✨Cơ cấu tổ chức Không lực Hải quân Đế quốc Nhật

Cơ cấu tổ chức Không lực Hải quân Đế quốc Nhật

Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động dưới sự kiểm soát của Cục Hàng không Hải quân(Kaigun Kōkū Hombu).

Tổ chức hành chính

nhỏ|250x250px| Mitsubishi A6M2 "Zero" mẫu 21 trên boong máy bay của mẫu hạm [[Shokaku, ngày 26 tháng 10 năm 1942, Trận chiến Quần đảo Santa Cruz. ]]

Kōkū Kantai

bao gồm một hoặc nhiều kōkū sentai. Kōkū Kantai nổi tiếng nhất là Hàng không hạm đội thứ nhất bao gồm sáu tàu sân bay của Nhật và chịu trách nhiệm về vụ tấn công Trân Châu Cảng. Hải quân Nhật cũng duy trì hệ thống hạm đội hàng không hải quân trên đất liền và hạm đội hàng không khu vực gọi là homen kantai bao gồm các loại máy bay ném bom hai động cơ và thủy phi cơ.

Kōkū Sentai

bao gồm hai hoặc nhiều Kōkūtai, họ được chỉ huy bởi Chuẩn đô đốc. Kōkū sentai có thể bao gồm từ một số ít đến 80 hoặc 90 máy bay, và phụ thuộc vào cả nhiệm vụ và loại tàu sân bay hoặc sân bay mà họ được điều đến. Một kōkū sentai tương đương với một hạm đội tàu sân bay và bao gồm tất cả các máy bay của tàu sân bay trong hạm đội. Kōku sentai đầu tiên được thành lập vào tháng 12 năm 1941, bao gồm tất cả các máy bay trên tàu sân bay Akagi và Kaga. Trên đất liền, kōku sentai bao gồm 3 kōkutai.

Hệ thống Kōkūtai

tương đương với một Liên đoàn bay Mỹ/Đức/Pháp hay Trung đoàn không quân Việt Nam. Một kōkūtai theo nghĩa rộng nhất bao gồm một phi đội và đơn vị đồn chú của phi đội đó ví dụ như sân bay hay tàu sân bay. Một kōkūtai có thể có từ 18 tới 27 máy bay và lấy tên của đơn vị đồn trú nơi họ được thành lập. Nó có thể bao gồm một loại máy bay hay sử dụng kết hợp nhiều loại máy bay. Đối với các kōkūtai trên đất liền, chúng thường mang nhiều máy bay hơn từ 24 đến hơn 100 máy bay. Đa số các kōkūtai trên đất liền chỉ sử dụng một loại máy bay và nằm dưới quyền chỉ huy của Vùng hải quân (chinjufu) mà đơn vị đồn trú gốc của họ nằm trong. Các kōkūtai này sau đó được chỉ định tên bằng số hay căng cứ đóng quân. Đầu cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, Hải quân Nhật có hơn 90 kōkūtai.

Theo hệ thống Kōkūtai trên đất liền được thiết lập vào năm 1916, căn cứ không quân và Kōkūtai sẽ được thành lập theo nhu cầu chiến lược tại một cảng hải quân (gunkō) hay cảng chiến lược (yōkō). Tên của chúng được lấy từ các nơi này và chúng nằm dưới sự chỉ huy của các cảng đó. Các Kōkūtai và căn cứ nằm ngoài các cảng đó được đặc dưới sự chỉ huy của Vùng hải quân gần nhất. Từ lúc thành lập đơn vị không quân trên cạn đầu tiên của Hải quân Nhật tại Yokosuka cho tới kết thúc cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, cụm từ Kōkūtai dùng để chỉ cả căn cứ hoạt động và đơn vị không quân đang đồn trú tại đó. Đơn vị bay (Hikōkitai or hikōtai) vận hành máy bay còn các nhân sự còn lại vận hành và bảo trì cơ sở vật chất tại căn cứ. Giống như việc đội bay của một tàu sân bay được coi như là một phần cốt lõi của tàu, các Kōkūtai được coi như là thuộc đội hình của căn cứ nơi họ được đồn trú.

