✨Kaga (tàu sân bay Nhật)

Kaga (tàu sân bay Nhật)

Kaga (tiếng Nhật: 加賀, Gia Hạ) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân Nhật được đưa vào hoạt động, với tên được đặt theo tỉnh Kaga cũ trước đây, nay thuộc tỉnh Ishikawa. Thoạt tiên được dự định như một trong hai thiết giáp hạm thuộc lớp Tosa, Kaga được cải biến thành một tàu sân bay theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington để thay thế cho chiếc tàu chiến-tuần dương Amagi vốn đã bị hư hại trong trận động đất Kantō 1923. Kaga được tái cấu trúc vào những năm 1933–1935 nhằm gia tăng tốc độ, cải tiến hệ thống thoát khí và nâng cấp sàn cất-hạ cánh để mang được những máy bay hiện đại lớn và nặng hơn.

Kaga có vai trò nổi bật trong việc phát triển học thuyết lực lượng tấn công tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, trong đó tập hợp các tàu sân bay lại để có một sức mạnh không lực tập trung. Là một khái niệm chiến lược mang tính cách mạng vào lúc đó, việc triển khai học thuyết này đã giúp Nhật Bản đạt được những mục tiêu chiến lược trong sáu tháng đầu tiên của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương.

Máy bay của Kaga thoạt tiên đã hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản tại Trung Quốc trong Sự kiện Thượng Hải năm 1932, rồi tham gia cuộc Chiến tranh Trung-Nhật vào cuối những năm 1930. Cùng các tàu sân bay khác, nó tham gia vào cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào tháng 12 năm 1941 và chiếm đóng Rabaul ở khu vực Tây Nam Thái Bình Dương vào tháng 1 năm 1942. Sang tháng tiếp theo, máy bay của nó đã ném bom Darwin thuộc Australia giúp hỗ trợ cho việc chiếm đóng Đông Ấn thuộc Hà Lan. Kaga lỡ mất cuộc không kích Ấn Độ Dương vào tháng 4 vì phải quay về Nhật Bản sửa chữa những hư hại do tai nạn va phải một rặng san hô vào tháng 2 trước đó.

Sau khi sửa chữa xong, Kaga gia nhập trở lại Không hạm đội 1 để tham gia trận Midway vào tháng 6 năm 1942. Sau khi ném bom xuống lực lượng Hoa Kỳ trú đóng trên đảo san hô, Kaga cùng với ba tàu sân bay khác bị máy bay xuất phát từ Midway và từ các tàu sân bay Enterprise, HornetYorktown tấn công. Máy bay ném bom bổ nhào của Enterprise đã gây hư hại nặng cho Kaga. Khi đã trở nên rõ ràng là không thể giữ được, nó bị các tàu khu trục Nhật Bản đánh đắm để không bị lọt vào tay đối phương. Việc bị mất bốn tàu sân bay hạm đội trong đó có Kaga tại Midway là một thất bại chiến lược nghiêm trọng cho phía Nhật Bản, góp phần đáng kể cho chiến thắng sau cùng của phe Đồng Minh tại Thái Bình Dương. Đến năm 1999, những mảnh vỡ của Kaga được tìm thấy dưới đáy biển. Ngày 16 tháng 10 năm 2019, các chuyên gia trên tàu nghiên cứu RV Petrel đã tìm thấy xác tàu Kaga tại độ sâu gần 5.200m ở Thái Bình Dương, gần quần đảo Tây Bắc Hawaii.

Mô tả

Thiết kế và chế tạo

Kaga được đặt lườn như một trong số hai thiết giáp hạm nhanh thuộc lớp Tosa, và được hạ thủy vào ngày 17 tháng 11 năm 1921 tại xưởng đóng tàu của hãng Kawasaki Heavy Industries ở Kobe. Đến ngày 5 tháng 2 năm 1922, trong khi chờ đợi hoàn thiện, cả hai chiếc thiết giáp hạm lớp Tosa bị hủy bỏ và được chỉ định cho tháo dỡ theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington.

Tuy nhiên, Hiệp ước cho phép cải biến lườn của hai thiết giáp hạm hay tàu chiến-tuần dương với trọng lượng choán nước tiêu chuẩn cho đến trở thành tàu sân bay. Ban đầu, hai chiếc AmagiAkagi chưa hoàn tất thuộc lớp tàu chiến-tuần dương Amagi được chọn để hoán cải, nhưng trận động đất lớn Kantō (Quan Đông đại chấn tai) ngày 1 tháng 9 năm 1923 đã phá hủy sườn chiếc Amagi đến mức không thể sửa chữa một cách kinh tế, vì vậy Kaga được chọn để thay thế. Quyết định chính thức cải biến Kaga thành tàu sân bay được công bố vào ngày 13 tháng 12 năm 1923, nhưng công việc đã không tiến hành cho đến năm 1925, sau khi bản vẽ mới được thảo ra cũng như những hư hại của Xưởng hải quân Yokosuka do động đất được sửa chữa. Nó được chính thức đưa ra hoạt động vào ngày 31 tháng 3 năm 1928, nhưng chỉ có ý nghĩa bắt đầu công việc chạy thử máy. Nó gia nhập Hạm đội Liên hợp (Rengo kantai) vào ngày 30 tháng 11 năm 1929 như là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân Nhật, sau các chiếc Hōshō (1922) và Akagi (1927).

Kaga được hoàn tất với chiều dài chung . Nó có mạn thuyền rộng và độ sâu mớn nước khi đầy tải. Con tàu có trọng lượng choán nước ở tải trọng tiêu chuẩn và khi đầy tải, nhẹ hơn gần so với trọng lượng thiết kế như một thiết giáp hạm. Thủy thủ đoàn đầy đủ của nó gồm 1.340 thành viên.

Sự bố trí sàn cất-hạ cánh

nhỏ|trái|Kaga khi hoàn tất, cho thấy rõ cả ba sàn cất-hạ cánh Giống như Akagi, Kaga được hoàn tất với ba sàn cất-hạ cánh xếp thượng tầng, là những tàu sân bay duy nhất trên thế giới được thiết kế như vậy. Các tàu sân bay Anh Quốc Glorious, CourageousFurious, nguyên được cải biến từ những "tàu tuần dương nhẹ lớn", mỗi chiếc có hai sàn cất-hạ cánh, nhưng không có chứng cứ gì là người Nhật đã sao chép kiểu mẫu của người Anh. Rất có thể đây là sự cải tiến mang tính hội tụ những biện pháp nhằm phóng lên càng nhiều máy bay càng tốt. Sàn đáp chính của Kaga dài ; sàn giữa chỉ dài và bắt đầu ngay phía trước cầu tàu; và sàn dưới dài khoảng . Nghi vấn đặt ra về sự tiện dụng của sàn giữa bởi vì nó quá ngắn và chỉ cho phép một số máy bay tải trọng nhẹ mới có thể sử dụng được, ngay cả vào thời đại mà máy bay nhỏ và nhẹ hơn nhiều so với thời Thế Chiến II. Ở bất kỳ tốc độ nào, sự tiến triển về tính năng, kích cỡ và trọng lượng máy bay trong những năm 1930 khiến cho ngay cả sàn cất cánh dưới cũng không đảm đương chiều dài lăn bánh cất cánh cần cho thế hệ máy bay mới được đưa vào sử dụng; vì thế hai sàn cất cánh bên dưới được tháo bỏ và bít kín khi nó được hiện đại hóa giữa những năm 1930. Khác biệt so với Akagi, sàn đáp phía trên của Kaga hoàn toàn phẳng cho đến khi nó được bổ sung một tháp chỉ huy vào giai đoạn được hiện đại hóa.

Khi hoàn tất, con tàu có hai hầm chứa máy bay (hangar) chính và một hầm phụ thứ ba, có thể chứa tổng cộng 60 máy bay. Hai hầm chính mở ra vào sàn cất cánh giữa và sàn cất cánh dưới, cho phép máy bay cất cánh trực tiếp từ hầm chứa, trong khi hoạt động hạ cánh diễn ra ở sàn trên. Máy phóng không được trang bị. Dàn hỏa lực hạng nặng này được bố trí trong trường hợp nó bị tấn công bất ngờ bởi tàu tuần dương đối phương và bị buộc phải tham chiến; nhưng sàn cất-hạ cánh lớn và mong manh, hầm chứa máy bay và cấu trúc thượng tầng làm cho nó trở thành một mục tiêu nổi bật hơn mọi tàu chiến trong các cuộc đụng độ mặt biển. Học thuyết về tàu sân bay vẫn còn đang được phát triển vào lúc đó, và người ta chưa nhận thức được sự phi thực tế của việc đấu pháo tay đôi của tàu sân bay.

Con tàu cũng trang bị vũ khí dành riêng phòng không gồm sáu khẩu /45 caliber nòng đôi, bố trí mỗi bên mạn ba khẩu đội trên những bệ nhô bên dưới mức các ống khói, nơi chúng không thể bắn chéo qua mạn của sàn đáp. Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn ; ở góc nâng 45° chúng cho phép đạt tầm xa tối đa , và có được trần bắn tối đa ở góc nâng 75°. Tốc độ bắn hiệu quả của kiểu vũ khí này là từ 6 đến 8 phát mỗi phút. Nó còn có hai bộ kiểm soát hỏa lực Kiểu 89 để điều khiển các khẩu pháo và hai bộ kiểm soát hỏa lực Kiểu 91 (Kōshaki) vận hành bằng tay dành cho các khẩu pháo phòng không .

Khi được tái cấu trúc, độ dày đai giáp của Kaga được giảm từ xuống còn , và phần trên của bầu chống ngư lôi có lớp giáp dày . Độ dày vỏ giáp sàn tàu cũng được giảm từ xuống còn .

Động lực

Khi Kaga được thiết kế, vấn đề xử lý ảnh hưởng khí nóng thoát ra đối với hoạt động không lực của tàu sân bay vẫn chưa được giải quyết. Các ống khói xoay tròn trên chiếc Hōshō đã không thành công, và những thử nghiệm trong hầm gió không đề xuất được giải pháp nào. Vì vậy KagaAkagi được cung cấp những giải pháp khác nhau để đánh giá trong điều kiện hoạt động thực tế. Khí thải của Kaga được góp vào một cặp ống dẫn dài đặt ngang để thải ra phía sau hai bên sàn đáp, cho dù đã có sự dự đoán của các nhà thiết kế hải quân tiếng tăm rằng chúng không thể đẩy hơi nóng ra cách xa sàn đáp. Sự dự báo này đã tỏ ra chính xác, không chỉ vì Kaga chậm hơn Akagi khiến hơi nóng bốc lên cao và ảnh hưởng đến hoạt động hoạt cánh. Một khuyết điểm khác là sức nóng của khí thải khiến cho chỗ nghỉ của thủy thủ đoàn hai bên lườn tàu cạnh ống khói hầu như không thể ở được. Cùng với tàu sân bay Hōshō, Hải đội 1 lên đường vào ngày 29 tháng 1 năm 1932 hướng đến vùng biển Trung Quốc để hỗ trợ cho các đơn vị Lục quân Nhật Bản trong vụ Sự kiện Thượng Hải trong thành phần Hạm đội 3.

Máy bay của Kaga, hoạt động từ cả hai tàu sân bay và một căn cứ tạm thời tại sân bay Kunda ở Thượng Hải, đã thực hiện các phi vụ hỗ trợ cho các đơn vị mặt đất của Lục quân trong suốt tháng 2 năm 1932. Trong một phi vụ như thế, ba máy bay tiêm kích Nakajima A1N2 của Kaga, bao gồm một chiếc do phi công ách tương lai Toshio Kuroiwa điều khiển trong một phi vụ hộ tống ba máy bay ném bom-ngư lôi Mitsubishi B1M3, đã ghi được chiến công không chiến đầu tiên của Hải quân Nhật vào ngày 22 tháng 2, khi họ bắn rơi một máy bay Boeing P-12 do một phi công tình nguyện Hoa Kỳ điều khiển. Sau khi có tuyên bố đình chiến vào ngày 3 tháng 3, Kaga quay trở về vùng biển nhà tiếp nối các hoạt động huấn luyện hạm đội cùng các đơn vị còn lại của Hạm đội Liên Hợp.

