✨Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản
Bộ đội Hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản hay Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản ( là binh chủng không quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Cũng giống như quân chủng Lục quân nói chung chủ yếu được mô phỏng theo Quân đội Đức, Bộ đội hàng không ban đầu được phát triển theo đường lối tương tự Không quân Lục quân Đế quốc Đức (tức Luftstreitkräfte); nhiệm vụ chính của binh chủng này là hỗ trợ không lực tầm gần cho lực lượng mặt đất, cũng như đánh chặn trên không, tuy khả năng này còn hạn chế. Binh chủng cũng thực hiện trinh sát trên không cho nhiều binh chủng khác của Lục quân. Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật còn tham gia ném bom chiến lược vào nhiều thành phố như Thượng Hải, Nam Kinh, Quảng Châu, Trùng Khánh, Rangoon và Mandalay, dù đây không phải là nhiệm vụ chính của binh chủng này, vào thời điểm đó binh chủng thậm chí còn thiếu lực lượng oanh tạc cơ hạng nặng.
Binh chủng này cũng không thường xuyên triển khai máy bay quan sát/dò tìm pháo binh địch; mà giao cho các tiểu đoàn pháo binh dưới mặt đất điều khiển máy bay hạng nhẹ cùng khinh khí cầu làm vai trò này.
Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản vẫn chịu hầu hết trách nhiệm về oanh tạc cơ và tấn công tầm xa, cũng như phòng không chiến lược. Mãi đến giai đoạn sau của Chiến tranh Thái Bình Dương, hai lực lượng không quân này mới cố gắng hợp lại để bảo vệ các đảo quê hương. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Observation_balloon_RAE-O982a.jpg|nhỏ|Khí cầu quan sát điển hình trước Chiến tranh thế giới thứ nhất. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Louis_Paulhan_flying_with_a_passenger_(Mrs._Dick_Ferris%3F)_in_his_Henry_Farman_biplane,_at_the_Dominguez_Field_Air_Meet,_Los_Angeles,_January_1910_(CHS-5602).jpg|phải|nhỏ|200x200px|Phi cơ cánh đôi Farnham III liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Kiyotake_Shigeno_01.jpg|phải|nhỏ|189x189px|Shigeno Kiyotake (滋野清武)
Lịch sử
Nguồn gốc
Quân đội Nhật Bản bắt đầu quan tâm đến khinh khí cầu vào giữa thế kỉ 19, sau khi ghi nhận quân đội các nước châu Âu sử dụng. Năm 1874, người Nhật lần đầu tiên tiến hành thử nghiệm bay lên tại một trường quân sự thiếu sinh quân. Nước Nhật bắt đầu chế tạo khinh khí cầu của riêng họ vào năm 1877, dựa trên một chiếc mua được của Pháp. Nhà công nghiệp Yamada Isaburô, bắt đầu phát triển khinh khí cầu hiđrô vào năm 1897. Năm 1900, ông phát minh ra khinh khí cầu hình trụ rồi bán cho Quân đội Đế quốc Nhật Bản. Quân đội lần đầu tiên triển khai những khinh khí cầu này trong Chiến tranh Nga–Nhật năm 1904-1905, nhằm phát hiện pháo binh đối phương.
Năm 1907, Trung tá Eisuke Yamamoto tiếp xúc với Tướng Terauchi Masatake, Bộ trưởng Lục quân và Đô đốc Minoru Saitō, Bộ trưởng Hải quân. Họ cùng xây dựng một chính sách hàng không, thành lập một đơn vị khinh khí cầu quân sự chuyên dụng. Năm 1909, cùng với Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Đại học Đế quốc Tōkyō, Rinji Gunyo Kikyu Kenkyukai (tức Hội Nghiên cứu Khinh khí cầu Quân sự Lâm thời) được thành lập. Hội do Thiếu tướng Masahiko Obama làm chủ tịch và tiếp tục thúc đẩy chính sách hàng không của Nhật Bản cho đến năm 1920. Trong tháng 3 năm đó, Trung úy Lục quân Hino và Kĩ sư Hải quân Sanji Narahara mỗi người thiết kế một chiếc máy bay. Narahara đã bay chiếc máy bay này vào ngày 5 tháng 5 năm 1910, trở thành phi cơ đầu tiên do Nhật Bản chế tạo làm được như vậy. Các thiết kế sau đó đều không thành công, Lục quân và Hải quân quyết định sử dụng máy bay nhập từ nước ngoài cho đến khi có thể xây dựng đủ trình độ kĩ thuật ở Nhật Bản để thiết kế máy bay của riêng mình.
Năm 1910, hội cử Đại úy Yoshitoshi Tokugawa và Đại úy Hino Kumazō lần lượt sang Pháp và Đức để nhận đào tạo phi công và mua máy bay. Quân đội Nhật Bản đã mua chiếc phi cơ đầu tiên, đó là một chiếc hai tầng cánh Farman và một chiếc cánh đơn Grade, được các sĩ quan từ Tây Âu mang về. Vào ngày 19 tháng 12 năm 1909, Cơ trưởng Yoshitoshi Tokugawa trên chiếc Farman III đã thực hiện chuyến bay chạy bằng năng lượng đầu tiên thành công trên đất Nhật Bản tại Sân diễu hành Yoyogi ở Tokyo. Năm sau, 1911, một số máy bay khác đã được nhập khẩu, một phiên bản cải tiến của máy bay hai tầng cánh Farman III là Kaishiki Số 1, được chế tạo và bay tại Nhật Bản bởi Đại úy Togugawa. Cũng trong năm 1911, một quyết định chính sách được đưa ra, chính thức tách không lực Lục quân và Hải quân thành hai nhánh riêng biệt.
Một số phi công Nhật Bản đã phục vụ cho đoàn bay Pháp trong cuộc chiến. Shigeno Kiyotake gia nhập đoàn bay vào tháng 12 năm 1914. Ông là thành viên của liên đoàn quân át chủ bài của Pháp, được xác nhận đã bắn hạ hai máy bay Đức, sáu máy bay chưa được xác nhận . Ông được trao tặng Ordre national de la Légion d'honneur, huân chương cao quý nhất của nước Pháp. Kobayashi Shukunosuke trở thành phi công được cấp phép vào tháng 12 năm 1916, tử trận trong Trận tiến công mùa Xuân 1918. Sau này ông được truy tặng giải thưởng Croix de Guerre. Isobe Onokichi, Ishibashi Katsunami, Masaru Kaiya (Hải quân), Tadao Yamanaka, Masatoshi Takeishi, Isakitchy Nagao và Moro Goroku, một kĩ sư máy bay của Kawasaki, cũng từng phục vụ trong Đoàn bay Pháp. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:FrenchMilitaryMissionToJapan.jpg|nhỏ|Phái bộ quân sự Pháp tới Nhật năm 1918-1919. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Khabarovsk_intervention.jpg|nhỏ|Cuộc can thiệp ở Siberia
Sau cuộc chiến
Tuy nhiên, cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ nhất thì người ta mới nghiêm túc chú ý đến hàng không quân sự. Các nhà quan sát quân sự Nhật Bản ở Tây Âu đã nhanh chóng nhận ra lợi thế của công nghệ mới này, và sau khi chiến tranh kết thúc, Nhật Bản mua một số lượng lớn máy bay quân sự dư thừa. gồm 20 chiếc Sopwith 1½ Strutter, 3 chiếc Nieuport 24 và 6 chiếc Spad. Để đối phó với sự gia tăng số lượng máy bay này, ngôi trường dạy bay đầu tiên đã thành lập tại Tozorozawa (Tokorozawa Rikugun Koku Seibi Gakkō), sau đó là Akeno và Shimoshizu.
Bộ đội Đặc thù tác chiến
liênkết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Giretsu-_MichiroOkuyama&_Chuichi_Suwabe.jpg|phải|nhỏ|250x250px|Đại úy Okuyama và đơn vị Dù Giretsu khởi hành nhiệm vụ tới Okinawa. là lực lượng đặc biệt/đơn vị đổ bộ đường không của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Từ teishin (đĩnh tiến) có thể hiểu theo nghĩa đen là "đột kích". Đơn vị này cũng có thể được coi như "biệt kích" trong thuật ngữ của các quân đội khác. Được gọi là sư đoàn, song đơn vị này có quy mô cấp lữ đoàn, và là một phần của Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Do đó, đơn vị Teishin này khác với những đơn vị nhảy dù trên biển của Hải quân đặc biệt lục chiến đội (Kaigun tokubetsu riku sentai)
là một đơn vị lực lượng đặc biệt trên không của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, thành lập từ những lính dù Lục quân (tức _Teishin Shudan) v_ào cuối năm 1944 như một nỗ lực cuối cùng nhằm giảm thiểu và trì hoãn các cuộc ném bom của quân Đồng minh vào đảo Nhật Bản. Đơn vị Giretsu do Trung tướng Kyoji Tominaga chỉ huy.
Sức mạnh
Tính đến năm 1940, Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản có:
33.000 quân nhân Hơn 1.600 máy bay (bao gồm 1.375 máy bay chiến đấu tiền tuyến). Máy bay được tổ chức thành 85 Phi đoàn; ** 36 máy bay chiến đấu 28 máy bay ném bom hạng nhẹ *** 22 máy bay ném bom hạng trung
- Tổng quân số vào tháng 8 năm 1945 là 6.095.000, gồm 676.863 Bộ đội hàng không Lục quân.
Xưởng binh khí hàng không lục quân Tachikawa
Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản có một bộ phận kĩ thuật, Xưởng binh khí hàng không lục quân Tachikawa, chịu trách nhiệm nghiên cứu và phát triển không lực. Xưởng binh khí này có một đội thử nghiệm các máy bay Đồng minh bắt được là Sở Nghiên cứu kĩ thuật hàng không (Koku Gijutsu Kenkyujo).
Xưởng binh khí Tachikawa cũng liên kết với Tachikawa Hikoki K.K. và Rikugun Kokukosho K.K., đây là các doanh nghiệp chế tạo máy bay do Lục quân sở hữu và điều hành. giống như Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản điều hành công ti riêng là Xưởng Kĩ thuật Hàng không Yokosuka.liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Japanese_aircraft_carrier_Kaiy%C5%8D.jpg|phải|nhỏ|250x250px|Mẫu hạm hộ vệ Kaiyo Maru
Mẫu hạm hộ vệ của Lục quân
Do mối quan hệ không mấy tốt đẹp giữa Lục quân Đế quốc Nhật Bản và Hải quân Đế quốc Nhật Bản, phía Lục quân nhận thấy cần phải mua sắm, vận hành những tàu sân bay của riêng họ với mục đích hộ tống và bảo vệ các đoàn tàu vận tải của Lục quân. Các tàu sân bay hộ tống/vận tải này được cải biến từ các tàu chở khách hoặc tàu buôn nhỏ, có khả năng vận hành từ 8 đến 38 máy bay, tùy thuộc vào loại và kích cỡ, đồng thời cũng được sử dụng để vận chuyển nhân sự cùng xe tăng.
Những con tàu này gồm có Taiyō Maru, Unyō Maru, Chūyō Maru, Kaiyō Maru, Shinyo Maru, Kamakura Maru, Akitsu Maru, Nigitsu Maru, Kumano Maru, Yamashiro Maru, Shimane Maru, Chigusa Maru (chưa hoàn thành) và Otakisan Maru (chưa hoàn thành), được vận hành bởi những hải đoàn dân sự, còn những người lính thì điều khiển các khẩu súng phòng không hạng nhẹ và hạng trung.
Đồng phục và trang thiết bị
Là một phần không thể thiếu của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, Bộ đội hàng không Lục quân mặc quân phục Lục quân Đế quốc Nhật tiêu chuẩn. Chỉ có phi hành đoàn và quân nhân mặt đất mặc sọc màu xanh da trời, còn các sĩ quan mặc quân phục bậc hàm, hoạ tiết mảng màu xanh da trời.