✨Đánh chìm Prince of Wales và Repulse
Việc đánh chìm Prince of Wales và _Repulse_ là một cuộc hải chiến vào giai đoạn mở đầu của Chiến tranh Thái Bình Dương, đã minh họa cho hiệu quả của không kích chống lại các lực lượng hải quân không được che chở trên không đầy đủ, và đưa đến kết luận về tầm quan trọng phải có một tàu sân bay trong mọi hoạt động hạm đội quan trọng.
Hoạt động này diễn ra ở phía Đông Mã Lai, gần Kuantan, Pahang nơi thiết giáp hạm HMS Prince of Wales và tàu chiến-tuần dương HMS Repulse của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc bị máy bay ném bom và máy bay ném ngư lôi của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đặt căn cứ trên đất liền tấn công vào ngày 10 tháng 12 năm 1941. Trong tiếng Nhật, hoạt động này được gọi là Hải chiến ngoài khơi Mã Lai (マレー沖海戦, Mare-oki kaisen).
Mục tiêu của Lực lượng Z, vốn bao gồm một thiết giáp hạm, một tàu chiến-tuần dương và bốn tàu khu trục, là đánh chặn hạm đội đổ bộ của quân Nhật ở phía Bắc Mã Lai. Tuy nhiên, hạm đội đã không có bất kỳ sự bảo vệ trên không nào, vốn đã bị Đô đốc Sir Tom Phillips từ chối. Mặc dù lực lượng Anh đã tiếp cận một ít tàu chiến đối phương, họ đã không thể tìm ra và tiêu diệt đoàn tàu vận tải chủ lực. Chúng bị không kích nặng nề và bị đánh chìm bởi máy bay ném bom hạng trung hoạt động tầm xa trong khi đang tìm cách quay trở về Singapore.
Việc đánh chìm hai con tàu này đã làm yếu đi đáng kể lực lượng của Hạm đội Viễn Đông tại Singapore. Hậu quả là, hạm đội tấn công Nhật Bản chỉ bị đối đầu bởi tàu ngầm cho đến trận chiến ngoài khơi Endau vào ngày 27 tháng 1 năm 1942.
Bối cảnh
Cả hai chiếc tàu chiến được gửi đến Singapore vào tháng 12 năm 1941 để hoạt động như một lực lượng răn đe cho cuộc xâm lược của Nhật Bản, vốn đã từng thể hiện trong việc xâm chiếm Đông Dương. Thứ trưởng Thứ nhất Hải quân Anh Quốc, Sir Dudley Pound nhận thấy Singapore không được bảo vệ đầy đủ, trừ khi Hải quân Hoàng gia gửi đến đây một phần lớn những tàu chiến chủ lực của nó nhằm đạt được sự cân bằng với lực lượng được ước tính lên đến chín thiết giáp hạm của Nhật. Đó là điều không thể chấp nhận được khi Anh Quốc đang trong tình trạng chiến tranh với Đức Quốc Xã và Phát xít Ý. Tuy nhiên, Thủ tướng Winston Churchill tỏ ra lạc quan về tình hình được cải thiện tại các khu vực Bắc Đại Tây Dương và Địa Trung Hải, và quyết định dành ra ba tàu chiến (bao gồm một tàu sân bay) đến tăng cường sự phòng thủ tại đây, được xem là một sự thỏa hiệp quan trọng hy sinh nhu cầu của Anh Quốc để bảo vệ các lãnh thổ thuộc địa tại Malaya, Borneo và Thuộc địa vùng Eo biển. Thái độ "phớt lờ đáng kể" và "một niềm tin bị cường điệu về sức mạnh của thiết giáp hạm" của Churchill, cùng với "một xu hướng thích can thiệp vào các vấn đề hải quân", ông vốn từng giữ chức vụ Bộ trưởng Hải quân Anh Quốc trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã dẫn đến việc ông đề nghị một hải đội ba tàu chiến lớn: một thiết giáp hạm có thể là King George V hay Prince of Wales và một tàu sân bay như là Formidable sẽ hợp cùng với Repulse, vốn đang trên đường đi sang Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, không có một kế hoạch chắc chắn cho một nhiệm vụ như vậy. Đề nghị ban đầu của người Anh dự kiến bao gồm chiếc tàu sân bay mới HMS Indomitable thuộc lớp Illustrious để bảo vệ trên không, cho dù kế hoạch phải sửa đổi lại khi chiếc Indomitable bị hư hại trong khi thử máy và huấn luyện tại vùng biển Caribbe.
Trong khi Churchill được cho là đã có một hành động không hiệu quả và tốn kém, việc gửi các tàu chiến chủ lực đến Singapore ngay từ đầu đã là một phần trong kế hoạch chiến lược của Bộ Hải quân Anh kể từ khi thành lập căn cứ hải quân tại đây. Quy mô của sự bố trí này đã bị cắt giảm mạnh trong những năm 1930, khi Đức và Ý thể hiện những mối đe dọa mới cho quyền lợi của Anh tại Đại Tây Dương và Địa Trung Hải. Dù sao, người ta vẫn tiên đoán là một lực lượng tàu chiến chủ lực đáng kể vẫn răn đe được sự xâm lược của Nhật Bản. Cũng cần phải lưu ý về giả định sai lầm của Churchill là Hoa Kỳ sẽ đồng ý gửi Hạm đội Thái Bình Dương, bao gồm tám thiết giáp hạm, đến Singapore trong trường hợp chiến sự nổ ra với Nhật, hoặc là sự đóng góp của phía Anh sẽ bổ sung thêm giá trị răn đe của Hạm đội Mỹ nếu như chúng vẫn ở lại Trân Châu Cảng. Chính phủ của Australia và New Zealand, vốn đã gửi phần lớn quân đội của họ tham gia Chiến dịch Bắc Phi, cũng nhấn mạnh về tầm quan trọng của Singapore trong việc răn đe sự xâm lấn của Nhật. Sự đóng góp của Australia và cuộc chiến tại châu Âu đã dao động trong những năm 1939 và 1940, Indomitable đã phải mất 12 ngày để sửa chữa trong ụ nổi tại Norfolk, Virginia và đã không thể tham gia chiến dịch này. Hơn nữa, Indomitable chỉ mang theo một phi đội cho mỗi loại máy bay Fairey Fulmar và Hawker Sea Hurricane vốn kém hơn những chiếc A6M Zero của Nhật Bản. Các đội bay, vốn được tin là có khả năng đối đầu không chiến với những chiếc Zero, cũng kém hơn trong việc huấn luyện và ít kinh nghiệm hơn so với đối thủ Nhật Bản;
Ngày 1 tháng 12, người ta công bố Sir Tom Phillips được thăng hàm Đô đốc, và được chỉ định làm Tổng Tư lệnh Hạm đội Viễn Đông. Vài ngày sau đó, Repulse bắt đầu một chuyến đi sang Australia cùng với HMS Vampire và HMS Tenedos, nhưng lực lượng này được gọi quay trở lại Singapore để tập trung cho những chiến dịch có thể có chống lại quân Nhật.
Cùng hiện diện tại Singapore vào lúc đó có các tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Durban, HMS Danae, HMS Dragon và HMS Mauritius cùng các tàu khu trục HMS Stronghold, Encounter và Jupiter. Chiếc tàu tuần dương hạng nặng HMS Exeter, tàu tuần dương hạng nhẹ Hà Lan HNLMS Java, hai tàu khu trục Anh HMS Scout và HMS Thanet cùng bốn tàu khu trục Mỹ USS Whipple, USS John D. Edwards, USS Edsall và USS Alden sẽ có mặt tại đây trong vòng ba ngày tới.
Cho dù đang sẵn có Durban và Stronghold, Đô đốc Philips quyết định để chúng lại Singapore vì chúng không đủ nhanh để theo kịp các đơn vị khác. Ngoài ra, Danae, Dragon, Mauritius, Encounter và Jupiter cũng có mặt tại Singapore, nhưng đang được sửa chữa và không sẵn sàng để ra khơi.
Sự chuẩn bị của Nhật Bản
Churchill công khai với báo chí việc Prince Of Wales và Repulse được gửi đến Singapore như là một lực lượng răn đe đối với Nhật Bản. Để đối phó, Đô đốc Isoroku Yamamoto đã cho gửi 36 máy bay ném bom Mitsubishi G4M đến tăng cường cho Liên đội Không quân Kanoya và Liên đội Không quân Genzan vốn đã được trang bị kiểu máy bay Mitsubishi G3M, nơi các phi công bắt đầu huấn luyện sôi nổi để tấn công hai chiếc tàu chiến chủ lực.
Chiến sự nổ ra
nhỏ|Những máy bay ném bom [[Mitsubishi G4M Betty của Liên đội Không quân Kanoya]] Sáng sớm ngày 8 tháng 12 năm 1941 (giờ địa phương), những máy bay ném bom của Liên đội Mihoro đã ném bom tấn công Singapore. tuy nhiên, giá trị thực sự của chúng cũng đáng ngờ do sự thể hiện kém của kiểu máy bay này, và các sân bay của chúng đang bị đe dọa bởi những cuộc tấn công trên bộ của Nhật. Dù sao chăng nữa Philips đã chọn để tiến lên vì ông nghĩ rằng lực lượng Nhật Bản không thể hoạt động cách xa căn cứ trên bờ đến như thế. Ông cũng cho rằng lực lượng của mình tương đối miễn nhiễm không thể hư hại nặng đối với các cuộc không kích, vì cho đến thời điểm đó chưa có chiếc tàu chiến chủ lực nào bị không lực đánh chìm ngoài biển (tàu chiến lớn nhất cho đến lúc đó bị máy bay đánh chìm là một tàu tuần dương hạng nặng); do đó, "ông có thể đã đúng một nửa trong sự lượng giá của mình". Và hơn nữa, giống như hầu hết các sĩ quan Hải quân Hoàng gia khác, Phillips đánh giá thấp khả năng chiến đấu của quân đội Nhật Bản. Một dự định khác nhằm che chở trên không ngoài khơi bờ biển cũng được Clouston thuộc Phi đội 488 Không quân Hoàng gia New Zealand đề nghị, nhưng kế hoạch "Chiến dịch Mobile" của ông bị loại bỏ.
Lên đường
nhỏ|HMS Prince of Wales rời [[Singapore ngày 8 tháng 12 năm 1941.]] Sau khi nhận được tin tức về một đoàn tàu vận tải Nhật Bản đang hướng đến Malaya, Lực lượng Z, bao gồm Prince of Wales, Repulse, Electra, Express, Vampire và Tenedos, khởi hành từ Singapore vào lúc 17 giờ 10 phút ngày 8 tháng 12. Phillips hy vọng có thể tấn công ngoài khơi Singora vào ngày 10 tháng 12; nếu khởi hành sớm hơn một ngày, ông đã có thể đạt được mục đích của mình mà không phải chịu đựng bất kỳ cuộc không kích nào của quân Nhật, vì các phi đội đảm nhiệm việc này còn chưa đến nơi. Ý định của Phillips là từ bỏ việc tấn công Singora, trong khi bản thân lực lượng của ông lại chuyển hướng lúc 19 giờ 00 đi về phía Singora là nhằm đánh lừa những máy bay theo dõi, trước khi quay về phía Nam lúc 22 giờ 15 phút hướng về Singapore, khi bóng tối đã che khuất lực lượng của mình.
Quay trở về Singapore
Đêm hôm đó, một trong những chiếc thủy phi cơ Nhật Bản thả một pháo sáng bên trên tàu tuần dương hạng nặng Nhật Bản Chōkai, do tưởng nhầm nó chính là Prince of Wales. Sau việc này, lực lượng Nhật Bản bao gồm sáu tàu tuần dương cùng nhiều tàu khu trục đổi hướng đi về phía Đông Bắc. Quả pháo sáng này cũng được lực lượng Anh nhìn thấy, lo sợ là đã bị phát hiện nên quay mũi đi về hướng Đông Nam. Vào thời điểm này, hai lực lượng đối địch ở cách nhau khoảng 9 km (5 dặm), nhưng đã không nhìn thấy lẫn nhau, và hạm đội Nhật cũng không được hiển thị trên màn hình radar của Prince Of Wales. Đến 20 giờ 55 phút, Đô đốc Philips ra lệnh hủy bỏ chiến dịch, cho rằng họ đã đánh mất yếu tố bất ngờ, và ra lệnh cho lực lượng quay trở về Singapore.
Trên đường quay trở về, Lực lượng Z bị tàu ngầm Nhật I-58 phát hiện và thông báo vị trí lúc 3 giờ 40 phút. Chúng được lệnh hướng đến vị trí nhiều khả năng nhất được ước lượng của các con tàu. chúng chỉ ghi được một quả ném trúng duy nhất vào khu vực sàn chứa máy bay của Repulse, gây một đám cháy nhỏ. Chiếc tàu chiến-tuần dương có thể tiếp tục vận tốc 46 km/h (25 knot, 29 dặm mỗi giờ) sau vài phút. Đợt tấn công thứ nhất này thành công khi đánh trúng một quả ngư lôi duy nhất nhưng gây hư hại nghiêm trọng cho trục chân vịt mạn trái ngoài cùng, lúc đó đang xoay hết tốc độ, trục bị xoắn và làm thủng nhiều ngăn cũng như làm vỡ các nắp đệm ngăn nước biển lọt vào con tàu qua các đường hầm trục chân vịt. Nó nhanh chóng bị ngập khoảng 2.400 tấn nước và tốc độ bị giảm còn 30 km/h (16 knot, 18 dặm mỗi giờ). chỉ huy phòng động cơ 'B', trục chân vịt đã được ngừng lại thành công, nhưng vào lúc tái khởi động, nước đã tràn vào theo đường dẫn trục chân vịt làm ngập nước phòng động cơ, rồi sau đó nhanh chóng lan rộng đến các phòng nồi hơi, phòng máy phát điện và các phòng phụ thuộc lân cận. nhỏ|trái|Thủy thủ đoàn đang bỏ tàu trong khi Prince of Wales đang chìm để chuyển sang tàu khu trục Express. Chỉ chốc lát sau độ nghiêng của Prince of Wales đột ngột gia tăng và Express buộc phải tránh xa. Có thể thấy các nòng pháo 140 mm (5,5 inch) không thể hạ đủ thấp để đối đầu với những máy bay tấn công do độ nghiêng của con tàu. Quả ngư lôi duy nhất này tạo ra đến ba hiệu quả hư hỏng nghiêm trọng. Thứ nhất, nó khiến con tàu nghiêng 11,5 độ sang mạn trái, nhỏ|Prince of Wales bị nghiêng nặng sau đợt tấn công. Một đợt tấn công tầm cao khác bởi máy bay ném bom nhắm vào Repulse lại trôi qua mà không gây thêm hư hại nào. Tiếp theo lại là một đợt tấn công thứ hai bởi tám máy bay ném ngư lôi thuộc Liên đội Mihoro nhắm vào chiếc Repulse từ hai hướng, nhưng chiếc tàu chiến kỳ cựu đã "xuất sắc" và khéo léo né tránh, được tung ra từ nhiều hướng. Repulse, đến lúc đó đã né tránh tổng cộng 19 quả ngư lôi, bị kẹp giữa hai gọng kìm tấn công bằng ngư lôi của Nhật và bị trúng ít nhất hai quả (và có thể là bốn) ngư lôi, một quả làm kẹt bánh lái của nó. Tuy nhiên, không như con tàu chị em với nó Renown, Repulse không được cải tiến bổ sung thêm bầu chống ngư lôi, cũng như không có được các ngăn kín nước độc lập như trên các thiết giáp hạm hiện đại. Nó bị đánh trúng nặng nề và bất ngờ, và Thuyền trưởng Tennant phải ra lệnh cho thủy thủ tập trung lên boong tàu; Repulse bị nghiêng nặng sang mạn trái chỉ trong vòng sáu phút để cuối cùng lật úp và chìm lúc 12 giờ 23 phút với tổn thất nhân mạng nặng nề.
Người Nhật đã đánh trúng sáu, thậm chí có thể là tám trong tổng số 49 ngư lôi được phóng ra, trong khi bản thân họ bị tổn thất ba máy bay: một chiếc máy bay ném bom ngư lôi Nell của Liên đội Genzan và hai máy bay ném bom ngư lôi Betty thuộc Liên đội Kanoya; ngoài ra còn có một chiếc thứ tư bị hư hại nặng đến mức nó bị rơi khi hạ cánh. Một cuộc điều tra sau này, "Job 74", trên hai xác tàu đắm do nhóm Explorer's Club thực hiện và hoàn tất vào ngày 11 tháng 6 năm 2007 đã xác nhận có bốn cú đánh trúng vào Prince of Wales, và hai cú đánh trúng được xác định cùng hai cú có thể có vào chiếc Repulse.
Lực lượng hỗ trợ trên không dành cho Lực lượng Z, mười chiếc Buffalo thuộc Phi đội 453 Không quân Hoàng gia Australia, vốn ở lại tại hiện trường để xác nhận sự đánh đắm, nhưng đã tìm cách thoát đi được khi bị phi đội Australia săn đuổi. Nếu như nó bị bắn rơi, người Nhật hẳn đã suy luận rằng hai chiếc tàu chiến còn sống sót sau các đợt không kích, buộc họ phải thực hiện thêm một đợt tấn công mới. Hạm đội Viễn Đông trải qua giai đoạn còn lại của cuộc tấn công rút lui các tàu chiến của họ về Ceylon và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Mặc dù được cho đặt căn cứ tại Ceylon, cả năm chiếc thiết giáp hạm này đều sống sót qua cuộc không kích Ấn Độ Dương.
Prince of Wales và Repulse là những tàu chiến chủ lực đầu tiên tích cực tự phòng ngự bị đánh chìm thuần túy bởi không quân trong khi đang di chuyển ngoài biển. Nó minh họa cho sự mong manh của tàu nổi đối với không kích ngay cả với những chiếc hiện đại nhất, và cho thấy sự cần thiết phải có bảo vệ trên không chống lại các cuộc không kích trong tương lai. Liên đội Genzan đã tìm cách tấn công bằng ngư lôi lên chiếc USS Lexington vào ngày 20 tháng 2 năm 1942, nhưng đã bị đánh trả và bị thiệt hại 17 máy bay bởi lực lượng tiêm kích tuần tra chiến đấu trên không của tàu sân bay cùng với hỏa lực súng phòng không.
Những con tàu ngày hôm nay
Xác của hai con tàu đắm được tìm thấy sau chiến tranh: Repulse ở độ sâu 56 m (183 ft) và Prince of Wales ở 68 m (223 ft), cả hai đều ở tư thế gần như lật úp. Phao nổi được đính vào các trục chân vịt, và các lá cờ của Hải quân Hoàng gia được đính vào những dây cáp và được các thợ lặn thường xuyên thay đổi. Hải quân Hoàng gia hiện đang xem các xác tàu đắm là di sản của Đế chế. Chiếc chuông của Prince of Wales đã được tháo khỏi xác tàu đắm vào năm 2002 bởi một nhóm thợ lặn Hải quân Hoàng gia và dân sự Anh Quốc được ủy nhiệm, do những mối lo ngại nó sẽ bị đánh cắp. Chiếc chuông hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Hàng hải Merseyside ở Liverpool.