Không kích Ấn Độ Dương là cuộc tấn công bằng không lực hải quân của Hải quân Đế quốc Nhật Bản nhằm vào tàu thuyền và căn cứ của Đồng Minh ở Ấn Độ Dương từ ngày 31 tháng 3 đến ngày 10 tháng 4 năm 1942. Lực lượng Hải quân Đế quốc Nhật Bản do đô đốc Nagumo Chūichi chỉ huy đã buộc lực lượng hải quân Đồng Minh (chủ yếu là Hạm đội Phương Đông của Hải quân Hoàng gia Anh) dưới quyền đô đốc James Somerville phải rút lui về Đông Phi; và Nhật Bản đã làm chủ được vùng biển phía đông Ấn Độ Dương.
Hoàn cảnh
Sau khi thất trận ở Mã Lai, Hải quân Anh rút về vịnh Trincomalee ở Ceylon. Ceylon (ngày nay là Sri Lanka) là một đảo lớn nằm ở phía nam lục địa Ấn Độ còn Trincomalee là một quân cảng nước sâu, bao bọc chung quanh là những đồi trồng dừa, rất dễ phòng thủ. Ceylon gần như ở giữa Ấn Độ Dương, ít bị sự đe dọa của các cuộc hành quân trên bộ. Khi Singapore bị bao vây, Trincomalee được ưu tiên nhận trang thiết bị, để biến nó thành một căn cứ hải và không quân hiện đại, người Anh cho rằng trước sau gì Nhật cũng đổ bộ lên đảo nên nhiều công trình quốc phòng được làm ngay.
Sau khi đánh chiếm xong Indonesia, đế quốc Nhật Bản quyết định tiến vào Ấn Độ Dương, đánh chiếm Ceylon, tạo bàn đạp đánh lên lục địa Ấn Độ. Từ ngày 9 tháng 3, tức là giữa lúc chiến dịch Indonesia còn đang tiếp diễn, đô đốc tư lệnh Hạm đội Liên hợp Yamamoto Isoroku đã chỉ thị cho chuẩn đô đốc Nobutake Kondō, tư lệnh hạm đội đặc nhiệm phương Nam nghiên cứu kế hoạch tiến sâu vào Ấn Độ Dương. Mục tiêu của cuộc đột kích vào Ấn Độ Dương là uy hiếp tinh thần của người dân ở Ấn Độ trước sức mạnh của người Nhật, kích động mâu thuẫn giữa thuộc dân Ấn Độ và thực dân Anh và bảo vệ tuyến hàng hải từ eo Malacca và vịnh Bengal đến Rangoon, yểm trợ cho lục quân Nhật đánh chiếm Miến Điện.
Lực lượng và kế hoạch các bên
Nhật Bản
Đô đốc Kondo đã điều động một lực lượng lớn cho cuộc đột kích vào Ấn Độ Dương bao gồm
- Lực lượng Mã Lai của phó đô đốc Ozawa Jisaburō bao gồm Hải đội Tuần dương 7 đặt căn cứ tại Mergui, Miến Điện hợp cùng Hải đội Tuần dương 4 để tham gia hỗ trợ hạm đội đặc nhiệm. Tuần dương hạm Mikuma, Mogami và khu trục hạm Amagiri được tách ra để thành lập "Đội phía Nam" với vai trò truy lùng các tàu buôn đối phương trong khu vực vịnh Bengal; trong khi tuần dương hạm Kumano, Suzuya và khu trục hạm Shiokaze đảm trách các khu vực phía Bắc đảm trách các khu vực phía Bắc. Tuần dương hạm Chōkai, tuần dương hạm hạng nhẹ Yura thuộc Hải đội Khu trục 4, hàng không mẫu hạm Ryujo cùng các khu trục hạm Ayanami, Yūgiri và Asagiri hình thành nên đội trung tâm để tăng cường các lực lượng phía Nam hay phía Bắc khi cần thiết.
- Một số tàu ngầm đến bờ biển phía Tây Ấn Độ để tấn công các thương thuyền.
*Hạm đội Hàng không thứ nhất của phó đô đốc Nagumo Chūichi bao gồm 5 hàng không mẫu hạm Akagi, Shōkaku, Zuikaku, Sōryū và Hiryū, có tuần dương hạm, khu trục hạm và một số tàu ngầm đi theo yểm trợ nhằm mục tiêu phá hủy các căn cứ hải quân Anh ở khu vực này.
