✨Chiến dịch New Guinea

Chiến dịch New Guinea

Chiến dịch New Guinea diễn ra từ tháng 1/1942 cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai vào giai đoạn kết thúc tháng 8/1945. Trong giai đoạn đầu vào đầu năm 1942, Đế quốc Nhật Bản đã xâm chiếm các lãnh thổ do Úc quản lý gồm New Guinea (23/1), Papua (8/3) và tràn ngập ở Tây New Guinea, khu vực là một phần của Đông Ấn Hà Lan. Vào giai đoạn hai, kéo dài từ cuối năm 1942 cho đến khi Đế quốc Nhật đầu hàng, Quân đội Đồng minh,bao gồm chủ yếu các lực lượng Úc và Hoa Kỳ đã đánh bại quân Nhật từ Papua, sau đó là Mandate và cuối cùng là thuộc địa của Hà Lan.

Chiến dịch đã dẫn đến một thất bại và tổn thất nặng nề cho Đế quốc Nhật Bản. Như trong hầu hết các chiến dịch trong Chiến tranh Thái Bình Dương, bệnh tật và nạn đói đã cướp đi sinh mạng của quân Nhật nhiều hơn là sự tấn công từ quân địch. Hầu hết lính Nhật Bản thậm chí còn không thể giáp mặt với các lực lượng Đồng minh mà thay vào đó phải chịu sự cắt đứt và phong tỏa hiệu quả từ Hải quân Hoa Kỳ. Một số người cho rằng 97% cái chết của lính Nhật trong chiến dịch này không đến từ nguyên nhân chiến đấu.

Năm 1942

Tình hình chiến lược

thumb|[[Papua New Guinea, biển Bismarck và bắc Quần đảo Solomon]] Chiến sự ở New Guinea bắt đầu vào tháng 1/1942 bằng sự kiện quân Nhật đánh chiếm thành phố Rabaul, nằm ở mũi phía đông bắc đảo New Britain (quân Đồng minh sau đó đáp trả bằng hàng loạt các cuộc ném bom). Thành phố Rabaul nhìn ra cảng Simpson, một nơi thuận lợi cho tàu thuyền neo lại và là một vị trí lý tưởng để xây dựng sân bay. Trong nhiều năm, người Nhật đã xây dựng khu vực này thành một căn cứ không quân và hải quân lớn.

Phương diện quân số 8 của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, dưới sự chỉ huy của Đại tướng Hitoshi Imamura ở Rabaul, chịu trách nhiệm cho cả chiến dịch tại New Guinea và Quần đảo Solomon.Phương diện quân số 18, dưới sự chỉ huy của Trung tướng Hatazō Adachi, chịu trách nhiệm cho các hoạt động của Nhật Bản trên lục địa New Guinea.

Thủ đô Port Moresby nằm trên bờ biển phía nam Papua là chìa khóa chiến lược của người Nhật trong các hoạt động quân sự.Nếu chiếm được sẽ vô hiệu hóa cả căn cứ tiền phương chính của quân Đồng minh và đóng vai trò là bàn đạp cho ý đồ mở một cuộc xâm lược của Nhât vào Úc. Với lý do tương tự, Tướng Douglas MacArthur, Tư lệnh tối cao Lực lượng Đồng minh Khu vực Tây Nam Thái Bình Dương đã quyết tâm phải giữ được khu vực này. MacArthur còn muốn chinh phục toàn bộ New Guinea trong tiến trình cuối cùng nhằm tái chiếm Philippines. Vào ngày 25/5/1942, theo chỉ đạo của tổng hành dinh số 7 chỉ huy khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, do Tư lệnh quân Đồng minh - Tướng Douglas MacArthur ban hành, đặt tất cả lực lượng Úc, Không quân và Hải quân Hoa Kỳ ở Port Moresby dưới sự kiểm soát của lực lượng New Guinea.