Kaga nhanh chóng bị đánh giá thấp hơn Akagi do tốc độ chậm hơn, sàn đáp nhỏ (ngắn hơn ) và cách sắp xếp hệ thống thoát khí có vấn đề. Do những hạn chế rõ rệt của Kaga, nó được ưu tiên hơn Akagi trong quá trình hiện đại hóa. Kaga được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 20 tháng 10 năm 1933 để bắt đầu một đợt tái cấu trúc lớn thứ hai, vốn chính thức bắt đầu vào ngày 25 tháng 6 năm 1934.

Tái cấu trúc

nhỏ|upright=1.6|Kaga sau khi được tái cấu trúc, cho thấy sàn đáp mới kéo dài suốt [[chiều dài trên một lườn thiết giáp hạm mở rộng.]] Trong đợt tái cấu trúc lớn thứ hai, hai sàn cất cánh bên dưới của Kaga được cải biến thành hầm chứa máy bay, và cùng với sàn đáp bên trên, được kéo dài ra đến tận mũi. Điều này đã làm gia tăng chiều dài sàn cất-hạ cánh lên và tăng số lượng máy bay mang theo lên 90 chiếc (gồm 72 chiếc hoạt động và 18 chiếc dự trữ). Một thang nâng máy bay thứ ba phía trước, kích thước , được bổ sung để phục vụ cho các hầm chứa máy bay được mở rộng.

Hệ thống động lực của nó được thay thế hoàn toàn mới cũng như các chân vịt, đã giúp tăng công suất từ lên khi chạy thử máy. Mỗi bộ turbine Kampon hộp số đa tầng được trang bị bao gồm một turbine áp suất cao, một turbine áp suất thấp và một turbine đường trường, được kết nối vào một trục duy nhất. Các nồi hơi cũ được thay thế bằng tám nồi hơi cải tiến Kampon Kiểu B (Ro) đốt dầu với áp suất hoạt động ở nhiệt độ . Lườn tàu được kéo dài thêm ở phía đuôi để giảm sức cản, và nó được bổ sung một bầu chống ngư lôi nữa bên trên đai giáp hông ngang với phần trên của bầu hiện hữu, giúp làm tăng chiều ngang mạn tàu và hạ thấp trọng tâm; đây là kết quả từ những bài học thu được sau sự cố Tomozuru vào đầu năm 1934. Việc này đã làm tăng trọng lượng choán nước từ lên . Động lực được tăng cường và tải trọng nặng thêm lại bù trừ lẫn nhau, tốc độ tối đa của nó tăng thêm không đầy một knot, lên đến khi chạy thử máy. Trữ lượng nhiên liệu của nó tăng lên dầu giúp nâng cao tầm xa hoạt động lên ở tốc độ đường trường . Ống dẫn khói ngang kéo dài được thay thế bằng một ống khói duy nhất có miệng hướng xuống dưới bên mạn phải dựa theo kiểu sử dụng trên chiếc Akagi, với một hệ thống làm mát hơi nóng thoát ra bằng nước và một nắp chụp có thể nâng lên để làm thoát khí trong trường hợp con tàu bị nghiêng nặng đến mức miệng ống khói chạm mặt nước. Chỗ trống dôi ra do tháo dỡ ống dẫn ngang được chia thành hai sàn và cải biến thành chỗ nghỉ của các đội bay tăng thêm. Thành phần thủy thủ đoàn đầy đủ của nó tăng lên 1.708 thành viên.

Hai tháp pháo nòng đôi trên sàn cất cánh giữa được loại bỏ, và bốn khẩu pháo /50 caliber kiểu năm thứ 3 đặt trong tháp pháo ụ được bổ sung phía trước. Các khẩu pháo phòng không 12 cm được thay thế bởi tám khẩu /40 caliber Kiểu 89 trên các bệ nòng đôi. Chúng bắn ra đạn pháo nặng với tốc độ từ 8 đến 14 phát mỗi phút và lưu tốc đầu đạn ; ở góc nâng 45° chúng cho phép đạt tầm xa tối đa và một trần bắn tối đa . Các bệ nhô của chúng được nâng lên một sàn tàu cho phép có một mức độ bắn chéo qua sàn đáp. Mười hai tháp pháo Kiểu 96 nòng đôi được bổ sung cũng trên các bệ nhô; chúng bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn ; ở góc nâng 50° chúng cho phép đạt tầm xa tối đa và một trần bắn tối đa . Tốc độ bắn hiệu quả chỉ đạt 110–120 phát mỗi phút do phải thường xuyên thay hộp đạn dung lượng 15 viên. Sáu súng máy Kiểu 11 cũng được tăng cường.

Chiến tranh Trung-Nhật

nhỏ|trái|Kaga tiến hành hoạt động không lực, năm [[1937. Trên sàn tàu là các kiểu máy bay Nakajima A2N, Aichi D1A, và Mitsubishi B2M.]] Kaga quay trở lại phục vụ vào năm 1935 và được phân về Hàng không chiến đội 2. Chiếc tàu sân bay được nhận những kiểu máy bay mới, bao gồm 16 máy bay tiêm kích Nakajima A2N Kiểu 90, 16 máy bay ném bom bổ nhào Aichi D1A Kiểu 94, và 28 máy bay ném bom-ngư lôi Mitsubishi B2M Kiểu 89. Lúc xung đột bùng nổ trở lại tại Trung Quốc sau sự kiện Lư Câu Kiều vào tháng 7 năm 1937, Kaga đang ở vùng biển nhà. Các liên đội chiến đấu của nó hoàn tất việc huấn luyện tại Ōmura, Nagasaki trước khi giúp vào việc hộ tống tàu chở quân tăng viện từ Nhật Bản sang Trung Quốc. Vào ngày 15 tháng 8, cùng với HōshōRyūjō, con tàu trực chiến trong biển Hoa Đông như một phần của Hạm đội 3 và bắt đầu hỗ trợ các chiến dịch quân sự Nhật Bản dọc theo bờ biển Trung Quốc chung quanh Thượng Hải và sâu vào đất liền.