Anh
Về phía Anh, đô đốc Anh James Somerville được cử làm tư lệnh hải quân bảo vệ Ấn Độ Dương vào ngày 26 tháng 3 năm 1942, gọi là Hạm đội Phương Đông, đặt chỉ huy sở ở quân cảng Trincomalee. Dưới quyền ông ta có hai hàng không mẫu hạm Formidable, Indomitable với 5 thiết giáp hạm, thêm hàng không mẫu hạm hạng nhẹ Hermes và khoảng 8 chiếc tuần dương hạm và 16 khu trục hạm. Về quy mô, hạm đội Nhật nhỏ hơn hạm đội Anh nhưng Nhật có số lượng máy bay nhiều hơn, các hàng không mẫu hạm Anh chỉ có tổng cộng 97 máy bay để chống đỡ lại hàng trăm máy bay hiện đại của người Nhật.
Lợi thế duy nhất của người Anh trong cuộc không kích này là hệ thống radar trang bị trên các chiến hạm và các máy bay phóng ngư lôi của họ có trang bị radar phục vụ cho tấn công ban đêm, điều mà người Nhật không có. Những chiếc máy bay này sau đó đã tham gia chiến đấu với các máy bay Nhật trên vùng trời Colombo.
Cuộc tấn công của các máy bay Nhật đã đánh chìm tuần dương hạm phụ trợ Hector và khu trục hạm cũ Tenedos đang đậu ở cảng. Không quân Hoàng gia Anh mất 27 máy bay trong khi Nhật chỉ mất 7 máy bay. Buổi trưa ngày ấy, máy bay trinh sát Nhật phát hiện 2 tuần dương hạm Anh là chiếc Dorsetshirs và chiếc Cornwall đang chạy trên biển, 200 dặm phía tây nam Ceylon. 40 máy bay phóng ngư lôi được gọi đến và trong vòng một tiếng đồng hồ đã diệt gọn hai chiếc tàu này. Ngoài ra, ông còn có ý đồ đợi cho lực lượng đặc nhiệm Nhật tiến về phía bờ biển Ceylon bị máy bay và pháo bảo vệ bờ biển của Anh đánh tiêu hao, lúc đó hạm đội Anh mới quay trở lại tiến công hạm đội Nhật Bản từ phía sau.
Theo các số liệu của phía Anh, người Nhật đã đánh chìm 23 tàu chở hàng với tổng trọng tải 112.312 tấn.
Kết quả
Sau cuộc không kích này, hạm đội Nhật Bản đã làm chủ vùng biển phía Đông Ấn Độ. Với sự vắng bóng của Hạm đội Phương Đông, hàng loạt tàu vận tải Anh đã bị đánh chìm với khoảng một trăm ngàn tấn hàng hóa đang đi tiếp tế cho chiến trường Miến Điện, đồng thời tàu hàng Nhật ra vào Miến Điện không bị đe dọa. Được sự hỗ trợ của hải quân, lục quân Nhật ở Miến Điện đã tấn công mạnh mẽ và ngày 8-5 họ chiếm Mandalay rồi tiến vào cảng Akyab cách biên giới Ấn Độ 150 km. Họ cắt đứt "con đường Miến Điện" đi Trung Hoa và bắt đầu đe dọa Ấn Độ.
Tóm lại, sự xâm nhập Ấn Độ Dương của hải quân đế quốc Nhật là một sự thành công chớp nhoáng nhưng không có ngày mai. Nhìn kỹ thì nó không đạt được mục tiêu đề ra: đó là tiêu diệt toàn bộ hạm đội Phương Đông của Anh. Phi công Mitsuo Fuchida sau này đã viết rằng cuộc không kích Ấn Độ Dương là một cuộc tấn công lãng phí người và khí tài tốt nhất của hải quân Nhật.
Đây là lần xuất kích thành công cuối cùng của hạm đội Nagumo. Kể từ lúc khởi đầu cuộc chiến đến khi rời khỏi Ấn Độ Dương (cuối tháng 4-1942), đoàn chiến hạm của ông đã vượt 50.000 hải lý.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Không kích Ấn Độ Dương** là cuộc tấn công bằng không lực hải quân của Hải quân Đế quốc Nhật Bản nhằm vào tàu thuyền và căn cứ của Đồng Minh ở Ấn Độ Dương
Trung tá Không quân Jimmy Doolittle (thứ hai từ bên trái) và đội bay của ông chụp ảnh trước một chiếc B-25 trên sàn đáp tàu sân bay USS _Hornet_ Cuộc **Không kích Doolittle** vào
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**_Yura_** (tiếng Nhật: 由良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Yura gần Kyoto của Nhật Bản. Nó
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**_Mikuma_** (tiếng Nhật: 三隈) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được đặt
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
**HMS _Hermes_ (95)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc tàu đầu tiên trên thế giới được thiết kế và chế tạo như một tàu sân bay, cho
**Châu Đại Dương** hay **Châu Úc** (_Oceania_) là một khu vực địa lý bao gồm Melanesia, Micronesia, Polynesia và Australasia. Châu lục này trải trên Đông Bán cầu và Tây Bán cầu, có diện tích
**Lớp tàu tuần dương _Nagara**_ (tiếng Nhật: 長良型軽巡洋艦, Nagaragata Keijunyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng tham gia nhiều hoạt động
**_Aoba_** (tiếng Nhật: 青葉) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
Các lực lượng đồng minh đã tiến hành nhiều **cuộc không kích vào Nhật Bản ** trong Thế chiến II, gây ra sự hủy diệt trên diện rộng cho các thành phố của đất nước
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
Còn được gọi là **Kidō Butai** ("Lực lượng cơ động"), là tên được sử dụng cho một hạm đội tàu sân bay chiến đấu kết hợp bao gồm hầu hết các tàu sân bay và
**_Ryūjō_** (, _rồng phi lên_) là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Thế Chiến II và bị máy bay Mỹ đánh đắm trong trận
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_Zuikaku_** (, có nghĩa là "chim hạc may mắn") là một tàu sân bay thuộc lớp tàu _Shōkaku_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó đã tham gia vào sự kiện tấn công Trân
**_Kaga_** **(tiếng Nhật: 加賀**, _Gia Hạ_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân
**_Chōkai_** (tiếng Nhật: 鳥海) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước
**_Isuzu_** (tiếng Nhật: 五十鈴) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Isuzu gần đền Ise thuộc khu vực
**_Fubuki_** (tiếng Nhật: 吹雪) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc được chế tạo sau
**_Sōryū_** (tiếng Nhật: 蒼龍 _Thương Long_, có nghĩa là "rồng xanh") là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó từng tham gia trận tấn công Trân Châu Cảng, và bị
**_Hiei_** (tiếng Nhật: 比叡) là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Kongō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được đặt tên theo đỉnh núi Hiei ở phía Đông Bắc Kyoto. Trước năm 1940, nó
**_Abukuma_** (tiếng Nhật: 阿武隈) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Abukuma tại khu vực Tōhoku của Nhật
Việc **đánh chìm _Prince of Wales_ và _Repulse**_ là một cuộc hải chiến vào giai đoạn mở đầu của Chiến tranh Thái Bình Dương, đã minh họa cho hiệu quả của không kích chống lại
**HMS _Dorsetshire_ (40)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, thuộc lớp phụ _Norfork_. Nó được đặt tên theo hạt Dorsetshire (ngày nay gọi là
**_Shikinami_** (tiếng Nhật: 敷波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Ayanami_** (tiếng Nhật: 綾波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
**Trận đảo Giáng Sinh**, diễn ra vào ngày 31 tháng 3 năm 1942, là sự kiện Lục quân Đế quốc Nhật Bản chiếm được đảo Giáng Sinh mà không gặp bất kì một sự kháng
**_Hatsuyuki_** (tiếng Nhật: 初雪) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
[[Hirohito|Thiên hoàng Shōwa và ngựa trắng (_Shirayuki_)]] **_Shirayuki_** (tiếng Nhật: 白雪) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được
**_Kirishima_** (tiếng Nhật: 霧島) là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kongō_ từng hoạt động trong Thế Chiến II và bị đánh chìm trong trận Hải chiến Guadalcanal.
**_Asagiri_** (tiếng Nhật: 朝霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Yūgiri_** (tiếng Nhật: 夕霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**HMS _Cornwall_ (56)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và thuộc lớp phụ _Kent_. _Cornwall_ đã tham gia hoạt động trong giai đoạn đầu
**_Murakumo_** (tiếng Nhật: 叢雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Shōkaku_** (, nghĩa là _Chim hạc bay liệng_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và tên của nó được đặt cho lớp tàu này. Cùng với chiếc tàu chị
**Lãnh thổ Đảo Giáng Sinh** (tiếng Anh: _Territory of Christmas Island_) là một lãnh thổ bên ngoài của Úc bao gồm hòn đảo cùng tên. Nó nằm ở Ấn Độ Dương, cách Java và Sumatra
nhỏ|phải|Một tấm ảnh khác về tàu khu trục _Shirakumo_. **_Shirakumo_** (tiếng Nhật: 白雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn
nhỏ|phải|Một tấm ảnh khác về tàu khu trục _Uranami_ **_Uranami_** (tiếng Nhật: 浦波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn
**Thái Bình Dương** (Tiếng Anh: _Pacific Ocean_) là đại dương lớn nhất và sâu nhất trong năm phân vùng đại dương của Trái Đất. Nó kéo dài từ Bắc Băng Dương ở phía bắc đến
**Danh sách các trận đánh Nhật Bản** là danh sách được sắp xếp ra theo từng năm, từng thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản. ## Thời kỳ Yayoi * Hậu kỳ Thế kỷ 2:
**_Amagiri_** (tiếng Nhật: 天霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Isonami_** (tiếng Nhật: 磯波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế