nhất trong số các đơn vị Hải quân Nhật Bản tham gia vào lực lượng các quốc gia can thiệp vào vụ đàn áp này (20.840 lính trong số tổng số 54.000).
Cuộc xung đột đã cho phép Nhật Bản tham chiến cùng với các quốc gia phương Tây, và học hỏi trực tiếp các phương pháp tác chiến của họ.
Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905)
Sau cuộc chiến tranh Thanh-Nhật, bị nhục nhã do buộc phải trả lại Bán đảo Liêu Đông cho Trung Quốc dưới sức ép của Nga ("Tam quốc can thiệp"), Nhật Bản bắt tay vào xây dựng sức mạnh quân đội để chuẩn bị cho các cuộc đối đầu sau này.
Nhật đã ban hành một chương trình xây dựng hải quân trong mười năm, dưới khẩu hiệu "Nằm gai nếm mật" (臥薪嘗胆, ngọa tân thường đảm). Theo kế hoạch này, Nhật cho gia nhập đội tàu thường trực 109 tàu chiến, tổng số 200.000 tấn và tăng số lượng nhân sự hải quân từ 15.100 lên 40.800 lính. Đội tàu chiến mới bao gồm: nhỏ|Mikasa, tàu chiến mạnh nhất vào thời của nó, năm 1905. Tàu ngầm hạng [[John Philip Holland|Holland 1, kiểu đầu tiên của tàu ngầm Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được mua trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật.]]
- 6 thiết giáp hạm (đều do Anh chế tạo)
- 8 tàu tuần dương bọc thép (4 chế tạo tại Anh, 2 chế tạo tại Italia, 1 chế tạo tại Đức - Yakumo, và một tại Pháp - Azuma)
- 9 tuần dương hạm (5 chế tạo tại Nhật Bản, 2 tại Anh và 2 tại Mỹ)
- 24 khu trục hạm (16 chế tạo tại Anh và 8 tại Nhật)
- 63 thủy lôi hạm (26 chế tạo tại Đức, 10 tại Anh, 17 tại Pháp, và 10 tại Nhật)
Một trong những chiếc thiết giáp hạm này, Mikasa, chiếc tiên tiến nhất vào thời của nó. Đội tàu chiến Nga hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn: trong số 38 tàu chiến Nga, 21 chiếc bị đánh chìm, 7 bị bắt giữ, 6 bị giải giáp, 4.545 quân Nga tử vong và 6.106 quân bị bắt làm tù binh. Thế nhưng, Nhật chỉ mất có 116 quân và bị phá hủy 3 tàu phóng ngư lôi. Các thắng lợi này của Nhật đã triệt tiêu hoàn toàn sức mạnh của Nga ở Đông Á và đã gây ra nhiều cuộc nổi loạn của quân sĩ trong Hải quân Nga tại Sevastopol, Vladivostok và Kronstadt mà đỉnh điểm là tháng 6 với cuộc nổi loạn của thiết giáp hạm Potemkin, góp phần dẫn đến cuộc Cách mạng Nga năm 1905.
Trong cuộc chiến Nga-Nhật, Nhật Bản cũng thực hiện những nỗ lực mạnh bạo để phát triển và xây dựng một đội tàu ngầm. Tàu ngầm chỉ trở thành các tàu chiến trước thời điểm đó không lâu và đã được xem là vũ khí đặc biệt có tiềm năng to lớn. Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã mua được những chiếc tàu ngầm đầu tiên vào năm 1905 từ Electric Boat Company của Hoa Kỳ, chỉ sau 4 năm sau khi Hải quân Hoa Kỳ trang bị chiếc tàu ngầm đầu tiên cho cho mình, chiếc USS Holland. Những chiếc tàu ngầm này được sản xuất theo thiết kế của Holland. Chúng được chở dưới dạng linh kiện rời đến Nhật Bản và được lắp ráp ở Nhà máy đóng tàu Hải quân Yokosuka, trở thành thân tàu Số 1 đến 5, và bắt đầu vận hành vào cuối năm 1905.
Tiến đến một lực lượng hải quân quốc gia tự chủ
nhỏ|Satsuma, tàu thủy đầu tiên trên thế giới được thiết kế để chuyển thành một tàu chiến [[HMS Dreadnought (1906)|hoàn toàn là súng lớn (all-big-gun).]]
Nhật Bản đã tiếp tục các nỗ lực xây dựng một ngành công nghiệp hải quân quốc gia mạnh. Theo một chiến lược "Sao chép, Cải tiến, Đổi mới".
- Giữa năm 1905 và 1910, Nhật Bản đã bắt đầu tự đóng thiết giáp hạm trong nước. Thiết giáp hạm Satsuma đã được chế tạo ở Nhật Bản vào năm 1906 với khoảng 80% linh kiện phụ tùng từ Anh, nhưng lớp tiếp theo, lớp Kawachi đóng năm 1910 được đóng với chỉ 20% linh kiện phụ tùng nhập khẩu.
Chiến tranh Thế giới lần thứ I
Nhật Bản đã bước vào cuộc Thế chiến I bên phe Đồng minh, chống lại Đế quốc Đức và Đế quốc Áo-Hung, như một sự nối dài tự nhiên của Liên minh Anh-Nhật năm 1902.
nhỏ|[[Tàu thủy mang thủy phi cơ Wakamiya của Nhật Bản thực hiện cuộc không tạc từ biển đầu tiên của thế giới tháng 9 năm 1914.]]
Tại Trận chiến Thanh Đảo, Hải quân Nhật Bản đã chiếm được căn cứ hải quân Thanh Đảo của Đức. Trong cuộc chiến này, bắt đầu ngày 5 tháng 9 năm 1914, Wakamiya đã thực hiện các cuộc tấn công không tạc phóng ra từ biển đầu tiên từ Vịnh Giao Châu. Bốn chiếc thủy phi cơ Maurice Farman đã ném bom các mục tiêu trên đất của Đức (các trung tâm liên lạc và chỉ huy) và làm hư hỏng 1 tàu thả thủy lôi tại bán đảo Thanh Đảo từ tháng 9 đến khi người Đức đầu hàng vào ngày 6 tháng 11 năm 1914.
Đồng thời, một nhóm chiến đấu cũng được phái đến trung tâm Thái Bình Dương trong tháng 8 và tháng 9 để truy kích Đội tàu Đông Á Đức, lúc đó đang di chuyển về phía Nam Đại Tây Dương, nơi nó đụng độ với các lực lượng hải quân Anh và đã bị phá hủy trong Trận chiến đảo Falkland. Nhật đã thu được các thuộc địa trước đó của Đức ở Micronesia (quần đảo Mariana ngoại trừ Guam, quần đảo Caroline và quần đảo Marshall), những đảo này trở thành thuộc địa của Nhật Bản cho đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, thuộc Ủy trị Nam Thái Bình Dương của Hội Quốc Liên.
Bị sức ép mạnh tại châu Âu, nơi lực lượng chỉ có ưu thế hơi nhỉnh hơn Đức, Anh Quốc đã yêu cầu mượn 4 chiếc thiết giáp hạm mới nhất hạng Kongō của Nhật (Kongō, Hiei, Haruna, và Kirishima), những tàu chiến đầu tiên trên thế giới trang bị pháo Hải pháo Vicker 14 inch/45, và là những tàu chiến chủ lực chắc chắn nhất thế giới thời đó, nhưng bị Nhật từ chối. Nhật, giống như Anh, hầu như bị phụ thuộc hoàn toàn vào tài nguyên nước ngoài để cung cấp cho nền kinh tế. Để đạt được các chính sách bành trướng của mình, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã phải xác lập và bảo vệ các nguồn nguyên liệu thô ở nơi xa xôi (đặc biệt là các nguyên liệu thô và dầu mỏ ở Đông Nam Á), đang thuộc quyền kiểm soát của nước ngoài (Anh, Pháp và Hà Lan). Để đạt được mục tiêu này, Nhật phải đóng các thiết giáp hạm lớn có thể hoạt động tầm xa.
Điều này xung đột với học thuyết "hạm đội quyết chiến" . Đó là do ảnh hưởng của học thuyết do Alfred T. Mahan đề ra, mà tất cả các lực lượng hải quân chủ yếu trên thế giới trước Thế Chiến II đều công nhận, trong đó nó cho là chiến tranh được quyết định trong các trận đối đầu giữa các hạm đội mặt nước (như đã từng xảy ra trong cả 300 năm nay). Nó là căn cứ để Nhật Bản đòi hỏi một tỉ lệ 70% (10:10:7) so với hai đại cường Anh Mỹ tại Hội nghị Hải quân Washington, mà điều đó sẽ cho Nhật Bản một ưu thế trong "khu vực quyết chiến", trong khi Mỹ nhấn mạnh một tỉ lệ 60%, có nghĩa là cân bằng
Đại úy Sempill đang trình bày chiếc Sparrowhawk cho Đô đốc [[Tōgō Heihachirō|Togo Heihachiro, 1921.]] Những năm giữa hai cuộc đại chiến, Nhật Bản dẫn đầu trong nhiều lĩnh vực phát triển hải quân:
- Năm 1921, hạ thủy Hōshō, chiếc đầu tiên trên thế giới được thiết kế ngay từ đầu làm tàu sân bay và sau đó phát triển một đội tàu sân bay độc nhất vô nhị trên thế giới.
- Theo sát với học thuyết tàu lớn của nó, Hải quân Đế quốc là lực lượng hải quân đầu tiên trên thế giới trang bị pháo 356 mm (14 in) (trên chiếc Kongō), pháo 406 mm (16 in) (trên chiếc Nagato), và là lực lượng hải quân duy nhất trên thế giới trang bị pháo 460 mm (18,1 in) cho lớp Thiết giáp hạm Yamato.
- Năm 1928, nó cho hạ thủy một hạng tàu khu trục cải tiến, lớp Fubuki, được trang bị tháp pháo hoàn toàn kín có gắn cặp pháo 5-inch có khả năng chống máy bay. Thiết kế hạng tàu khu trục mới này nhanh chóng được các lực lượng hải quân khác bắt chước. Lớp Fubuki cũng được trang bị ống phóng ngư lôi kín đầu tiên chống được mảnh đạn.
- Nhật Bản cũng phát triển kiểu ngư lôi Kiểu 93 610 mm (24 in) có nạp oxy, được xem là kiểu ngư lôi tốt nhất thế giới cho đến tận cuối Thế Chiến II.
Đến năm 1921, chi tiêu dành cho hải quân của Nhật Bản đã đạt đến gần 32% ngân sách quốc gia. Đến năm 1941, Hải quân Đế quốc sở hữu 10 thiết giáp hạm, 10 tàu sân bay, 38 tàu tuần dương (hạng nặng và hạng nhẹ), 112 tàu khu trục, 65 tàu ngầm, và một số lượng lớn tàu phụ trợ.
Hải quân Nhật đạt được những thắng lợi ngoạn mục trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh, nhưng lực lượng Mỹ cuối cùng cũng giành lại được ưu thế nhờ cải tiến kỹ thuật cho các lực lượng không quân và hải quân, và do sản lượng công nghiệp chiến tranh vượt trội. Việc Nhật chỉ miễn cưỡng sử dụng hạm đội tàu ngầm trong việc đánh phá giao thông, và thất bại trong việc bảo vệ đường giao thông của chính họ cũng góp phần vào sự thất bại. Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, Hải quân Nhật sử dụng đến một loạt các biện pháp liều lĩnh, bao gồm các kiểu tấn công tự sát của các "đơn vị tấn công đặc biệt" (thường được gọi là kamikaze, 神風, thần phong).
Thiết giáp hạm
nhỏ|phải|[[Yamato (thiết giáp hạm Nhật)|Yamato, chiếc thiết giáp hạm lớn nhất trong lịch sử, năm 1941.]] Nhật Bản tiếp tục đóng góp vào việc phô trương thanh thế của thiết giáp hạm và nỗ lực chế tạo những chiếc thiết giáp hạm to nhất và mạnh nhất thời đó. Yamato, chiếc thiết giáp hạm to nhất và là vũ khí mạnh nhất trong lịch sử nước Nhật, được hạ thủy năm 1941.