Năm 1919, Hải quân Nhật đưa ra các quy định mới nói rằng trong thời gian chiến tranh, khẩn cấp hay diễn tập có thể thành lập các Tōkusetsu Kōkūtai (Không đoàn đặc biệt) và được đặc tên số hay địa danh. Chúng có thể là không quân tàu sân bay hay trên đất liền nhưng đa số là không quân trên cạn và được đặc tên số. Trong hầu hết các trường hợp, các đơn vị này được tách từ các Kōkūtai có sẵn. Đơn vị đầu tiên của cơ chế này là Kōkūtai số 11, được thành lập ngắn hạn vào năm 1936. Mặc dù quy định này được áp dụng vào năm 1916 và 1919, nhưng phải đến những năm 1930 thì mới có các quy định và hướng dẫn cụ thể về cơ cấu tổ chức nội bộ, vị trí, chức năng và chế độ huấn luyện của của các Kōkūtai này. Các quy định và hướng dẫn này tiếp tục được sửa đổi cho đến hết Thế chiến.

Vào tháng 11 năm 1936, Hải quân Nhật sắp xếp thành lập các Tōkusetsu rengō kōkūtai (Không đoàn liên kết đặc biệt), bao gồm ít nhất hai Kōkūtai. Các Kōkūtai kết hợp này được hình thành nhằm tăng cường không lực của một đơn vị chỉ huy. Kōkūtai kết hợp thứ nhất và thứ hai được hình thành vào tháng 7 năm 1937 vào thời kì đầu của cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và là lực lượng cốt lõi của các chiến dịch trên không của Hải quân trong những năm đầu của cuộc chiến. Các Jōsetsu rengō kōkutai (Không đoàn liên kết thường trực), phiên bản cố định của Kōkūtai kết hợp, bắt đầu được thành lập vào tháng 12 năm 1938. Cho đến hết những năm 1930, đa số các Kōkūtai mang máy bay hỗn tạp với chủ đạo là thủy phi cơ nhưng sau này dùng càng nhiều các máy bay chiến đấu, máy bay ném ngư lôi, máy bay ném bom bổ nhào trên tàu sân và máy bay ném bom hai động cơ đặt trên đất liền. Tuy nhiên, đến năm 1941 các Kōkūtai trên cạn của Hải quân Nhật gần như hoàn toàn chỉ sử dụng một loại máy bay duy nhất ngoại trừ, Kōkūtai Chitose đóng ở Micronesia thì sử dụng kết hợp máy bay ném bom hạng trung và máy bay chiến đấu. Vào ngày 1 tháng 11 năm 1942, tất cả các Kōkūtai trên cạn với tên địa điểm đã được chỉ định lại bằng tên số.

Trong suốt Thế chiến, cấu trúc này thiếu linh hoạt và cản trở các chiến dịch tiền tuyến, do đó, vào tháng 3 năm 1944, các lực lượng không quân trên bộ của Hải quân Nhật đã được tái cơ cấu, và một số hikōtai đã được chỉ định số độc lập và nhận dạng riêng của họ bên ngoài Kōkūtai chỉ huy của họ.

Hikōtai

(tương đương với Phi đội Việt Nam) là đội hình bay của một Kōkūtai cả trên cạn và trên tàu sân bay. Hikōtai được chỉ huy bởi một Trung úy, Chuẩn úy hay một Thượng sĩ có kinh nghiệm trong khi đa số phi công là hạ sĩ quan. Cả phiên bản trên tàu sân bay và trên đất liền đều mang 9, 12 hay 16 máy bay. Hikōtai là đơn vị chiến đấu chính của Không lực Hải quân Nhật và tương đương với một Chūtai của Không lực Lục quân Nhật. Mỗi hikōtai gồm bốn phần, mỗi phần gọi là shōtai gồm ba hoặc bốn máy bay. Đến giữa năm 1944, đa số shōtai sử dụng bốn máy bay.

Hikō Buntai

là đơn vị hành chính nhân sự nhỏ nhất của Không lực Hải quân. Đơn vị này chỉ mang tính hành chính và không phải là đơn vị chiến đấu. Tất cả nhân sự trong một kōkūtai được chia thành vào đội gọi là buntai. Trong hikōtai mỗi buntai bao gồm tất cả những nhân sự cần để bay và bảo trì một phi đội Chūtai. Số người trong một buntai sẽ khác nhau tùy theo vai trò, nhiệm vụ và loại máy bay của buntai đó. Mặc dù phi công sử dụng thuật ngữ chūtaibuntai như một, buntai là đơn vị hành chính còn chūtai là đơn vị chiến đấu trên không. Một buntaicho (Phân đội trưởng) sẽ được gọi là chūtaicho (Trung đội trưởng) khi đang bay.

Đội hình chiến thuật và tác chiến

Hikōkitai

là đội bay của một tàu sân bay mà lấy tên của tàu sân bay mà họ đóng quân, ví dụ hikōkitai.

Daitai, Chūtai, Shōtai

Một gồm 18 máy bay. Một bao gồm 9 máy bay còn một có 3 máy bay

Hệ thống định danh các Kōkūtai

Trước ngày 31 tháng 10 năm 1942

  • Tên địa điểm: Không đoàn hải quân cố định (常設航空隊, Jōsetsu-Kōkūtai).
  • Tên đánh số: Không đoàn hải quân không cố định (特設航空隊, Tokusetsu-Kōkūtai).

Sau ngày 1 tháng 11 năm 1942

  • Tên đánh số: Không đoàn loại 'A' (甲航空隊, Kō Kōkūtai) là đơn vị chiến đấu. Ví dụ ** Kōkūtai thứ 12 là không đoàn huấn luyện (máy bay ném bom). Kōkūtai thứ 121 là không đoàn máy bay trinh sát. Kōkūtai thứ 762 là không đoàn máy bay ném ngư lôi trên mặt đất. Kōkūtai thứ 1081 là không đoàn không vận quân sự. ** Bảng quy định

Ví dụ: Kōkūtai thứ 601 có chữ số hàng trăm là 6 (Không đoàn tàu sân bay), số hàng trục là 0 (thuộc vùng hải quân Yokosuka) và số 1 (đóng cố định trên tàu sân bay thuộc hạm đội tàu sân bay thứ nhất)

  • Tên địa điểm: Không đoàn loại 'A' là đơn vị đào tạo, đơn vị đánh giá. Ví dụ ** Atsugi Kōkūtai Kasumigaura Kōkūtai Takuma Kōkūtai Yokosuka Kōkutai
  • Tên vùng: Không đoàn loại 'B' (乙航空隊, Otsu Kōkūtai) là đơn vị bảo vệ căn cứ không quân. Ví dụ ** Kantō Kōkutai Mariana Kōkutai *** Hitou Kōkutai

Định danh phi đội

Sau ngày 1 tháng 3 năm 1944

  • Bảng quy định

Hệ thống nhận dạng máy bay hải quân

Khi bắt đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai, Hải quân Nhật có ba hệ thống đánh tên cho máy bay: Hệ thống số thí nghiệm , hệ thống số và hệ thống mã số giống hệ thống sử dụng bởi Hải quân Mỹ từ năm 1922 đến 1962.

Mỗi thiết kế mới sẽ được cấp trước một số Shi dựa trên số năm trị vì của Thiên Hoàng hiện tại. Chiếc Mitsubishi Zero ban đầu được cấp tên gọi là

Khi được đưa vào sản xuất, chiếc Zero được cấp tên Shiki. Tên đầy đủ của nó là vì nó được đưa vào biên chế vào năm 1940 tương đương với năm 2600 của lịch Nhật Bản.

Máy bay cũng được cấp một "tên mã" bằng chữ số La Mã.

  • Chữ cái đầu tiên (đôi khi là hai chữ đầu tiên) chỉ ra loại hoặc mục đích cơ bản của máy bay.
  • Chữ cái thứ hai là một số cho biết số thứ tự của thiết kế trong loại máy bay trên.
  • Chữ cái thứ ba là chữ mã của nhà sản xuất và bao gồm một số công ty ngoài Nhật Bản.

(Chiếc G4M là máy bay tấn công trên đất liền (G), là chiếc đời thứ tư của loại máy đó (4) và được. Mitsubishi thiết kế và sản xuất)

  • Chữ sốt thứ tư là một con số chỉ phiên bản của máy bay.

Do đó, phiên bản sản xuất đầu tiên của 'Zero' là A6M1.

_Dữ liệu từ:_Japanese Military Aircraft Designations

| valign="top" |

|} Những thay đổi nhỏ hơn được chỉ định bằng cách thêm các chữ cái sau bộ mã. Hai chữ cái đầu tiên và số sê-ri vẫn giữ nguyên cho vòng đời của mỗi thiết kế.

Trong một số trường hợp, khi vai trò thiết kế của máy bay thay đổi, vai trò mới được chỉ định bằng cách thêm dấu gạch ngang và mã vai trò vào cuối ký hiệu ngắn hiện có.

(ví dụ, H6K4 là tàu bay thứ sáu (H6) được thiết kế bởi Kawanishi (K), phiên bản thứ tư của thiết kế đó (4). Khi máy bay được trang bị chủ yếu dưới dạng máy bay vận tải, tên gọi của nó là H6K4-L. với chữ L chỉ định vai trò mới)

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** hoạt động dưới sự kiểm soát của Cục Hàng không Hải quân(_Kaigun Kōkū Hombu_). ## Tổ chức hành chính nhỏ|250x250px| Mitsubishi A6M2 "Zero" mẫu 21 trên boong
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
thuộc Bộ Hải quân Nhật Bản chịu trách nhiệm cho việc phát triển và đào tạo cho lực lượng Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Năm 1941, nó được lãnh đạo bởi Phó
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
Đây là danh sách các hạm đội của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lực lượng này tồn tại từ năm 1868 đến năm 1945, khi nó được thay thế bởi Lực lượng phòng vệ
**Bộ đội Hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản** hay **Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản** ( là binh chủng không quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Cũng giống như
là một đơn vị tàu sân bay thuộc Hạm đội Hàng không thứ nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đơn vị này bao gồm hai tàu sân bay Shōkaku và Zuikaku. Chiến đội
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
Học viện Lục quân Đế quốc Nhật Bản, [[Tōkyō|Tokyo 1907.]] **Trường Sĩ quan Lục quân** (陸軍士官学校, _Lục quân sĩ quan học hiệu_, _Rikugun shikan gakkō_), là ngôi trường đã đào tạo các viên chức chính
là một cơ sở sản xuất quan trọng cho vũ khí máy bay, vũ khí hạng nhẹ và đạn dược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai. Nó nằm ở
phải|nhỏ|300x300px|Bộ tham mưu Hải quân Yokosuka tháng 4 năm 1942 là cơ sở đầu tiên trong bốn quận hành chính chính của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh. Lãnh thổ của nó
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**Hiệp ước Hải quân Washington**, còn được gọi là **Hiệp ước Năm cường quốc** là một hiệp ước được ký kết vào năm 1922 trong số các quốc gia lớn đã thắng Thế chiến thứ
phải|nhỏ|300x300px|Tòa nhà Bộ Hải quân, Tokyo, vào khoảng năm 1890 **Bộ Hải quân** (海軍省 _Kaigun-shō_
**_Mikasa_** (tiếng Nhật: 三笠; Hán-Việt: Tam Lạp) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo tại Anh Quốc vào đầu thế kỷ 20. Nó đã
là căn cứ hải quân quan trọng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản ở miền bắc Honshu trước và trong Thế chiến II. Nằm trong vịnh Mutsu (ngày nay là thành phố Mutsu, tỉnh
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_Kashima_** (tiếng Nhật: 鹿島) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai được hoàn tất trong lớp _Katori_ gồm ba chiếc. Tên của nó được
**_Natori_** (tiếng Nhật: 名取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật Bản.
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:The_1st_Labor_Day_in_Japan.JPG|nhỏ|250x250px|Cuộc biểu tình Ngày lao động đầu tiên ở Nhật Bản, năm 1920 **Tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Đế quốc Nhật Bản** xuất hiện trong thời kì Minh Trị (1868–1912) với sự phát
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
:_Lục quân Đế quốc Đức được đổi hướng đến đây. Để tìm hiểu các nghĩa khác, xem bài Lục quân Đế quốc La Mã Thần thánh và Lục quân Áo và Hungary trong Chiến tranh
**Nagumo Chūichi** (, 25 tháng 3 năm 1887 - 6 tháng 7 năm 1944) là đại tướng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tướng tiên phong hàng đầu
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Tổ chức Thương mại Thế giới** là một tổ chức quốc tế có trụ sở chính tại Genève, Thụy Sĩ, có chức năng điều chỉnh và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc
**Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc** hay **Hải quân Trung Quốc** () là lực lượng hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Quy mô tổ chức của Hải quân
**Đế quốc Anh** () bao gồm các vùng tự trị, thuộc địa được bảo hộ, ủy thác và những lãnh thổ khác do Khối liên hiệp Anh và các quốc gia tiền thân của nó
**Tổ chức Hợp tác Thượng Hải** (; ) là một tổ chức quốc tế về chính trị, kinh tế và an ninh Á -Âu, được thành lập năm 2001 bởi lãnh đạo các quốc gia:
**Đế quốc Tân Babylon**, còn được gọi là **Đế chế Babylon thứ hai** và thường được các nhà sử học nhắc đến là **Đế chế Chaldea**, là đế quốc Lưỡng Hà lớn cuối cùng được
**Hải quân Pháp** (tiếng Pháp: _Marine nationale_), tên gọi không chính thức là **La Royale**, là lực lượng hải quân của Lực lượng Vũ trang Pháp. Được thành lập từ năm 1624, Hải quân Pháp
**Hải quân Liên Xô** () là nhánh hải quân của Lực lượng vũ trang Liên Xô. Thường được gọi là **Hạm đội Đỏ**, Hải quân Liên Xô là lực lượng có số lượng tàu chiến
là một lá cờ hình chữ nhật có nền trắng với một hình tròn màu đỏ lớn (tượng trưng cho mặt trời) nằm ở chính giữa. Trong tiếng Nhật, quốc kỳ được gọi là ,
**Hải quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Marine Nationale Khmère_ – MNK; tiếng Anh: _Khmer National Navy_ – KNN) là quân chủng hải quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và là lực lượng quân
[[Tập tin:SCI-logo.gif|phải|nhỏ|150x150px|
**SCI Logo**

**Web:** [http://www.sciint.org www.sciint.org] ]] **Service Civil International** (**SCI**) hay tổ chức dịch vụ dân sự quốc tế là một tổ chức tình nguyện phi chính phủ quốc tế và là một
nhỏ|_[[Ōryoku Maru_, một trong những tàu địa ngục bị không quân Mỹ tấn công trên vịnh Manila]] **Tàu địa ngục** (, ) là từ chỉ tàu thủy và tàu chiến được Nhật Bản dùng để
**Chiến dịch Vengeance** (tiếng Việt: **Chiến dịch Báo thù**) là một chiến dịch quân sự của Quân đội Hoa Kỳ ở Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
**Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào** () là cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; là một cơ quan chuyên môn tham
nhỏ|228x228px|Yamamoto (hàng trước, ngồi, thứ 2 bên trái) cùng gia đình, bên trái là Teikichi Hori nhỏ|225x225px|Yamamoto lúc trẻ và Curtis D. Wilbur, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ **Yamamoto Isoroku** (kanji: 山本五十六, Hán Việt:
phải|_[[USS Bunker Hill (CV-17)|Bunker Hill_ bị tấn công bằng kamikaze do Thiếu úy Kiyoshi Ogawa điều khiển (ảnh bên dưới) và Trung úy Seizō Yasunori thực hiện vào ngày 11 tháng 5 năm 1945. Trong
**Trận chiến vịnh Leyte**, còn gọi là **Hải chiến vịnh Leyte**, trước đây còn có tên là "Trận biển Philippine lần thứ hai", được xem là trận hải chiến lớn nhất của Thế Chiến II
là cuộc tổng phản công của Hải quân Đế quốc Nhật Bản nhằm vào lực lượng Đồng Minh tại Okinawa. Đây cũng là trận đụng độ không quân - hải quân cuối cùng giữa hải
**IJN Yamato** () là những thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo và hoạt động trong Thế chiến thứ hai. Với trọng lượng rẽ nước khi đầy tải lên