nhỏ|phải|Quân đội Đế quốc Nhật Bản năm 1900. Màu đồng phục phải là màu xanh đậm chứ không phải màu xám xanh như trong hình in mờ này.
(kanji cổ: 大日本帝國陸軍, kanji mới: 大日本帝国陸軍; romaji: Dai-Nippon Teikoku Rikugun; Hán-Việt: Đại Nhật Bản đế quốc lục quân) thường gọi tắt là Lục quân Nhật, là lực lượng quân sự trên bộ của Đế quốc Nhật Bản từ năm 1868 đến 1945, được kiểm soát bởi Bản bộ Tham mưu và Bộ Lục quân, cả hai đều dưới quyền Thiên hoàng Nhật Bản với tư cách là chỉ huy tối cao của quân đội và Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Sau này, có Tổng giám bộ Hàng không Lục quân trở thành cơ quan thứ ba giám sát quân chủng này. Vào thời kì đỉnh cao, Lục quân Đế quốc Nhật Bản là một trong những lực lượng chính trị mạnh mẽ nhất ở Đế quốc Nhật Bản, đồng thời cũng là nòng cốt thường chiếm ưu thế trên chiến trường. Lục quân Đế quốc Nhật Bản nổi tiếng với vô số tội ác chiến tranh đã gây ra trong Chiến tranh Trung–Nhật và Chiến tranh Thái Bình Dương, chẳng hạn như vụ cưỡng hiếp ở Nam Kinh và cuộc hành quân chết chóc Bataan.
Tên gọi
Tên gọi "Đại Nhật Bản Đế Quốc Lục quân" đã được sử dụng trong các tài liệu liên lạc đối ngoại, văn bản hành chính và một số tài liệu khác từ thập niên 1870 (thời Minh Trị). Ví dụ, vào năm 1918 (Đại Chính thứ 7), Bộ trưởng Lục quân Nhật Bản, Đại tướng Ōshima Ken'ichi (thuộc Nội các Terauchi), đã gửi một bức điện mừng đến Quốc vương Anh George V. Trong bức điện mang tiêu đề "Điện mừng từ Bộ trưởng Lục quân gửi đến Hoàng đế Anh quốc (gửi ngày 25 tháng 1 năm Đại Chính thứ 7 lúc 13 giờ 30 phút)", các tên gọi như "Lục quân Nhật Bản", "Lục quân Đế quốc", và "Đại Nhật Bản Đế Quốc Lục Quân" đều được sử dụng.
Tên tiếng Anh bao gồm Imperial Japanese Army, Japanese Imperial Army, và Japanese Army. Trong số đó, tên gọi tương ứng với "Đại Nhật Bản Đế Quốc Lục Quân" là Imperial Japanese Army. Tên gọi này đã được sử dụng trong một văn bản tiếng Anh của Bộ Lục quân Anh (nay là Bộ Quốc phòng Anh) gửi qua Đại sứ Anh tại Nhật, William Cunningham Greene, đến Ngoại trưởng Nhật Bản Makino Nobuaki (thuộc Nội các Yamamoto lần thứ nhất) vào năm 1913 (Đại Chính thứ 2). Nội dung văn bản đề cập đến việc đề nghị Nhật Bản tặng một khẩu súng trường kỵ binh mới kiểu 44 (Shiki).
Tổng quát
Trước khi Hiến pháp Đại Nhật Bản Đế Quốc được ban hành, quy định về quyền hạn quân sự chưa đầy đủ. Sau khi hiến pháp được thông qua, quyền quân sự được tách khỏi nội các và trực thuộc quyền chỉ huy tối cao từ Thiên hoàng. Vì vậy, chỉ có Thiên hoàng, với tư cách là Nguyên soái tối cao, là người chỉ huy cao nhất Lục quân và Hải quân Nhật Bản. Đối với Lục quân Đế quốc, các chức vụ cao cấp nhất sau Thiên hoàng là Bộ trưởng Lục quân (Đại thần), Tổng tham mưu trưởng (Tổng trưởng), và Tổng giám Giáo dục (Tổng giám), được gọi chung là "Ba chức vụ cao cấp trong Lục quân". Những chức vụ này thường do các tướng lĩnh cấp Đại tướng hoặc Trung tướng đảm nhiệm, nhưng không nhất thiết người giữ chức vụ phải ở cấp bậc cao nhất. Đặc biệt, nhiều Bộ trưởng Lục quân và Tổng giám Giáo dục trong lịch sử là các Trung tướng.
Để hỗ trợ cho ba chức vụ này, ba cơ quan hành chính gồm Bộ Lục quân, Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tổng giám Giáo dục được thành lập, thường được gọi là "Bộ phận trung ương". Bộ Lục quân (do Bộ trưởng Lục quân phụ trách) chịu trách nhiệm về quân chính và nhân sự; Bộ Tổng tham mưu (do Tổng tham mưu trưởng phụ trách) quản lý mệnh lệnh, chiến dịch và huy động; và Bộ Tổng giám Giáo dục (do Tổng giám Giáo dục phụ trách) quản lý giáo dục quân sự. Ngoài ra, ba cơ quan này có các vị trí cấp phó tương ứng là Thứ trưởng Lục quân, Phó tổng tham mưu trưởng và Phó Bộ trưởng Bộ Tổng giám Giáo dục.
Năm 1938 (Chiêu Hòa 13), để mở rộng và nâng cao tính linh hoạt trong quản lý lực lượng không quân, Bộ Tổng giám Không quân Lục quân được thành lập, chịu trách nhiệm giáo dục các trường học liên quan đến không quân. Tuy nhiên, vào cuối Thế chiến II, các trường này (trừ một số trường bổ sung) được quân sự hóa và Bộ Tổng giám Không quân bị giải thể, thay vào đó là Tổng quân Không quân.
Bộ Tổng tham mưu, trong thời chiến hoặc khi xảy ra sự kiện lớn, sẽ trở thành Bộ Lục quân Đại bản- cơ quan chỉ huy tối cao cả Lục quân và Hải quân, tương đương với Bộ Tổng tư lệnh ở các nước khác. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa Tổng tham mưu trưởng là chỉ huy tối cao Lục quân. Về phía Tổng giám Giáo dục, mặc dù trên lý thuyết quản lý việc giáo dục trong Lục quân, các trường học liên quan đến cảnh vệ, tài chính, y tế, pháp lý, xe tăng, không quân, tham mưu và tình báo lại do Bộ Lục quân, Bộ Tổng tham mưu, hoặc Bộ Tổng giám Không quân phụ trách.
Tổ chức
Bộ máy chỉ huy
Bộ Lục quân, đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Lục quân.
Bộ Tổng tham mưu, đứng đầu là Tổng Tham mưu trưởng
Cục Quân huấn, đứng đầu là Cục trưởng.
Trong Lục quân Đế quốc Nhật Bản, không kể Thiên hoàng, thì 3 vị đứng đầu 3 cơ quan trên là 3 người có vị trí cao nhất.
Cục hàng không, Bộ Tư lệnh Cảnh bị Tōkyō, Bộ Tư lệnh Phòng vệ, Bộ Tư lệnh các Căn cứ, Bộ Tư lệnh các Quân khu, Cục Quân giới, v.v...
Biên chế
Tổng quân (総軍, sōgun): là quy mô đơn vị lục quân lớn nhất, gồm một số phương diện quân và các đơn vị cấp thấp hơn hợp thành. Tư lệnh thường mang hàm đại tướng;
Phương diện quân (方面軍, hōmengun): gồm một số đơn vị cấp quân đoàn và các đơn vị cấp thấp hơn hợp thành. Tư lệnh thường mang hàm đại tướng hoặc trung tướng;
Quân (軍, gun): khác với biên chế trong quân đội nhiều quốc gia khác, cấp quân trong Lục quân Đế quốc Nhật Bản không có biên chế cố định, thường gồm một số sư đoàn và các đơn vị cấp thấp hơn hợp thành, có thể xem như có biên chế tương đương quân đoàn. Tư lệnh thường mang hàm trung tướng, tham mưu trưởng thường mang hàm thiếu tướng.
Sư đoàn (師団, shidan): là cấp đơn vị nòng cốt của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Ban đầu, tư lệnh thường mang hàm trung tướng; về sau, thường mang hàm thiếu tướng;
Lữ đoàn (旅団, ryodan): lúc mới thành lập cấp này, lữ trưởng được quy định mang hàm thiếu tướng; sau đó có điều chỉnh lại, chỉ huy trưởng là đại tá.
Liên đội (連隊, rentai): lúc mới thành lập, cấp này có biên chế tương đương cấp trung đoàn, liên đội trưởng bộ binh thường mang hàm đại tá, liên đội trưởng kỵ binh, pháo binh, cơ giới mang hàm trung tá; sau đó có điều chỉnh lại, quy mô chỉ còn tương đương tiểu đoàn;
Đại đội (大隊, daitai): thời kỳ đầu, cấp trưởng quan đại đội bộ binh thường mang hàm thiếu tá, sau được điều chỉnh lại.
Trung đội (中隊, chutai): một trung đội bộ binh có 136 chiến sĩ; một trung đội kỵ binh có 159 chiến sĩ;
Tiểu đội (小隊, shoutai): khoảng 2-4 phân đội hay 20-40 chiến sĩ;
Phân đội (分隊, buntai): khoảng 10 chiến sĩ.
Các đơn vị được biên chế theo binh chủng: bộ binh, kỵ binh, pháo binh
Quân hàm
Thời kỳ 1944-1945, Lục quân Đế quốc Nhật Bản có các quân hàm sau, xếp từ cao xuống thấp:
nhỏ|phải|Quân đội Đế quốc Nhật Bản năm 1900. Màu đồng phục phải là màu xanh đậm chứ không phải màu xám xanh như trong hình in mờ này. (kanji cổ: 大日本帝國陸軍, kanji mới: 大日本帝国陸軍; romaji:
**Bộ đội Hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản** hay **Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản** ( là binh chủng không quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Cũng giống như
Học viện Lục quân Đế quốc Nhật Bản, [[Tōkyō|Tokyo 1907.]] **Trường Sĩ quan Lục quân** (陸軍士官学校, _Lục quân sĩ quan học hiệu_, _Rikugun shikan gakkō_), là ngôi trường đã đào tạo các viên chức chính
nhỏ|Đại học Lục quân (Đế quốc Nhật Bản) **Đại học Lục quân** (, gọi tắt là **Lục Đại** ()) của Lục quân Đế quốc Đại Nhật Bản là một cơ sở đào tạo sĩ quan
**Sư đoàn 8 bộ binh** (kanji: 歩兵第8師団, romaji: Hohei Dai-hachi Shidan), là một sư đoàn bộ binh thuộc Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Bí danh là **Sư đoàn Thông** (杉兵団, Sugi-heidan). ## Lịch sử
của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, thường được gọi là . ## Lịch sử Là một sư đoàn bộ binh được thành lập tại Kurume, Kyushu vào ngày 13 tháng 11 năm 1907 trong
**Sư đoàn 11** (第11師団, Dai-Juichi Shidan), là một sư đoàn thuộc Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Bí danh là **Sư đoàn Gấm** (錦兵団, Nishiki-heidan). ## Lịch sử Sư đoàn 11 được thành lập ngày
Trong Lục quân Đế quốc Nhật Bản, thuật ngữ **phương diện quân** (kanji: _方面軍_, rōmaji: _hōmengun_) được dùng để chỉ hình thái tổ chức cấp trên của biên chế _gun_ (軍; tương đương cấp quân
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
Còn được gọi là **Kidō Butai** ("Lực lượng cơ động"), là tên được sử dụng cho một hạm đội tàu sân bay chiến đấu kết hợp bao gồm hầu hết các tàu sân bay và
thuộc Bộ Hải quân Nhật Bản chịu trách nhiệm cho việc phát triển và đào tạo cho lực lượng Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Năm 1941, nó được lãnh đạo bởi Phó
Đây là danh sách các hạm đội của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lực lượng này tồn tại từ năm 1868 đến năm 1945, khi nó được thay thế bởi Lực lượng phòng vệ
**Phương diện quân 7** (第7方面軍, Dainana hōmengun), là một phương diện quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, tham gia giai đoạn cuối cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. ## Lịch sử Phương diện
**Phương diện quân 18** (第18方面軍, Dai jyūhachi hōmen gun) là một đại đơn vị cấp phương diện quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản (tương đương cấp tập đoàn quân), tham chiến trong Thế
**Đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản** là các quân hàm cấp tướng trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản từ năm 1872 đến năm 1945. Trên thực tế, các cấp bậc đô đốc
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
phải|nhỏ|250x250px|Đại bản doanh Đế quốc Nhật Bản ra thông cáo, tháng 1 năm 1942. phải|nhỏ|250x250px|Nhật hoàng [[Hirohito chủ trì cuộc họp tại Đại bản doanh năm 1943. Các đô đốc hải quân ngồi bên trái
**Nguyên soái** () là một quân hàm trong quân đội Đế quốc Nhật Bản từ năm 1872 đến năm 1873. Sau thời kỳ trên, quân hàm này bị bãi bỏ. Đến năm 1898, Phủ Nguyên
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** hoạt động dưới sự kiểm soát của Cục Hàng không Hải quân(_Kaigun Kōkū Hombu_). ## Tổ chức hành chính nhỏ|250x250px| Mitsubishi A6M2 "Zero" mẫu 21 trên boong
**Phương diện quân 6** (第6方面軍, Dai roku hōmen gun), là một phương diện quân của quân đội Đế quốc Nhật Bản, tham gia chiến tranh Trung-Nhật và thế chiến thứ 2. ## Lịch sử Phương
**Phương diện quân 2** (第2方面軍, Dai ni hōmen gun), là một phương diện quân của quân đội đế quốc Nhật Bản, tham gia chiến tranh thế giới thứ 2. ## Lịch sử Phương diện quân
Sau đây là **danh sách máy bay** của **Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** và **Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản**, trong quá khứ và hiện tại. Captain Le Triem ## Trước
**Phương diện quân 8** (第8方面軍|Dai-hachi hōmen gun), là một phương diện quân thuộc Quân đội Nhật Bản tham gia chiến tranh thế giới thứ 2. ## Lịch sử Phương diện quân 8 được thành lập
Ban bố Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản (1889). ****, cũng được gọi là **Hiến pháp Đế quốc**, **Hiến pháp Minh Trị** hay **Hiến pháp Đại Nhật Bản** là bản Hiến pháp đầu tiên trong
**Đài Loan quân** (kanji: 台湾軍, romaji: _Taiwangun_) là một binh đoàn đồn trú cấp quân đoàn của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, quản lý và đồn trú tại Đài Loan. ## Lịch sử Sau
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:The_1st_Labor_Day_in_Japan.JPG|nhỏ|250x250px|Cuộc biểu tình Ngày lao động đầu tiên ở Nhật Bản, năm 1920 **Tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Đế quốc Nhật Bản** xuất hiện trong thời kì Minh Trị (1868–1912) với sự phát
là một bộ phận của Cục Hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản chịu trách nhiệm lập kế hoạch, giám sát việc huấn luyện quân nhân bảo trì hàng không của Bộ đội hàng
**Binh đoàn 3** (第3軍, Dai-san gun) là một đại đơn vị cấp quân đoàn thuộc Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Là một lực lượng đồn trú tại Mãn Châu quốc, đặt dưới sự chỉ
**Binh đoàn 38** (第38軍/ だいさんじゅうはちぐん/ _Dai-sanjyūhachi gun_) là một đơn vị cấp quân đoàn thuộc Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Lịch sử Nguyên tên ban đầu
**Binh đoàn 11** (第11軍, Dai-jyū-ichi gun) là một đại đơn vị cấp quân đoàn của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, tham gia chiến tranh Trung-Nhật lần thứ 2. ## Lịch sử Binh đoàn 11
là một đơn vị tàu sân bay thuộc Hạm đội Hàng không thứ nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đơn vị này bao gồm hai tàu sân bay Shōkaku và Zuikaku. Chiến đội
**Hệ thống đánh mã máy bay quân sự của Nhật Bản** trong thời kỳ Đế quốc (trước 1945) bao gồm hệ thống cho mỗi đơn vị vũ trang. Điều này dẫn đến việc sử dụng
**Lục quân Đại Hàn Dân Quốc** (; - **ROKA**), ngắn gọn hơn là **Lục quân Hàn Quốc**, là một quân chủng cấu thành nên Lực lượng Vũ trang Hàn Quốc, phụ trách nhiệm vụ tác
thế=|nhỏ|Buổi biểu diễn trên sân khấu của các thiếu nữ Nhật Bản cho Hitlerjugend Tội ác chiến tranh của Đế quốc Nhật Bản xảy ra ở nhiều nước Châu Á Thái Bình Dương trong thời
là một đơn vị Hàng không Mẫu hạm thuộc Đệ nhất Hàng không Chiến đội của Đại Đế quốc Nhật Bản Hải quân. Vào đầu Chiến dịch Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai,
là một lá cờ hình chữ nhật có nền trắng với một hình tròn màu đỏ lớn (tượng trưng cho mặt trời) nằm ở chính giữa. Trong tiếng Nhật, quốc kỳ được gọi là ,
:_Lục quân Đế quốc Đức được đổi hướng đến đây. Để tìm hiểu các nghĩa khác, xem bài Lục quân Đế quốc La Mã Thần thánh và Lục quân Áo và Hungary trong Chiến tranh
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**Lục quân Đế quốc Áo-Hung** là lực lượng lục quân của Đế quốc Áo-Hung tồn tại từ năm 1867 khi đế quốc này được thành lập cho đến năm 1918 khi đế quốc này tan
**Bộ Lục quân** () là một bộ nội các của Đế quốc Nhật Bản, thành lập năm 1872, giải thể năm 1945. Người đứng đầu Bộ Lục quân là Bộ trưởng Bộ Lục quân (陸軍大臣),
**Tổng quân** () là biên chế quân sự lớn nhất của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Một Tổng quân thường phụ trách hẳn một địa bàn mặt trận, tổ chức hợp thành gồm cả
**Đạo quân Quan Đông** (; Hán-Việt: Quan Đông quân) là một trong các tổng quân (_sōgun_) của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Đây là lực lượng tinh nhuệ nhất của lục quân Nhật, được