Nhật Bản chiếm giữ Lae và Salamaua

Vịnh Huon và bán đảo Huon nằm ở phía Bắc Port Moresby, trên bờ biển Papua. Vào đầu tháng 3/1942, quân Nhật đã tiến vào hai vị trí không được bảo vệ nằm trên vịnh Houn là Lae và Salamaua. MacArthur không muốn để khu vực này vào tay người Nhật nhưng ông không có đủ lực lượng không quân cũng như hải quân để thực hiện một cuộc phản công. Quân Nhật tại Rabaul và các căn cứ khác ở New England có thể dễ dàng đánh bại bất cứ nỗ lực tấn công nào của ông (đến giữa tháng 9, toàn bộ lực lượng hải quân của MacArthur dưới quyền Phó Đô đốc Arthur S. Carpender gồm 5 tàu tuần dương, 8 tàu khu trục, 20 tàu ngầm và 7 tàu nhỏ). Hành động đáp trả duy nhất của quân Đồng minh là một cuộc tấn công ném bom Lae và Salamaua bằng máy bay qua dãy Owen Stanley từ các tàu sân bay USS Lexington và USS Yorktown, khiến quân Nhật phải ra sức củng cố các cứ điểm này.

Nỗ lực của Nhật Bản trên cảng Moresby

Chiến dịch Mo là kế hoạch được người Nhật đưa ra nhằm chiếm lấy Port Moresby. Kế hoạch này được tiến hành theo năm mũi nhọn: một đội đặc nhiệm thiết lập một căn cứ thủy phi cơ ở Quần đảo Solomon, một để thiết lập một căn cứ thủy phi cơ ở quần đảo Louisiade ngoài khơi phía đông New Guinea, một khu vực vận chuyển cho bộ binh gần Port Moresby, một tàu sân bay hạng nhẹ hỗ trợ cho việc hạ cánh, và hai tàu sân bay nhằm chống lại các cuộc tấn công của quân Đồng minh. Với kết quả của Trận chiến biển Coral diễn ra từ 4-8/5/1942, quân Đồng minh dù chịu tổn thất cao hơn về tàu chiến nhưng đã thành công trong việc đánh bật quân đổ bộ của Nhật, loại bỏ tạm thời mối đe dọa lên Port Moresby.

Sau thất bại này, người Nhật đã triển khai một kế hoạch dài hạn, thực hiện những nỗ lực tiếp theo lên Port Moresby gồm hai mũi nhọn chính. Xây dựng một vị trí tiền tuyến đầu tiên tại Vịnh Milne, nằm ở cuối phía đông của bán đảo Papua, và ở Buna, một ngôi làng trên bờ biển phía đông bắc Papua, nằm giữa vịnh Huon và vịnh Milne. Các hoạt động quân sự sẽ được tiến hành đồng loạt tại hai địa điểm này, một đổ bộ và một trên đất liền và tụ lại tại thành phố mục tiêu.

Băng qua dãy Stanley

Buna dễ dàng bị chiếm giữ vì không có sự hiện diện quân sự của quân Đồng minh ở đó (MacArthur đã khôn ngoan khi không quyết định chiếm đóng bằng lính dù vì bất kỳ lực lượng nào như vậy sẽ dễ dàng bị người Nhật xóa sổ). Người Nhật chiếm đóng ngôi làng vào ngày 21/7 với lực lượng ban đầu là 1.500 người và đến ngày 22 tháng 8, số quân tại Buna đã lên đến 11.430 người. Sau đó chiến dịch Đường Kokoda được tiến hành, đây là một trải nghiệm kinh hoàng cho cả quân đội Nhật Bản và Úc tham gia. Vào ngày 17 tháng 9, quân Nhật đã đến làng Ioribaiwa, chỉ cách sân bay của quân Đồng minh tại Port Moresby 30 km (20 dặm). Quân Úc đã có thể giữ vững và bắt đầu tiến hành phản công vào ngày 26 tháng 9. "... cuộc rút lui của người Nhật xuống Đường mòn Kokoda như một lẽ tất yếu. Hàng ngàn tên đã chết vì đói và bệnh tật, chỉ huy của chúng, Horii, đã bị chết đuối." Do đó, mối đe dọa trên bộ đối với Port Moresby đã bị xóa hoàn toàn.