Giai đoạn sau của Thế Chiến II chứng kiến sự đối đầu cuối cùng giữa các tàu chiến lớn. Trong trận hải chiến Guadalcanal ngày 15 tháng 11-1942, các thiết giáp hạm Mỹ South Dakota và Washington chiến đấu và đánh chìm chiếc Kirishima. Trong Trận chiến vịnh Leyte ngày 25 tháng 10 năm 1944, sáu chiếc thiết giáp hạm Mỹ dưới sự chỉ huy của Đô Đốc Jesse Oldendorf thuộc Đệ Thất Hạm Đội đã bắn chìm những thiết giáp hạm của Đô Đốc Shoji Nishimura: chiếc Yamashiro và chiếc Fusō trong trận đánh eo biển Surigao; cho dù trong thực tế, cả hai chiếc thiết giáp hạm Nhật đã bị phá hỏng do những cuộc tấn công bằng ngư lôi của các tàu tuần dương, trước khi chịu đựng hỏa lực của những chiếc tàu cũ kỹ của Oldendorf.
Dù sao, trận đánh ngoài khơi Samar ngày 25 tháng 10-1944 trong Trận chiến vịnh Leyte chứng minh các thiết giáp hạm vẫn còn có thể hữu ích, cho dù vũ khí không hiệu quả. Chỉ nhờ sự kém quyết đoán của Đô đốc Takeo Kurita và sự kháng cự của các tàu khu trục và tàu khu trục hộ tống Mỹ đã cứu các tàu sân bay hộ tống Mỹ thuộc lực lượng "Taffy 3" khỏi bị nhấn chìm xuống đáy biển bởi hỏa lực pháo của Yamato, Kongō, Haruna, Nagato và những tàu tuần dương hộ tống. Thật là điều kỳ diệu cho phía Mỹ khi chỉ có chiếc tàu sân bay hộ tống USS Gambier Bay, cùng hai tàu khu trục và một tàu khu trục hộ tống bị mất trong trận này.
Sau này, sự phát triển của không lực báo hiệu sự kết thúc của các thiết giáp hạm. Tại Thái Bình Dương, chúng chỉ được dùng chủ yếu trong nhiệm vụ bắn phá các mục tiêu ven bờ và hỏa lực phòng không bảo vệ các tàu sân bay. Yamato và Musashi bị đánh chìm bởi các cuộc tấn công bằng không lực trước khi đến được tầm bắn pháo vào hạm đội Mỹ. Vì kỹ thuật đã thay đổi, kế hoạch cho những chiếc thiết giáp hạm, thậm chí to hơn, như lớp tàu Siêu Yamato, đã bị hủy bỏ.
Tàu sân bay
Nhật Bản chú trọng đặc biệt đến các tàu sân bay. Hải quân Đế quốc Nhật Bản khởi đầu chiến cuộc Thái Bình Dương với 10 tàu sân bay, lực lượng tàu sân bay lớn nhất và hiện đại nhất thế giới lúc đó. Ngoài ra, Hải quân Nhật còn đi đầu về chiến lược sử dụng kết hợp nhiều tàu sân bay với các hạm đội tàu sân bay (Kōku Sentai) và việc thành lập Hạm đội Hàng không thứ nhất(Dai-ichi Kōku Kantai) cho phép tối ưu hóa hỏa lục của các tàu sân bay. Có bảy tàu sân bay Mỹ lúc bắt đầu chiến sự, nhưng chỉ có ba chiếc tại Thái Bình Dương; và người Anh có ba chiếc trong đó chỉ có một chiếc hoạt động tại Ấn Độ Dương. Hai chiếc tàu sân bay hạng Shōkaku của Hải quân Nhật là những chiếc hiện đại nhất thời đó, cho đến khi có sự xuất hiện của hạng tàu Essex Mỹ. Tuy vậy, một số lượng lớn các tàu sân bay Nhật là cỡ nhỏ, bị khống chế tải trọng theo quy định của các hiệp ước hải quân Luân Đôn và Washington.