Máy bay của Kaga tham chiến lần đầu tiên vào ngày 16 tháng 8 năm 1937 khi sáu máy bay tiêm kích Kiểu 90 đối đầu với bốn máy bay Trung Quốc bên trên sân bay Kiangwan, bắn rơi ba máy bay đối phương mà không bị tổn thất. Từ ngày 17 tháng 8 đến ngày 7 tháng 9, những chiếc Kiểu 90 của Kaga cùng hai máy bay tiêm kích Mitsubishi A5M Kiểu 96 vốn vừa gia nhập chiếc tàu sân bay vào ngày 22 tháng 8, đã đụng độ với máy bay Trung Quốc trong nhiều dịp khác. Phi công của Kaga tự nhận đã bắn rơi 10 máy bay đối phương trong những cuộc giao chiến này mà không bị thiệt hại. Vào ngày 17 tháng 8, 12 máy bay ném bom của chiếc tàu sân bay đã tấn công Hàng Châu mà không có máy bay tiêm kích hộ tống, và 11 chiếc trong số đó đã bị máy bay Trung Quốc bắn rơi. Bắt đầu từ ngày 15 tháng 9, sáu chiếc máy bay tiêm kích Kiểu 90 cùng sáu chiếc Kiểu 96, 18 máy bay ném bom bổ nhào và 18 máy bay ném bom-ngư lôi từ tàu sân bay được tạm thời bố trí đến sân bay Kunda để hỗ trợ các hoạt động của lực lượng trên bộ.

Đến ngày 26 tháng 9, chiếc tàu sân bay đi đến Sasebo để tiếp liệu. Tại Sasebo, nó được nhận máy bay mới thay thế, bao gồm 32 máy bay tấn công tàu sân bay (ném bom-ngư lôi) Yokosuka B4Y Kiểu 96, 16 máy bay ném bom tàu sân bay (ném bom bổ nhào) Aichi D1A2 Kiểu 96, và thêm 16 máy bay tiêm kích Kiểu 96. Nhiều chiếc máy bay tiêm kích Nakajima A4N Kiểu 95 bổ sung cho lực lượng tiêm kích của chiếc tàu sân bay vào những thời điểm không thể xác định sau đó.

Kaga đi vào ụ tàu vào ngày 15 tháng 12 năm 1938, nơi hệ thống dây hãm của nó lại được thay thế bằng Kiểu 3 mới hơn và cầu tàu được hiện đại hóa. Sàn cất-hạ cánh và khoảng hầm chứa máy bay được mở rộng, gia tăng khả năng chứa máy bay của con tàu. Nó được đại tu toàn bộ từ ngày 15 tháng 11 năm 1939 đến ngày 15 tháng 11 năm 1940 trước khi quay trở lại phục vụ thường trực. Vào cùng lúc đó, một thế hệ mới các kiểu máy bay chiến đấu được đưa vào sử dụng, và Kaga nhận lên tàu 12 máy bay tiêm kích Mitsubishi A5M, 24 máy bay ném bom bổ nhào Aichi D1A và 36 máy bay ném bom-ngư lôi Yokosuka B4Y; ngoài ra còn có 18 khung máy bay tháo rời được chở theo để dự trữ.

Kinh nghiệm hoạt động tàu sân bay của Nhật Bản ngoài khơi Trung Quốc đã giúp phát triển hơn nữa học thuyết tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Một bài học rút ra từ cuộc Chiến tranh Trung-Nhật là tầm quan trọng của việc tập trung và tăng cường sức mạnh không lực hải quân về hướng bờ biển. Do đó, vào tháng 4 năm 1941, Hải quân Nhật cho thành lập Không hạm đội 1, còn gọi là Kido Butai, để kết hợp mọi tàu sân bay hạm đội dưới một quyền chỉ huy duy nhất. Vào ngày 10 tháng 4 Kaga được phân về Đội tàu sân bay 1 cùng với Akagi như một phần của hạm đội tàu sân bay mới, vốn còn có Hàng không chiến đội 2 (bao gồm HiryūSōryū) và Hàng không chiến đội 5 (bao gồm ShōkakuZuikaku). Học thuyết của Hải quân Nhật nhấn mạnh việc không kích kết hợp lực lượng mọi phi đoàn không lực của đội tàu sân bay hơn là của từng chiếc riêng lẻ. Khi nhiều đội tàu sân bay hoạt động phối hợp, sức mạnh không lực của chúng cũng được kết hợp. Học thuyết về sự tập trung sức mạnh này của Hải quân Đế quốc Nhật Bản là kiểu tiên tiến nhất trên thế giới. Tuy nhiên, họ vẫn lo ngại rằng việc tập trung mọi tàu sân bay lại với nhau khiến chúng trở nên mong manh dễ bị quét sạch toàn bộ bằng một đợt không kích hay giao chiến mặt biển lớn. Do đó, Hải quân Nhật cũng phát triển một giải pháp thỏa hiệp, trong đó các tàu sân bay hạm đội sẽ hoạt động gần nhau trong một đội tàu sân bay, nhưng bản thân các đội sẽ hoạt động trong một đội hình hình vuông lỏng lẻo, với cách quãng giữa các đội tàu sân bay.

Học thuyết của Hải quân Nhật quy định các liên đội không lực tàu sân bay không nên tung ra toàn bộ lực lượng trong một đòn tấn công duy nhất. Thay vào đó, mỗi chiếc tàu sân bay sẽ phóng lên một loạt bao gồm mọi máy bay có thể xếp trên mỗi sàn đáp cùng một lúc; đợt tấn công tiếp theo sẽ gồm những máy bay có thể xếp trên sàn đáp kế tiếp. Như vậy các cuộc không kích của Không hạm đội 1 sẽ bao gồm ít nhất hai đợt máy bay lớn. Điểm đặc biệt là Không hạm đội 1 vẫn không được xem là một lực lượng tấn công chiến lược chủ yếu của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, mà chỉ là một thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm "Trận chiến Quyết định" (Kantai Kessen) của Hạm đội Liên hợp vốn dựa trên các thiết giáp hạm.

Mặc dù việc tập trung rất nhiều tàu sân bay hạm đội vào một đơn vị duy nhất là một khái niệm tiến công chiến lược mới mang tính cách mạng, Không hạm đội 1 mắc phải nhiều khiếm khuyết trong phòng thủ, khiến cho nó, theo nguyên văn lời của sử gia hải quân Mark Peattie, là một "hàm thủy tinh" (glass jaw): "Nó có thể tung ra một cú đấm nhưng không thể chịu đựng một cú đấm trả." Trên các tàu sân bay Nhật, súng phòng không và các hệ thống điều khiển hỏa lực kèm theo có nhiều thiếu sót về thiết kế và cấu hình làm giới hạn hiệu quả của chúng. Ngoài ra, lực lượng tuần tra chiến đấu trên không (CAP: combat air patrol) của hạm đội Nhật bao gồm quá ít máy bay tiêm kích; và còn bị ảnh hưởng bởi hệ thống cảnh báo sớm không thích đáng, bao gồm việc thiếu sót radar; liên lạc vô tuyến yếu kém với các máy bay tiêm kích làm hạn chế khả năng kiểm soát và chỉ huy tuần tra chiến đấu trên không hiệu quả. Hơn nữa, các tàu chiến hộ tống cho tàu sân bay đã không được huấn luyện hay bố trí để hỗ trợ phòng không ở khoảng cách gần. Những khiếm khuyết này, kết hợp với những điểm yếu trên con tàu đã được mô tả bên trên, cuối cùng đã đưa đến sự diệt vong của Kaga và các tàu sân bay khác của Không hạm đội 1.

Mở màn Thế Chiến II – Trận Trân Châu Cảng

nhỏ|phải|Các tàu sân bay Kaga (phía trước) cùng với [[Zuikaku (tàu sân bay Nhật)|Zuikaku (phía sau) trên đường hướng đến Trân Châu Cảng, trong một thời gian nào đó từ ngày 26 tháng 11 đến 7 tháng 12 năm 1941.]] Vào tháng 11 năm 1941, Hạm đội Liên hợp Nhật Bản, dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Yamamoto Isoroku, chuẩn bị cho việc Nhật Bản chính thức tuyên chiến với Hoa Kỳ bằng cách thực hiện một đòn tấn công phủ đầu xuống Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ đặt căn cứ tại Trân Châu Cảng, Hawaii. Vào ngày 17 tháng 11, tại vịnh Saeki, Hiroshima, dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân Jisaku Okada, Kaga chất lên tàu 100 quả ngư lôi được thiết kế đặc biệt để sử dụng trong vùng nước nông tại nơi neo đậu của Trân Châu Cảng. Đến ngày 19 tháng 11, Kaga cùng phần còn lại thuộc lực lượng tấn công cơ động (Kido Butai) của Hạm đội Liên Hợp, dưới quyền chỉ huy của Phó đô đốc Nagumo Chuichi, và bao gồm sáu tàu sân bay hạm đội thuộc các Hàng không chiến đội 1, 2 và 5, đã tập trung tại vịnh Hitokappu thuộc đảo Etorofu. Hạm đội rời Etorofu vào ngày 26 tháng 11, đi theo một hải trình băng ngang Bắc Thái Bình Dương để tránh các tuyến hàng hải thương mại. Các đội bay ném bom và ngư lôi của Kaga cho là đã ném trúng đích các thiết giáp hạm Nevada, Oklahoma, Arizona, California, West VirginiaMaryland. Phi công tiêm kích của chiếc tàu sân bay khai nhận đã bắn rơi một máy bay Mỹ và phá hủy 20 chiếc khác trên mặt đất. Sau khi hoàn thành cuộc tấn công, các Hàng không chiến đội 1 và 5, bao gồm Kaga, lập tức quay trở về Nhật Bản.

Vào ngày 9 tháng 2, Kaga va phải một dãi san hô ngầm tại Palau sau khi truy đuổi không thành công lực lượng tàu sân bay Mỹ đã tiến hành không kích xuống quần đảo Marshall vào ngày 1 tháng 2. Hư hại đã làm giảm tốc độ tối đa của chiếc tàu sân bay xuống còn 18 hải lý mỗi giờ.

Trận Midway

Không kích Midway

nhỏ|phải|Trung úy Shōichi Ogawa, người dẫn đầu phi đội máy bay ném bom bổ nhào của Kaga trong cuộc tấn công đảo Midway. Cuối ngày hôm đó Ogawa tử thương khi chiếc tàu sân bay bị máy bay ném bom bổ nhào Mỹ đánh trúng. Lo ngại các cuộc không kích của tàu sân bay Hoa Kỳ tại quần đảo Marshall, Lae-Salamaua cũng như cuộc không kích Doolittle, Đô đốc Yamamoto Isoroku, Tư lệnh Hạm đội Liên hợp, quyết định ép buộc lực lượng Hải quân Hoa Kỳ lộ diện để loại trừ mối đe dọa từ các tàu sân bay đối phương. Ông quyết định tấn công và chiếm đóng đảo Midway, nơi ông biết chắc sẽ thu hút lực lượng tàu sân bay Mỹ vào trận chiến. Mật danh của phía Nhật Bản cho cuộc tấn công Midway là Chiến dịch MI.