Chiến dịch trên không

Vì Port Moresby là cảng duy nhất hỗ trợ các hoạt động ở Papua, nên vị trí quốc phòng của nó rất quan trọng đối với chiến dịch. Lực lượng phòng không bao gồm máy bay chiến đấu P-39 và P-40. Radar của RAAF không thể đưa ra cảnh báo đầy đủ về các cuộc tấn công của Nhật Bản, vì vậy điều này phụ thuộc vào những người lính theo dõi bờ biển và trên đồi cho đến khi một đơn vị radar của Mỹ với trang thiết bị tốt hơn đến vào tháng 9. Chi phí cho máy bay chiến đấu của quân Đồng minh là khá cao. Đến tháng 6, 20-25 chiếc P-39 đã bị phá hủy trong những cuộc không chiến, trong khi ba chiếc khác bị phá hủy trên mặt đất và 8 chiếc đã bị phá hủy do những tai nạn khi hạ cánh. Các xạ thủ phòng không Úc và Hoa Kỳ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các xạ thủ đã phải chiến đấu rất nhiều, Port Moresby phải chịu cuộc không kích thứ 78 vào ngày 17 tháng 8 năm 1942. Sự cải thiện về độ chính xác và số lượng của các xạ thủ này khiến các máy bay tấn công của quân Nhật phải ngày càng bay cao hơn, làm giảm sự chính xác của các đợt tấn công, và sau đó vào tháng 8, quân Nhật quyết định phải tấn công vào ban đêm. Nhưng các máy bay chiến đấu đã góp phần che chắn cho các phương tiện và máy bay ném bom khi tấn công các mục tiêu trong tầm bắn. Khi các lực lượng bộ binh của Nhật Bản tiến về phía Port Moresby, lực lượng Không quân Đồng minh đã tấn công các điểm tiếp tế dọc theo Đường mòn Kokoda. Những cây cầu tạm bợ của Nhật Bản đã bị tiêm kích P-40 tấn công bằng bom 500 lb (230 kg).

Quân Đồng minh chiếm giữ vịnh Milne

Vịnh Milne là vị trí mà quân Đồng minh có thể dễ dàng tiếp cận bằng hải quân. Đầu tháng 6, các kỹ sư của Quân đội Hoa Kỳ, bộ binh Úc và một ắc quy phòng không đã hạ cánh gần đồn điền Lever Brothers tại Gili Gili, và công việc được bắt đầu trên một sân bay. Đến ngày 22 tháng 8, khoảng 8.500 quân Úc và 1.300 người Mỹ đã có mặt. Người Nhật đã đến và từ ngày 25/8 đến ngày 7/9 trận vịnh Milne đang diễn ra. Nhà sử học Samuel Eliot Morison đã tóm tắt tình hình như vậy:

Quần đảo D'Entrecasteaux nằm ngay ngoài khơi bờ biển phía đông bắc phía dưới bán đảo Papuan. Hòn đảo nằm phía cực Tây của khu vực này là Goodenough đã bị chiếm đóng vào tháng 8 năm 1942 bởi 353 quân bị kẹt lại từ tàu đổ bộ của Nhật Bản. Tàu khu trục Yaoi, được gửi tới để cứu những người này đã bị đánh bom và chìm vào ngày 11 tháng 9. Vào ngày 22 tháng 10, một lực lượng gồm 800 lính Úc đã tiến hành bao vây hai phía vị trí của quân đội Nhật. Những người còn sống sót của quân đồn trú Nhật được cho là đã trốn thoát bằng tàu ngầm trong đêm vào ngày 26 tháng 10. Quân Đồng minh sau đó tiến hành biến hòn đảo thành căn cứ không quân.

Quân Đồng minh chiếm lại Buna và Gona

Các nỗ lực nhằm chiếm toàn bộ New Guinea của quân Nhật đã bị chặn đứng. Tướng MacArthur quyết tâm giải phóng hòn đảo này như một bước đệm để tái chiếm Philippines, ông đánh dấu sự trở lại của mình trong Trận Buna-Gona (16/11/1942 - 22/1/1943). Sự thiếu kinh nghiệm chiến đấu trong rừng rậm của Sư đoàn bộ binh 32 Hoa Kỳ thật sự là một thảm hoạ. Đã có những báo cáo về việc các sĩ quan hèn nhát thậm chí đã ngồi trên những bàn ăn thay vì đáng lẽ phải đang ở trên chuyến tuyến. MacArthur thôi việc chỉ huy sư đoàn và vào ngày 30 tháng 11 đã chỉ thị cho Trung tướng Robert L. Eichelberger, chỉ huy của Quân đoàn I Hoa Kỳ, đích thân ra mặt trận với nhiệm vụ: "loại bỏ tất cả các sĩ quan không có khả năng chiến đấu... Và nếu cần thiết, hãy cho trung sĩ phụ trách các tiểu đoàn... Tôi muốn các anh giành lại Buna, hoặc đừng sống sót trở về. "

Sư đoàn 7 của Úc dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng George Alan Vasey, cùng với Sư đoàn 32 Hoa Kỳ được tái thiết, đã tái khởi động cuộc tấn công của Đồng minh. Quân Úc giành lại Gona vào ngày 9 tháng 12 năm 1942 và Sannanda vào ngày 22 tháng 1 năm 1943, Hoa Kỳ giành được Buna vào ngày 2 tháng 1 năm 1943.