Theo sau Trận chiến Midway, trong đó bốn tàu sân bay hạm đội của Nhật bị đánh chìm, Hải quân Nhật đột nhiên nhận ra họ bị thiếu các tàu sân bay hạm đội (cũng như các đội bay được huấn luyện), đưa đến các kế hoạch đầy tham vọng cải biến các tàu buôn và tàu quân sự trở thành tàu sân bay hộ tống, như chiếc Hiyō. Một kế hoạch khác cải biến chiếc Shinano, dựa trên một chiếc thiết giáp hạm lớp Yamato chưa hoàn thành, trở thành chiếc tàu sân bay có tải trọng lớn nhất của Thế Chiến II. Hải quân Nhật cũng có những dự định chế tạo một số chiếc tàu sân bay lớn cỡ hạm đội, nhưng hầu hết các kế hoạch này chưa hoàn tất khi cuộc chiến kết thúc. Một ngoại lệ là chiếc Taihō, tàu sân bay Nhật Bản đầu tiên và duy nhất có sàn đáp bọc thép và có mũi tàu kín chống bão.
Không lực Hải quân
nhỏ|phải|Máy bay trên tàu sân bay [[Tàu sân bay Nhật Bản Shokaku|Shokaku chuẩn bị cất cánh để tấn công Trân Châu Cảng.]] nhỏ|Máy bay phản lực đầu tiên của Nhật Bản, chiếc [[Nakajima Kikka|Nakajima J9Y Kikka của Hải quân (1945).]] Nhật Bản bắt đầu chiến tranh với một lực lượng không lực hải quân khá mạnh mẽ, với những kiểu máy bay thuộc vào hàng tốt nhất thời đó: chiếc Zero được xem là chiếc máy bay tiêm kích tốt nhất hoạt động trên tàu sân bay thời đầu chiến tranh, máy bay ném bom Mitsubishi G3M có tầm bay xa và tốc độ rất tốt, và chiếc Kawanishi H8K là chiếc thủy phi cơ tốt nhất thế giới. Các đội bay Nhật vào đầu chiến tranh có tiềm lực hàng đầu so với các lực lượng trên thế giới lúc đó nhờ việc huấn luyện nghiêm ngặt và đầy kinh nghiệm chiến trường thông qua cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Hải quân cũng có một lực lượng ném bom chiến thuật khá mạnh dựa trên kiểu máy bay G3M và G4M, gây chấn động thế giới khi là những máy bay đầu tiên đánh chìm những tàu chiến chủ lực đang hoạt động, chiếc thiết giáp hạm Prince of Wales và chiếc tàu chiến-tuần dương Repulse của Hải quân Hoàng gia Anh.
Khi chiến tranh tiếp diễn, phe Đồng Minh phát hiện những điểm yếu của Không lực Hải quân Nhật. Cho dù đa số máy bay Nhật có tầm bay xa, chúng lại rất yếu về vũ khí phòng thủ và vỏ giáp. Kết quả là những chiếc máy bay Mỹ với số lượng nhiều, vũ khí mạnh, vỏ giáp dày, cùng với chiến thuật thích hợp được phát triển để vô hiệu hóa các ưu thế và lợi dụng các điểm yếu của Nhật. Các biện pháp này được đưa ra áp dụng sớm ngay từ tháng 12-1941, sau những bài học rút ra được từ kinh nghiệm của Flying Tigers (Đội Phi Hổ) của tướng Clair Chennault tại Trung Hoa. Về phía Nhật, nhiều kiểu thiết kế mới cạnh tranh hơn cũng được phát triển trong quá trình chiến tranh, nhưng những sự chậm trễ trong việc chế tạo động cơ, nền công nghiệp yếu kém, thiếu nguyên vật liệu, và sự hỗn loạn do các cuộc ném bom của Đồng Minh đã ảnh hưởng đến việc chế tạo hàng loạt. Hơn nữa, Hải quân Nhật không có một chương trình đào tạo hiệu quả và nhanh chóng các phi công mới, vì thường phải mất hai năm mới đào tạo xong một phi công hoạt động trên tàu sân bay. Do đó, sau những thành công ban đầu trên chiến trường Thái Bình Dương, họ đã không có khả năng thay thế hiệu quả những đội bay dày dạn kinh nghiệm bị tổn thất. Các đội bay kém kinh nghiệm của Hải quân Nhật được thể hiện rõ nhất trong Trận chiến biển Philippine, khi máy bay bị bắn rơi hàng loạt bởi phi công Hải quân Mỹ, theo cách mà người Mỹ gọi là "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại." Sau Trận chiến vịnh Leyte, Hải quân Nhật càng thiên về xu hướng bố trí máy bay tấn công theo kiểu cảm tử kamikaze.
Cho đến cuối chiến tranh, nhiều kiểu máy bay mới tốt hơn xuất hiện, như chiếc Shiden năm 1943, nhưng hầu như đã quá trễ và không đủ số lượng (chỉ có 415 chiếc Shiden) để ảnh hưởng đến tình thế. Cũng xuất hiện một số thiết kế máy bay hoàn toàn mới về căn bản, như kiểu máy bay có cánh mũi Shinden, và đặc biệt là máy bay phản lực Kikka và máy bay rocket J8M. Những kiểu này một phần dựa trên công nghệ được chuyển giao từ Đức Quốc xã, thường chỉ dưới dạng những bản vẽ đơn giản, nên các nhà thiết kế Nhật đã phải đóng vai trò quan trọng trên các chi tiết kỹ thuật cụ thể. Những phát triển này cũng quá trễ để phục vụ cho chiến tranh. Kikka chỉ bay được một lần trước khi chiến tranh kết thúc.
Tàu ngầm
nhỏ|Một chiếc tàu ngầm thuộc [[tàu ngầm lớp I-400|Lớp I-400, kiểu tàu ngầm lớn nhất của Thế Chiến II.]]
Nhật Bản là nước có nhiều chủng loại tàu ngầm nhất trong Thế Chiến II, bao gồm ngư lôi có người lái (Kaiten), tàu ngầm bỏ túi (Ko-hyoteki, Kairyu), tàu ngầm tầm trung, tàu ngầm chế tạo dùng cho tiếp vận (một số được Lục quân sử dụng), tàu ngầm hạm đội tầm xa (nhiều chiếc mang theo một máy bay), tàu ngầm có tốc độ lặn nhanh nhất của Thế Chiến II (Senkou I-200), và tàu ngầm có thể mang nhiều máy bay ném bom (tàu ngầm lớn nhất của Thế Chiến II, chiếc Sentoku I-400). Những tàu ngầm này cũng được trang bị ngư lôi tiên tiến nhất cuộc chiến này là ngư lôi Kiểu 95, một phiên bản 533 mm (21") cải tiến từ Kiểu 91 61 cm (24") nổi tiếng.
Một máy bay cất cánh từ một chiếc tàu ngầm hạm đội tầm xa, chiếc I-25, đã tiến hành vụ tấn công ném bom duy nhất ở lục địa Hoa Kỳ khi Chuẩn úy Nobuo Fujita dự định gây ra một vụ cháy rừng trên diện rộng tại Tây Bắc Thái Bình Dương cạnh thị trấn Brookings, Oregon ngày 9 tháng 9-1942. Những tàu ngầm khác thi hành các nhiệm vụ liên đại dương đến lãnh thổ châu Âu do Đức chiếm đóng, như những chiếc I-30, I-8, I-34, I-29 và I-52, trong một trường hợp đã cho bay một chiếc thủy phi cơ Nhật bên trên nước Pháp trong một hành động mang tính tuyên truyền. Tháng 5-1942, những tàu ngầm bỏ túi Kiểu A được sử dụng trong vụ Tấn công cảng Sydney, và trong Trận chiến Madagascar. nhỏ|Tàu ngầm [[Tàu ngầm Nhật Bản I-8|I-8 tại Brest, Pháp năm 1943.]] Cho dù có năng lực kỹ thuật, các tàu ngầm Nhật nói chung không được thành công. Chúng thường được sử dụng trong vai trò tấn công các tàu chiến mặt nước (theo học thuyết Mahan), vốn chạy nhanh, cơ động và được vũ trang tự vệ tốt hơn những chiếc tàu buôn. Năm 1942, các tàu ngầm Nhật đánh chìm được hai chiếc tàu sân bay hạm đội, một tàu tuần dương, vài tàu khu trục và một vài tàu quân sự khác, và gây hư hại cho nhiều chiếc. Chúng không thể giữ được thành tích những năm sau đó khi các hạm đội Đồng Minh được củng cố và bắt đầu áp dụng các chiến thuật chống tàu ngầm tốt hơn. Từ đó đến hết chiến tranh, thay vào đó, tàu ngầm được dùng trong việc tiếp nhiên liệu đến các đơn vị đồn trú trên các đảo. Trong suốt cuộc chiến, tàu ngầm Nhật đã đánh chìm được khoảng 1 triệu tấn tàu buôn (184 chiếc), so với thành tích 1,5 triệu tấn của Anh (493 chiếc), 5,3 triệu tấn (1.314 chiếc) của Mỹ, và 14,3 triệu tấn của Đức (2.840 chiếc).
Những kiểu đầu tiên không được cơ động lắm khi ở dưới nước, không thể lặn thật sâu, và không được trang bị radar. Sau đó, những chiếc được trang bị radar trong một vài tình huống bị đánh chìm do khả năng của các bộ radar Mỹ có thể phát hiện sự phát sóng. Ví dụ, chiếc Batfish (SS-310) đã đánh chìm ba chiếc tàu ngầm trong vòng bốn ngày. Khi kết thúc chiến tranh, nhiều chiếc tàu ngầm nguyên bản của Nhật Bản được gửi đến Hawaii để khảo sát trong "Chiến dịch Road's End" (đường cùng), gồm có I-400, I-401, I-201 và I-203) trước khi bị đánh đắm bởi Hải quân Mỹ năm 1946, khi phía Xô Viết yêu cầu quyền cùng được tiếp cận các tàu ngầm này.
Các đơn vị đặc công
phải|nhỏ|Máy bay cảm tử [[Mitsubishi A6M Zero|Mitsubishi Zero chuẩn bị tấn công thiết giáp hạm Missouri Hoa Kỳ.]] Cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, hải quân Nhật đã thành lập rất nhiều các đội đặc công (特別攻撃隊, tokubetsu kōgeki tai, thường được gọi tắt là 特攻隊, tokkōtai) với nhiệm vụ chiến đấu cảm tử để bù đắp cho việc hạm đội tàu chính bị tiêu diệt. Những đơn vị này bao gồm các máy bay Kamikaze ("thần phong"), các tàu cảm tử Shinyo ("trấn dương"), tàu ngầm cảm tử nhỏ Kairyu ("Hải long"), ngư lôi cảm tử Kaiten ("Hồi thiên") và những thợ lặn cảm tử Fukuryu ("Phục long"), những người đã bơi dưới thuyền và sử dụng những chất nổ đặt trên cọc tre để tiêu diệt tàu và chính người đặt mìn cũng chết. Các máy bay Kamikaze đã tỏ ra cực kỳ hiệu quả trong việc phòng thủ Okinawa, trong đó 1.465 máy bay đã được dùng nhằm phá hỏng 250 tàu chiến Mỹ.
Một lượng khá lớn các đơn vị đặc công được xây dựng và tích lũy tại vùng ven biển cho các cuộc phòng thủ cảm tử trên đất liền, các đơn vị này có khả năng tiêu diệt và làm hư hại hàng nghìn tàu chiến kẻ thù.
Lực lượng Tự vệ Nhật Bản
nhỏ|Các thủy thủ Nhật bên cạnh chiếc tàu huấn luyện [[JDS Kashima|JDS Kashima của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản, tại Trân Châu Cảng, ngày 4 tháng 5, năm 2004]]
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai và sự chiếm đóng của các lực lượng nước ngoài tại Nhật Bản sau đó, toàn bộ quân đội đế quốc của Nhật đã bị giải tán theo Hiến pháp mới năm 1947, với toàn văn chương 2 điều 9, Nhân dân Nhật Bản thành thật mong muốn một nền hoà bình quốc tế dựa trên chính nghĩa và trật tự, cam kết vĩnh viễn không phát động chiến tranh như là một phương tiện giải quyết xung đột quốc tế bao gồm chiến tranh xâm phạm chủ quyền dân tộc và các hành vi vũ lực hoặc các hành vi đe doạ bằng vũ lực. Để thực hiện mục đích ghi ở trên, lục quân, hải quân và không quân cũng như các tiềm lực chiến tranh khác sẽ không được duy trì. Quyền tham chiến của đất nước sẽ không được công nhận. Hải quân Nhật hiện nay đứng dưới danh nghĩa của Lực lượng Tự vệ Nhật Bản (JSDF) với cái tên Lực lượng Tự vệ Biển Nhật Bản (JMSDF).