Để hỗ trợ cho chiến dịch MI, vào ngày 27 tháng 5 năm 1942, Kaga khởi hành từ vùng biển nội địa Nhật Bản cho chiến dịch sau cùng của nó, cùng với các tàu sân bay Akagi, HiryūSōryū vốn hình thành nên các Hàng không chiến đội 1 và 2, cho cuộc tấn công Midway. Liên đội không quân phối thuộc cho Kaga bao gồm 27 chiếc Zero, 20 chiếc D3A và 27 chiếc B5N. Khi hạm đội được bố trí tại địa điểm cách về phía Tây Bắc Midway vào lúc bình minh (04 giờ 45 phút giờ địa phương) ngày 4 tháng 6 năm 1942, Kaga đóng góp 18 máy bay ném bom bổ nhào D3A do Trung úy Shōichi Ogawa dẫn đầu, được 9 máy bay tiêm kích Zero hộ tống, vào lực lượng ném bom xuống đảo san hô. Những chiếc máy bay ném bom-ngư lôi B5N được trang bị ngư lôi, sẵn sàng trong trường hợp phát hiện ra tàu chiến đối phương trong khi ném bom Midway. Một chiếc Zero và một chiếc D3A đã bị hỏa lực phòng không tại Midway bắn rơi, và thêm bốn chiếc D3A khác bị hư hại; trong khi các phi công Zero của Kaga tự nhận đã bắn rơi 12 máy bay Mỹ bên trên đảo Midway. Một chiếc B5N của Kaga được phóng lên để bổ sung lực lượng trinh sát của hạm đội đối với vùng biển chung quanh. Chiếc tàu sân bay cũng tung ra hai chiếc Zero cho lực lượng tuần tra chiến đấu trên không (CAP). Thêm năm máy bay Zero được phóng lên tăng cường cho lực lượng tuần tra chiến đấu lúc 07 giờ 00, và bảy chiếc máy bay tiêm kích này đã giúp bảo vệ Lực lượng Đặc nhiệm (Kido Butai) khỏi những máy bay tấn công đầu tiên của Mỹ cất cánh từ đảo Midway lúc 07 giờ 10 phút. Tuy nhiên, phía Nhật Bản đã không biết là Hải quân Mỹ đã tiên đoán được kế hoạch MI của Nhật qua việc thu thập tình báo tín hiệu và đã chuẩn bị một cuộc phục kích sử dụng ba tàu sân bay đang sẵn có, được bố trí về phía Đông Bắc Midway.

Lúc 07 giờ 15 phút, đô đốc Nagumo ra lệnh cho những máy bay B5N trên KagaAkagi trang bị lại với bom cho một cuộc tấn công khác vào chính Midway. Quy trình này bị kéo dài do số lượng xe đẩy đạn dược dùng để mang bom và ngư lôi bị giới hạn cũng như không đủ thang nâng đạn dược. Điều này có nghĩa là ngư lôi không thể cất giữ bên dưới cho đến khi bom đã được lấy ra khỏi hầm đạn, ráp và gắn lên máy bay. Quy trình này thông thường kéo dài một tiếng rưỡi, và cần thêm thời gian để đưa máy bay lên sàn đáp, làm nóng động cơ và phóng lên. Đến khoảng 07 giờ 40 phút, ông lại đảo ngược mệnh lệnh sau khi nhận được tin từ một trong những máy bay trinh sát đã phát hiện ra các tàu chiến Mỹ. Trước đó lúc 07 giờ 30 phút, Kaga thu hồi ba trong số các máy bay tuần tra chiến đấu trên không của nó.

Bị đánh chìm

Bốn máy bay tuần tra chiến đấu của Kaga đang trong quá trình hạ cánh khi 16 máy bay ném bom bổ nhào SBD-2 Dauntless thuộc Liên đội VMSB-241 Thủy quân Lục chiến cất cánh từ Midway, do Thiếu tá Lofton R. Henderson dẫn đầu, tấn công Hiryū mà không có kết quả. Năm chiếc Zero được phóng lên lúc 08 giờ 15 phút; ba chiếc trong số đó đã đánh chặn 12 máy bay ném bom hạng nặng B-17 Flying Fortress của Không lực Mỹ đặt căn cứ tại Midway, nhưng chỉ gây những thiệt hại nhẹ cho những chiếc máy bay ném bom. Chúng đang tìm cách ném bom ba chiếc tàu sân bay kia từ độ cao , nhưng tất cả đều bị trượt. Năm chiếc D3A cũng gia nhập lực lượng tuần tra chiến đấu trên không vào lúc này; và có thêm một tốp ba chiếc Zero được phóng lên lúc 08 giờ 30 phút. Kaga bắt đầu thu hồi lực lượng tấn công Midway lúc 08 giờ 35 phút và kết thúc việc thu hồi lúc 08 giờ 50 phút; một phi công Zero tử trận sau khi bị rơi lúc hạ cánh.

Năm chiếc Zero phóng lên lúc 08 giờ 15 phút được thu hồi lúc 09 giờ 10 phút; được thay thế bởi sáu chiếc Zero nữa phóng lên lúc 09 giờ 20 phút. Chúng đã đánh chặn cuộc tấn công đầu tiên xuất phát từ tàu sân bay Mỹ: 15 máy bay ném bom bổ nhào TBD Devastator thuộc Liên đội VT-8 của tàu sân bay Hornet, do John C. Waldron dẫn đầu, lúc 09 giờ 22 phút. Tất cả 15 chiếc Devastator đều bị bắn hạ khi chúng tìm cách phóng ngư lôi vào Soryū, tất cả thành viên các đội bay đều tử trận chỉ có một người duy nhất sống sót, Thiếu úy George H. Gay, Jr.. Không lâu sau đó, 14 chiếc Devastator khác thuộc Liên đội VT-6, xuất phát từ tàu sân bay Enterprise do Eugene E. Lindsey dẫn đầu, bị phát hiện. Chúng tìm cách đánh gọng kìm nhắm vào Kaga, nhưng lực lượng tuần tra chiến đấu trên không, được tăng cường thêm 6 chiếc Zero do Kaga phóng lên lúc 10 giờ 00, đã bắn rơi tất cả ngoại trừ bốn chiếc Devastator, và chiếc tàu sân bay né tránh được tất cả các quả ngư lôi. nhỏ|phải|Ảnh chụp nhóm phi công thuộc Liên đội máy bay ném bom bổ nhào VB-6 thuộc Enterprise đã đánh hỏng Kaga: Thiếu úy John Q. Roberts (đứng, bìa trái), bị hỏa lực phòng không của Kaga bắn rơi và thiệt mạng; Thiếu úy James C. Dexter (đứng, thứ ba từ bên phải), có thể đã ném quả bom làm thiệt mạng toàn bộ sĩ quan cao cấp của Kaga trên cầu tàu. Không lâu sau cuộc tấn công bằng máy bay ném ngư lôi, máy bay ném bom bổ nhào Mỹ xuất phát từ tàu sân bay đã đến bên trên các tàu sân bay Nhật mà hầu như không bị phát hiện, và bắt đầu bổ nhào tấn công. Lúc 10 giờ 22 phút, 28 chiếc SBD Dauntless cất cánh từ Enterprise, do C. Wade McClusky dẫn đầu, bắt đầu tấn công Kaga, đánh trúng nó một quả bom và ít nhất ba quả bom . Quả thứ nhất đánh trúng gần thang nâng phía sau, gây các đám cháy tại các khoang nghỉ của thủy thủ đoàn; quả tiếp theo đánh trúng thang nâng phía trước và xuyên thủng vào hầm chứa máy bay phía trên, gây một loạt các vụ nổ và đám cháy dọc theo số máy bay trong hầm tàu đã chất đầy vũ khí và tiếp đầy xăng nhằm chuẩn bị cho cuộc không kích nhắm vào các tàu sân bay Mỹ. Hạm trưởng Okada và đa số sĩ quan cao cấp của con tàu bị giết khi quả bom thứ ba đánh trúng cầu tàu. Quả bom 1000 pound đánh trúng giữa tàu và xuyên thủng sàn đáp để phát nổ trong hầm chứa máy bay phía trên. Vụ nổ làm vỡ các ống dẫn xăng máy bay, làm hỏng cả hai hệ thống chữa cháy bên mạn phải và mạn trái, máy phát điện dự phòng cho các bơm cứu hỏa cũng như hệ thống chữa cháy bằng carbon dioxide. Đám cháy bùng phát do xăng máy bay chảy tràn trên sàn chứa máy bay, gây nổ bom và ngư lôi trải khắp sàn tàu trong một loạt các vụ nổ vốn đã làm boong các mặt hông hầm chứa máy bay. Hầu như cùng thời gian đó, máy bay ném bom bổ nhào Mỹ cũng đánh trúng và làm tử thương AkagiSōryū.

Không thể trấn áp các đám cháy, những người sống sót của Kaga được các tàu khu trục HagikazeMaikaze vớt lên từ 14 giờ 00 đến 17 giờ 00. Lúc khoảng 19 giờ 25 phút, nó bị đánh đắm bởi hai quả ngư lôi phóng từ Hagikaze, và đã chìm với đuôi chìm trước tại tọa độ . Thiếu úy Takeshi Maeda, thành viên một đội bay B5N của Kaga bị thương và được chiếc Hagikaze cứu vớt, đã mô tả quang cảnh: "Đồng đội của tôi đưa tôi lên boong tàu để tôi có thể nhìn thấy những giây phút cuối cùng của chiếc tàu sân bay yêu quý vốn đang ở gần đó. Mặc dù tôi đang đau đớn, những giọt nước mắt bắt đầu chảy dài trên gò má, và mọi người chung quanh tôi gào khóc; đó là một cảnh tượng rất buồn thảm."

Tổn thất nhân mạng của chiếc tàu sân bay là 811 người tử trận, phần lớn trong số kỹ thuật viên cơ khí máy bay và nhân viên vũ khí dưới hầm chứa máy bay cùng số kỹ thuật viên hầm máy, nhiều người bị mắc kẹt bên dưới các phòng nồi hơi và động cơ bởi đám cháy lan tràn không thể kiểm soát được bên trên họ. 21 phi công trên tàu đã thiệt mạng. Việc bị mất Kaga cùng với ba tàu sân bay hạm đội khác tại Midway (Hiryū cũng bị đánh chìm sau đó trong trận này), tức hai phần ba tổng số tàu sân bay hạm đội, cùng những đội bay nòng cốt của Không hạm đội 1, là một thất bại chiến lược nghiêm trọng cho phía Nhật Bản, góp phần đáng kể cho thất bại sau cùng của Nhật Bản trong chiến tranh.

Khảo sát xác tàu đắm

Vào tháng 5 năm 1999, hãng Nauticos Corporation phối hợp cùng với Hải quân Mỹ đã phát hiện một số mảnh tàu đắm của Kaga. Họ sử dụng chiếc tàu nghiên cứu RV Melville trong đợt khảo sát một khu vực tập trận hạm đội cùng với một hệ thống vẽ bản đồ bằng siêu âm SAEMAP vừa mới được cải tiến của Hải quân Mỹ. Một cuộc thăm dò tiếp theo do chiếc USNS Sumner (T-AGS-61) tiến hành vào tháng 9 năm 1999 đã tìm thấy địa điểm đắm tàu và được chụp ảnh. Các mảnh vở thuộc xác tàu đắm của Kaga bao gồm một đoạn vách ngăn hầm chứa máy bay dài , hai nòng pháo cao xạ 25 mm và một đèn dẫn đường hạ cánh. Các hiện vật này nằm ở độ sâu dưới đáy biển.

Danh sách thuyền trưởng

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Kaga_** **(tiếng Nhật: 加賀**, _Gia Hạ_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**_Sōryū_** (tiếng Nhật: 蒼龍 _Thương Long_, có nghĩa là "rồng xanh") là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó từng tham gia trận tấn công Trân Châu Cảng, và bị
**_Shōkaku_** (, nghĩa là _Chim hạc bay liệng_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và tên của nó được đặt cho lớp tàu này. Cùng với chiếc tàu chị
**_Shinano_** (tiếng Nhật: 信濃) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II. Tên nó được đặt theo tỉnh Shinano, một tỉnh cũ của Nhật Bản. Ban đầu
là một đơn vị Hàng không Mẫu hạm thuộc Đệ nhất Hàng không Chiến đội của Đại Đế quốc Nhật Bản Hải quân. Vào đầu Chiến dịch Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai,
**_Arashi_** (tiếng Nhật: 嵐) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kagerō_ đã phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
**JS _Kaga_ (DDH-184)** là một tàu sân bay trực thăng (chính thức phân loại của Nhật Bản là một tàu khu trục máy bay trực thăng) và chiếc thứ hai trong lớp tàu khu trục
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**_Abukuma_** (tiếng Nhật: 阿武隈) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Abukuma tại khu vực Tōhoku của Nhật
Còn được gọi là **Kidō Butai** ("Lực lượng cơ động"), là tên được sử dụng cho một hạm đội tàu sân bay chiến đấu kết hợp bao gồm hầu hết các tàu sân bay và
Douglas SBD Dauntless (Dũng cảm) là kiểu máy bay ném bom bổ nhào chủ yếu trong giai đoạn nửa đầu của Thế Chiến II của Hải quân Hoa Kỳ. Chiến công đáng chú ý (và
**Máy bay ném/thả ngư lôi** là một máy bay quân sự được thiết kế chủ yếu để tấn công tàu thuyền bằng ngư lôi trên không. Máy bay ném ngư lôi đã tồn tại ngay
nhỏ|Aichi D3A1 đang bay. nhỏ|phải|Aichi D3A2 đang được bảo trì. Chiếc (Máy bay Ném bom Hải quân Kiểu 99 trên Tàu sân bay), tên mã của Đồng Minh là **_Val_**, là kiểu máy bay ném
**USS _Yorktown_ (CV-5)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ. Tên nó được dùng để đặt cho Lớp tàu sân bay Yorktown, và là một trong những tàu sân bay chủ lực
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**_Nagato_** (tiếng Nhật: 長門, **_Trường Môn_**), được đặt theo tên tỉnh Nagato, là một thiết giáp hạm siêu-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. _Nagato_ là chiếc thiết giáp hạm đầu
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** hoạt động dưới sự kiểm soát của Cục Hàng không Hải quân(_Kaigun Kōkū Hombu_). ## Tổ chức hành chính nhỏ|250x250px| Mitsubishi A6M2 "Zero" mẫu 21 trên boong
Chiếc **Yokosuka B4Y1** là một kiểu máy bay cường kích cánh kép, một động cơ, ba chỗ ngồi, hoạt động trên tàu sân bay, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng từ năm
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**Trận Midway** là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**USS _Pensacola_ (CL/CA-24)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ
**Nagumo Chūichi** (, 25 tháng 3 năm 1887 - 6 tháng 7 năm 1944) là đại tướng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tướng tiên phong hàng đầu
**USS _Vincennes_ (CA-44)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố Vincennes thuộc tiểu bang
**Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản** (tiếng Nhật: ), lược xưng là là một trong ba quân chủng thuộc Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Sau năm 1945, Lục quân Đế quốc Nhật Bản
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Danh sách các trận đánh Nhật Bản** là danh sách được sắp xếp ra theo từng năm, từng thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản. ## Thời kỳ Yayoi * Hậu kỳ Thế kỷ 2:
**Richard Halsey Best** (sinh ngày 24 tháng 3 năm 1910 – mất ngày 28 tháng 10 năm 2001) là một phi công máy bay ném bom kiểu bổ nhào và chỉ huy một phi đoàn
**** là một chiến lược hải quân nhằm định hướng sự phát triển của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cho giai đoạn đầu thế kỷ 20. Chiến lược này yêu cầu Hải quân Nhật
**Nakajima A1N**, hay **Máy bay Tiêm kích Hoạt động trên tàu sân bay Kiểu 3** là một kiểu máy bay tiêm kích Nhật Bản hoạt động trên tàu sân bay sử dụng trong thập niên
**USS _Arizona_ (BB-39)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Pennsylvania_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào giữa những năm 1910. Được đặt tên nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 48 của
hay còn được biết dưới tên gọi dự án **22DDH** là một lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng (DDH) thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Lớp Izumo được
**USS _Edsall_ (DD-219)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ vào đầu Chiến tranh
phải|nhỏ| là thiết giáp hạm hiệp ước đầu tiên **Thiết giáp hạm hiệp ước** là những thiết giáp hạm được chế tạo vào những năm 1920 hoặc 1930 theo các điều khoản của một trong
nhỏ|228x228px|Yamamoto (hàng trước, ngồi, thứ 2 bên trái) cùng gia đình, bên trái là Teikichi Hori nhỏ|225x225px|Yamamoto lúc trẻ và Curtis D. Wilbur, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ **Yamamoto Isoroku** (kanji: 山本五十六, Hán Việt:
thumb|Quân xưởng Hải quân Sasebo (1920-1930) là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính thuộc quyền sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử phải|Quân
(1891-1945) là một Phó đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông nổi tiếng vì được xem là cha đẻ của chiến thuật Kamikaze. ## Tiểu sử
**_Trận chiến Midway_** (tựa gốc tiếng Anh: **Midway**) là một bộ phim điện ảnh lịch sử Hoa Kỳ được sản xuất và phát hành năm 2019, do Roland Emmerich làm đạo diễn, Harald Kloser làm
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1942: ## Các sự kiện ### Tháng 1 * 30 tháng 1 - Hãng hàng không Canadian Pacific Air Lines
**_Empire Earth: The Art of Conquest_** (tạm dịch: _Đế quốc Địa Cầu: Nghệ thuật Chinh phục_) là phiên bản mở rộng chính thức của trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược thời gian
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1932: ## Các sự kiện * Đội bay biểu diễn nhào lộn Siskins của Canada giải tán. ### Tháng 1
**Ớt bảy màu** hay **Niji Iro Tōgarashi** (tiếng Nhật: 虹色とうがらし?) là một manga dài tập của Adachi Mitsuru được đăng trên tạp chí _Shonen Sunday_ từ số báo 4/5 năm 1990 tới số 19 năm
là một bộ phim truyền hình nhiều tập được chiếu vào buổi sáng (asadora) của Nhật Bản. Bộ phim kể về cuộc đời của Tanokura Shin sinh vào cuối thời kỳ Meiji (Minh Trị) cho
, hay là một nhóm nhạc nữ Nhật Bản. Hoạt động của nhóm xung quanh việc hát và nhảy múa theo âm điệu vui vẻ và lạc quan. Nhóm dẫn đầu trong chương trình Hello!
phải|nhỏ|300x300px| Hình minh họa bởi Yoshioka Airi có Cecil ở giữa cùng với Rosa (trái), Kain (phải) cũng như các nhân vật có thể chơi được khác trong _Final Fantasy IV_. _Final Fantasy IV là_