Năm 1943

Trận Wau

Chiến dịch I-Go

Các chiến lược của quân Đồng minh ở Rabaul

Giai đoạn 1944–1945

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch New Guinea** diễn ra từ tháng 1/1942 cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai vào giai đoạn kết thúc tháng 8/1945. Trong giai đoạn đầu vào đầu năm 1942, Đế quốc
**Papua New Guinea** (; Hiri Motu: _Papua Niu Gini_, phiên âm tiếng Việt: _Pa-pu-a Niu Ghi-nê_), tên đầy đủ là **Nhà nước Độc lập Papua New Guinea** là một quốc gia quần đảo ở châu
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**Trận chiến Biển Bismarck** (2 tháng 3 năm 1943 - 4 tháng 3, 1943) là một trận đánh diễn ra tại Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
**Lãnh thổ New Guinea** (tiếng Anh: Territory of New Guinea) là một lãnh thổ ủy thác Liên Hợp Quốc do Úc quản lý trên đảo New Guinea từ năm 1914 đến năm 1975. Năm 1949,
**Lãnh thổ Papua và New Guinea** là một lãnh thổ thuộc quyền quản lý của Úc vào năm 1949, gồm hai phần là Lãnh thổ Papua và Lãnh thổ New Guinea. Năm 1972, tên của
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**Trận chiến đồi Edson**, hay còn gọi là **Trận chiến Đồi Máu**, là một trận đánh trên bộ trong Chiến dịch Guadalcanal thuộc Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai
**Chiến dịch quần đảo Solomon** là một chiến dịch lớn của Chiến tranh Thái Bình Dương. Nó bắt đầu với sự đổ bộ của quân Nhật Bản và chiếm đóng một số vùng ở quần
hay **Chiến dịch Port Moresby** là tên cho một kế hoạch của Đế quốc Nhật Bản nhắm chiếm quyền kiểm soát Lãnh thổ New Guinea thuộc về nước Úc trong Thế chiến II và các
**Chiến dịch Philippines (1941–1942)** (tiếng Philippines: Kampanya sa Pilipinas, tiếng Tây Ban Nha: Campaña en las Filipinas del Ejercito Japonés, tiếng Nhật: フィリピンの戦い, tiếng Lating: Firipin no Tatakai), hay còn được biết đến với tên
**Trận hải chiến tại đảo Savo** theo tiếng Nhật nó có tên là **Dai-ichi-ji Solomon Kaisen** (第一次ソロモン海戦, だいいちじソロモンかいせん), là một trận hải chiến trên mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai giữa
**Trận hải chiến Guadalcanal** hay theo như cách gọi của Nhật Bản là **Dai Sanji Solomon Kaisen** (第三次ソロモン海戦, だいさんじソロモンかいせん; _Hải chiến Solomon lần thứ ba_), diễn ra từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11
**Hải chiến mũi Esperance** hay theo Nhật Bản gọi là **Savo-tō Oki Kaisen** (サボ島沖海戦, サボとうおきかいせん) diễn ra từ ngày 11 đến ngày 12 tháng 10 năm 1942, là một trong nhiều trận hải chiến giữa
**Trận chiến đảo Rennell** (Tiếng Nhật: レンネル島沖海戦) là trận hải chiến diễn ra từ ngày 29 đến 30 tháng 1 năm 1943 ở khu vực Nam Thái Bình Dương giữa đảo Rennell và Guadalcanal phía
**Trận hải chiến ở quần đảo Santa Cruz** vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, người Nhật Bản thường gọi là **Minami Taiheiyou Kaisen** (南太平洋海戦, みなみたいへいようかいせん) là trận hải chiến thứ tư giữa các tàu
**Trận chiến Đông Solomon** (hay còn gọi là **Trận chiến quần đảo Stewart** và theo tài liệu của Nhật là **Trận chiến biển Solomon lần thứ hai** - 第二次ソロモン海戦), diễn ra từ ngày 24 tháng
**Trận chiến sân bay Henderson**, hay còn được bên Nhật Bản gọi là **trận Lunga Point**, là trận đánh diễn ra từ ngày 23 tháng 10 đến ngày 26 tháng 10 năm 1942 tại Guadalcanal
**Chiến dịch Philippines 1944-1945** hay **Trận chiến trên quần đảo Philippines 1944-1945** là một chiến dịch của quân Đồng Minh tiến hành trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm đánh bại lực lượng Nhật
**Chiến dịch Vengeance** (tiếng Việt: **Chiến dịch Báo thù**) là một chiến dịch quân sự của Quân đội Hoa Kỳ ở Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
|commander2=|units1=_Lực lượng Mặt đất_: **Bộ chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ, Thái Bình Dương** * Tập đoàn quân số 6 * Tập đoàn quân số 8 * Tập đoàn quân số 1 * Các đơn
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**Chiến dịch Đông Ấn Hà Lan** là một chuỗi các hoạt động quân sự của Đế quốc Nhật Bản từ tháng 12 năm 1941 đến tháng 3 năm 1942 nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**Cuộc đổ bộ chiếm đóng Tulagi**, diễn ra vào ngày 3 và 4 tháng 5 năm 1942, là một phần của Chiến dịch Mo, chiến lược của đế quốc Nhật Bản tại khu vực Nam
**USS _Mugford_ (DD-389)** là một tàu khu trục lớp _Bagley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**USS _New Orleans_ (CA-32)** (trước là **CL-32**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo thành phố
**New Britain** là hòn đảo lớn nhất của Quần đảo Bismarck (được đặt tên theo Otto von Bismarck) tại Papua New Guinea. Hòn đảo tách biệt với đảo chính New Guinea qua các eo biển
**Port Moresby** (Tok Pisin: _Pot Mosbi_) là thủ đô và là thành phố lớn nhất Papua New Guinea, nằm bên bờ biển phía nam của đảo New Guinea, tại điểm Paga Point giữa bến cảng
**USS _Lamson_ (DD-367)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được
**Trận Tenaru**, hay còn gọi là **Trận sông Ilu** hay **Trận lạch Alligator**, diễn ra ngày 21 tháng 8 năm 1942 trên đảo Guadalcanal giữa Lục quân Đế quốc Nhật Bản và quân Đồng Minh
**Trận Saipan** thuộc mặt trận Chiến tranh Thái Bình Dương của Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra trên đảo Saipan thuộc quần đảo Mariana ngày 15 tháng 6 năm 1944 – 9 tháng
**Trận Tulagi và Gavutu–Tanambogo** là một trận chiến diễn ra trên đất liền thuộc chiến dịch Thái Bình Dương, Thế chiến II, giữa lực lượng Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Đồng Minh (chủ
**Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới 2016** là giải đấu lần thứ 8 của Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới, giải vô địch bóng đá trẻ quốc tế hai
**Trận chiến vịnh Leyte**, còn gọi là **Hải chiến vịnh Leyte**, trước đây còn có tên là "Trận biển Philippine lần thứ hai", được xem là trận hải chiến lớn nhất của Thế Chiến II
**Cuộc tấn công Matanikau**, diễn ra từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 11 năm 1942, đôi khi còn gọi là **Trận Matanikau lần thứ tư**, là trận đánh giữa Thủy quân lục chiến Hoa
**Trận chiến biển Philippines** (hay còn được gọi là **"Cuộc bắn gà ở quần đảo Mariana"**) là trận hải chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa hải quân Đế quốc Nhật Bản và
**USS _Beale_ (DD-471/DDE-471)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**Cộng hòa Guinea Xích Đạo** (phiên âm tiếng Việt: **Ghi-nê Xích Đạo**; tiếng Tây Ban Nha: _República de Guinea Ecuatorial_) là một quốc gia nằm ở bờ biển phía tây của Trung Phi, với diện
**Douglas MacArthur** (26 tháng 1 năm 18805 tháng 4 năm 1964) là một nhà lãnh đạo quân sự người Mỹ, từng giữ chức Thống tướng lục quân Hoa Kỳ, cũng như là Thống chế của
**Trận chiến biển Coral** hay **Trận chiến biển San Hô** là trận hải chiến diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai từ ngày 4 tháng 5 đến ngày 8 tháng 5 năm 1942
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**USS _James E. Craig_ (DE-201)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu tá
**USS _Humphreys_ (DD-236/APD-12)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật