✨Chiến dịch Mã Lai

Chiến dịch Mã Lai

Chiến dịch Mã Lai (tiếng Nhật:マレー作戦) hay Trận Mã Lai (Tiếng Anh:Battle of Malaya) là cuộc tấn công thuộc địa Mã Lai của Đế quốc Anh bởi Lục quân Đế quốc Nhật Bản từ ngày 8 tháng 12 năm 1941 đến ngày 31 tháng 1 năm 1942 trong giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Tại Mã Lai, quân Nhật do tướng Yamashita Tomoyuki chỉ huy đã giao chiến với lực lượng Khối Thịnh vượng chung gồm lính Anh, Ấn Độ, Úc và Mã Lai dưới quyền tướng Arthur Percival.

Trận đánh mở đầu bằng cuộc đổ bộ của quân Nhật tại Kota Bharu và kết thúc khi lực lượng liên quân rút lui về Singapore. Trong trận này, nhờ sử dụng xe đạp và xe tăng hạng nhẹ, các lực lượng quân Nhật đã chiếm ưu thế hoàn toàn khi tiến quân thần tốc băng qua các khu rừng già, đánh tập hậu theo các cạnh sườn và đổ bộ ở phía sau. Cho đến khi chiếm được Singapore, quân Nhật chịu thương vong 9.824 người nhưng phía Anh lại có hơn 100.000 người bị bắt làm tù binh.

Trong trận đánh này, quân Nhật đã vi phạm luật pháp quốc tế khi không tuyên chiến với quân Anh

Bối cảnh

Bán đảo Mã Lai chạy dài từ biên giới Nam Thái Lan đến tận cùng Singapore được coi là mục tiêu hàng đầu của Đế quốc Nhật Bản trong cuộc tiến quân xuống khu vực Đông Nam Á. Khu vực này có nguồn cao su tự nhiên lớn nhất thế giới và trữ lượng lớn thiếc. Phía đông bán đảo được bao phủ bởi rừng già và đầm lầy, phía tây lại là các dãy núi lớn.

Chiến lược quân sự của người Anh tại vùng Viễn Đông chủ yếu dựa vào căn cứ hải quân Singapore, nằm về phía nam Mã Lai, pháo đài kiên cố bảo vệ các thuộc địa Anh vùng Viễn Đông và con đường đến Úc, Đông Ấn Hà Lan và Ấn Độ Dương.

Trong khi đó, theo kế hoạch phối hợp giữa Bộ tổng tham mưu Lục quân với Bộ tổng tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật, trong khi lực lượng chủ yếu của hải quân tấn công hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ ở Trân Châu cảng thì các lực lượng hải quân khác cũng tấn công các căn cứ quân sự ở Philippines, Singapore... đồng thời, lục quân sẽ đánh vào các mục tiêu đã định sẵn ở Mã Lai, Thái Lan và Hồng Kông.

Kế hoạch và sự chuẩn bị

Anh

Khác với Hoa Kỳ lơ là cảnh giác để Nhật Bản tấn công Trân Châu cảng một cách bất ngờ, tại Mã Lai từ năm 1939, người Anh đã cho tăng cường quân đội và củng cố các công trình phòng ngự. Họ đã bỏ ra 60 triệu £ để củng cố việc phòng thủ Singapore và xây dựng một hạm đội hùng hậu với hai chiến hạm tối tân HMS Prince of Wales và HMS Repulse có nhiệm vụ tiêu diệt các đoàn tàu đổ bộ của địch quân. Lực lượng chủ yếu của không quân Anh đặt tại Singapore là nơi máy bay và tàu chiến Nhật Bản khó vươn tới khi mở đầu tấn công. Còn lực lượng lục quân Anh lại dồn về phía Bắc, sát biên giới Thái Lan. Tại Kota Bharu tiếp giáp Thái Lan, Anh có 9.000 quân và tại Kedah có 20.000 quân.:

  • Các chiến đấu cơ Beewster Buffalo của Anh lỗi thời và chậm chạp, kém xa các chiến đấu cơ Nhật.
  • Những pháo lớn phòng thủ Singapore đều hướng về phía Nam trở ra biển, đề phòng một cuộc đổ bộ của quân Nhật từ phía ấy nhưng không có một ụ súng nào hướng về phía Bắc.
  • Trên toàn bán đảo Mã Lai không hề có bất kì một xe thiết giáp nào để đối đầu với quân Nhật.

Người Anh cũng có một kế hoạch đưa quân lên tỉnh Songkhla, miền nam Thái Lan để chặn hướng tiến của quân Nhật nếu họ tiến vào Thái Lan mang tên kế hoạch Matador, nhưng kế hoạch này sau đó đã bị hủy bỏ.

Nhật Bản

Theo nhà sử học Takushiro Hattori, cuộc hành quân đánh chiếm Mã Lai được coi là quan trọng nhất trong toàn bộ chiến dịch tiến xuống phía Nam của Nhật Bản. Bản kế hoạch này cũng ghi tên các căn cứ phục vụ cho chiến dịch, bao gồm toàn bộ sân bay và bến cảng trên đảo Hải Nam; các sân bay và bến cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn, Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Sóc Trăng, đảo Phú Quốc, Kampong Chhnang, Xiêm Riệp trên bán đảo Đông Dương; Singora, Pattani, Bandon tại Thái Lan.

Diễn biến

Cuộc đổ bộ của quân Nhật

nhỏ|Một chiếc [[Lockheed Hudson không còn hoạt động được sử dụng làm mồi nhử tại phi trường Kota Bharu.]] Sáng ngày 4 tháng 12, đoàn tàu gồm 20 chiếc chở quân Nhật đã rời vịnh Cam Ranh lặng lẽ tiến về phía Nam. Mặc dù đã cố giữ bí mật, nhưng đoàn tàu vẫn không tránh khỏi sự theo dõi của các máy bay trinh sát Mỹ Lockheed Hudson và PBY Catalina. Tuy vậy, họ không hề bị đối phương tấn công. Ngày 7 tháng 12, sau khi đã vào vịnh Thái Lan, đoàn tàu tách làm 3 nhóm để tiến tới 3 mục tiêu khác nhau. Lực lượng chính gồm 14 hạm tàu thẳng tiến về Singora, bên trái nó là nhóm thứ hai gồm 3 chiếc tiến đến Pattani thuộc Thái Lan và nhóm thứ ba cũng gồm 3 chiếc ở bên trái nhóm này hướng tới thành phố Kota Bharu, một thành phố của Mã Lai cách Singora của Thái Lan 200 km. Đêm khuya, các hạm tàu thuộc cả ba hướng lần lượt đến nơi đã định.

Tại Kota Bharu, vào lúc 23 giờ 25 phút, quân Nhật do đại tá Yoshio Nasu chỉ huy đã bắt đầu đổ bộ. Đúng 23 giờ 30 ngày 7 tháng 12 (giờ Mã Lai), tức 1 giờ 30 ngày 8 tháng 12 ở Tokyo, đại bác trên các chiến hạm do chuẩn đô đốc Shintaro Hashimoto chỉ huy bắt đầu pháo kích lên bờ. Đây là những tiếng súng đầu tiên mở màn cho cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương vì cuộc tấn công Trân Châu Cảng chỉ bắt đầu sau đó gần 2 giờ.

Kota Bharu khu vực nằm sát biên giới Mã Lai - Thái nên quân đồn trú ở đây khá đông và xây dựng nhiều cụm phòng ngự ở ngoài bãi biển và sâu bên trong. Theo kế hoạch hành quân của tướng Yamashita, Kota Bharu là chiến trường nghi binh nhằm gợi sự chú ý của hải quân, không quân Anh về đó. Còn những điểm đổ bộ chính là ở Pattani và nhất là Singora.

Lực lượng quân Anh phòng thủ tại bãi biển là quân đoàn III Ấn Độ do trung tướng Lewis Heath chỉ huy. Trận đánh tại bãi biển kéo dài 3 tiếng đồng hồ và cuối cùng quân Nhật đã giành thắng lợi sau khi quân phòng thủ hết đạn và rút lui về phía Nam sau khi cho toàn bộ số máy bay tại sân bay cất cánh. Hơn 4 giờ sáng ngày 8 tháng 12, quân Nhật đã chiếm được sân bay đầu tiên của Anh ở Mã Lai.

Trong khi đó, ở Pattani và Singora, cuộc đổ bộ diễn ra đơn giản hơn. Tại Pattani, quân lính và sĩ quan Thái Lan bị mua chuộc không phản ứng gì. Còn ở Singora, sở chỉ huy cảnh sát nhận được tiền, quà của Nhật cũng không chống cự gì. Nhật Bản sau đó đã ép chính quyền Thái Lan phải cho quân đội nước này sử dụng các căn cứ trên đất Thái để tiến hành xâm lược Mã Lai, sau khi chiến đấu với quân đội Thái trong khoảng thời gian 8 giờ vào lúc sáng.

4 giờ sáng, 17 máy bay ném bom của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã tiến hành oanh tạc Singapore, làm 133 người chết.

Phía Nhật Bản sau khi phát hiện lực lượng này bằng tàu ngầm và máy bay trinh sát đã cho máy bay đi tìm tấn công nhưng vẫn không tìm được và phải quay về sân bay Biên Hòa vì cạn nhiên liệu. Thống chế Terauchi đã ra lệnh cho Tư lệnh không quân Nhật tại Đông Dương "phải cho máy bay bay xa hơn, nếu cạn nhiên liệu sẽ đáp xuống một sân bay nào đó trên đất Mã Lai mà quân đoàn 25 sẽ đánh chiếm bằng được."

7 giờ 10 sáng ngày 10 tháng 12, 88 máy bay Nhật gồm 27 chiếc chở bom và 61 chiếc phóng ngư lôi đậu ở sân bay Tân Sơn Nhất được lệnh xuất phát. Đến 11 giờ số máy bay này gặp lực lượng Z. Trong khoảng 2 giờ đồng hồ, với hai đợt tấn công bằng bom và ngư lôi, các máy bay Nhật đã đánh chìm 2 chiến hạm chủ lực HMS Prince of WalesHMS Repulse. Đô đốc Phillips cũng chết theo tàu của mình. Điều này khiến cho hải quân Anh không còn đủ sức cản phá cuộc đổ bộ của Nhật Bản vào vùng bờ biển Mã Lai nữa. không đầy đủ phụ tùng dự trữ; các sân bay khó chống lại các cuộc không kích;

Một phi đoàn của Không quân Hoàng gia Hà Lan tại Đông Ấn (ML-KNIL), 2-VLG-V, đã được đưa đến Singapore tham gia vào lực lượng Đồng Minh, trước khi bị triệu hồi về Java ngày 18 tháng 1. Nhiều phi công Hà Lan, trong đó có Jacob van Helsdingen và August Deibel đã tham gia vào nhiệm vụ chống các máy bay Nhật ném bom Singapore từ sân bay Kallang. Họ khẳng định đã bắn rơi 6 máy bay, trong đó đặc biệt là những chiếc Ki-27 Nate. Những đóng góp của phi đoàn này đã làm suy yếu một phần nhỏ lực lượng không quân Nhật.

Các máy bay ném bom Đồng Minh hầu hết đều lỗi thời - Bristol Bleheim, máy bay ném bom hạng nhẹ Lockheed Hudson và máy bay phóng ngư lôi Vickers Vildebeest — và hầu hết số máy bay này đã bị phá hủy trên không hay trên mặt đất bởi các chiến đấu cơ Nhật nên không có ảnh hưởng đến diễn biến chiến dịch. Tuy nhiên, Arthur Scarf, chỉ huy một phi đoàn, đã được truy phong Huân chương Victoria vì một cuộc tấn công ngày 9 tháng 12.

Ngoài ra, cơ quan tình báo quân sự Nhật đã tuyển mộ được một sĩ quan Anh, đại úy Patrick Heenan, đang làm sĩ quan không quân trong quân đội Ấn Độ. Mặc dù hiệu quả trong công việc tình báo của Heenan vẫn còn gây nhiều tranh cãi, người Nhật đã phá hủy phần lớn số máy bay của Đồng Minh tại Bắc Mã Lai chỉ trong vòng 3 ngày. Heenan bị bắt ngày 10 tháng 12 và được đưa đến Singapore. Tuy nhiên, quân đội Nhật đã hoàn toàn giành được quyền làm chủ trên không.

Tiến xuống bán đảo Mã Lai

nhỏ|phải|Bản đồ Chiến dịch Mã Lai nhỏ|phải|Xe đạp được lính Nhật sử dụng trong chiến dịch Mã Lai

Thảm họa của các chiến hạm Prince of Wales và Repulse mang lại một hậu quả đau thương khác cho chiến trường Mã Lai. Hải quân Hoàng gia Anh không đủ năng lực đánh chìm các tàu chở quân và vũ khí của Nhật từ Hòn Khoai (Cà Mau) tiến đến. Vì vậy, từ 3 đầu cầu đổ quân ở Pattani, Singora (Nam Thái Lan) và Kota Bharu (Bắc Mã Lai), quân Nhật như vết dầu loang, bắt tay nhau được với các đơn vị khác và trong một tuần, vừa kiểm soát vùng biên giới Thái Lan - Mã Lai vừa tiếp nhận thêm binh lính, vũ khí, xe tăng, cơ giới công binh và xe đạp để chuẩn bị tiến công về phía Nam.

Hai sân bay lớn ở Bắc Mã Lai là Kota Bharu và Tanah Mirah rơi vào tay Nhật nên cả miền Bắc Mã Lai vắng bóng máy bay Anh. Người Nhật giành được quyền làm chủ trên không đã liên tục oanh kích các lực lượng bộ binh và dân thường.

Tướng Yamashita quyết định tiến về Nam theo hai gọng kìm. Một, theo bờ biển phía Đông nhìn ra vịnh Thái Lan, đánh chiếm thủ đô Kuala Lumpur, còn một cánh khác theo bờ biển phía Tây nhìn về biển Andaman thuộc Ấn Độ Dương. Mục tiêu của gọng kìm thứ hai là hai thành phố Jitra và Gurun. Quân Đồng Minh đã bị đánh bại tại Jitra bởi quân Nhật tiến xuống từ miền nam Thái Lan có xe tăng yểm trợ từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 12 năm 1941.

Đảo Penang thuộc Mã Lai đã bị người Nhật ném bom suốt từ ngày 8 tháng 12, sau cùng người Anh đã phải từ bỏ kháng cự vào ngày 17 tháng 12. Vũ khí, tàu, hàng tiếp liệu và trạm radar đều bị bỏ lại, những người châu Âu được di tản hết khỏi đảo còn dân địa phương thì bị bỏ lại và chỉ còn biết trông chờ vào sự thương xót của lính Nhật, hành động này đã gây ra một sự bất mãn của người dân địa phương đối với người Anh.

Ngày 23 tháng 12, thiếu tướng David Murray-Lyon chỉ huy sư đoàn bộ binh 11 Ấn Độ đã bị cách chức. Đến tuần cuối cùng của tháng 1, toàn bộ miền Bắc Mã Lai đã bị quân Nhật chiếm. Cùng vào thời điểm này, chính phủ Thái Lan trước sự đe dọa của Nhật Bản đã phải ra tuyên bố liên minh với Nhật Bản và tuyên chiến với Anh-Hoa Kỳ. Người Nhật sau đó đã đồng ý cho Thái Lan khôi phục lại quyền làm chủ của họ đối với một số vùng phía bắc Mã Lai.

Đối với quân Nhật từng đổ bộ ở Đông Mã Lai, cuộc chiến đấu quyết liệt của quân Anh ngay từ bãi biển Kota Bharu làm cho họ nghĩ rằng, càng tiến sâu về phía Nam chắc chắn sẽ gặp nhiều phản ứng hơn. Nhưng họ lại thấy rằng, không một phòng tuyến nào của quân Anh được thiết lập để ngăn cản họ suốt cuộc hành trình dài 400 km xuôi nam. Không một máy bay nào chặn đánh họ. Lý do dễ hiểu là quân Anh đang cố phòng thủ ở phía Nam Mã Lai và họ không có lấy một chiếc xe tăng để nghênh chiến, đó là một sai lầm chiến lược của các tướng lãnh cấp cao Anh. Trước khi chiến tranh bùng nổ, họ cho rằng một xứ nhiều núi và rừng như Mã Lai không có môi trường cho chiến xa hoạt động giờ thì các đoàn xe tăng hạng nhẹ của Nhật tiến nhanh như vào chỗ không người. Ngày 11 tháng 1, quân Nhật chiếm được Kuala Lumpur mà không gặp bất kì một sự kháng cự nào, người Nhật giờ chỉ còn cách Singapore 200 dặm.

Phòng thủ Johore

nhỏ|[[Công binh Hoàng gia Anh đang chuẩn bị phá hủy một cây cầu gần Kuala Lumpur trong khi rút lui]]

Đến giữa tháng 1, quân Nhật đã tiến đến bang Johore nằm ở phía Nam Mã Lai. Ngày 14 tháng 1, họ đã lần đầu tiên chạm trán với sư đoàn 8 Úc, do thiếu tướng Gordon Bennett chỉ huy. Trong cuộc đụng độ này, người Nhật lần đầu tiên đã phải rút lui khi vấp phải sức kháng cự mạnh của quân Úc tại Gemas. Trận đánh diễn ra quanh cầu Gemensah đã khiến quân Nhật chịu thương vong 600 người nhưng cây cầu bị phá hủy trong trận đánh đã được sửa lại chỉ sau 6 giờ.

Trong một nỗ lực khác, khi quân Nhật cố gắng đánh bọc sườn quân Úc ở phía tây Gemas đã dẫn đến trận đánh đẫm máu nhất của chiến dịch bắt đầu từ ngày 15 tháng 1 tại bán đảo bờ biển phía Tây gần sông Muar. Bennett đã giao cho lữ đoàn 45 Ấn Độ (một đơn vị mới và chưa được huấn luyện nhiều) phòng thủ bờ sông phía nam nhưng đơn vị này đã quân Nhật đổ bộ từ biển đánh bọc sườn tiêu diệt, tư lệnh lữ đoàn là H. C. Duncan và 3 tư lệnh tiểu đoàn cũng bị giết chết. Hai tiểu đoàn bộ binh Úc, được gửi đến yểm trợ Lữ đoàn 45, cũng bị đánh bọc sườn và cắt đường rút lui, kết quả là một tiểu đoàn trưởng người Úc bị giết chết trong trận giao tranh tại thị trấn Bakri, đông nam Muar, phần lớn cả hai tiểu đoàn đều không tới được điểm hẹn là vị trí của Lữ đoàn 45, tất cả bị quân Nhật tiêu diệt sau một số trận giáp lá cà xuyên qua các cánh rừng. Tại Bakri, những người lính chống tăng Úc được trang bị bằng vũ khí cá nhân và một it súng chống tăng đã tiêu diệt được 9 xe tăng Nhật, làm chậm đáng kể bước tiến quân Nhật đủ để những người còn sống sót của 5 tiểu đoàn Úc rút lui khỏi Muar. nhỏ|trái|Một xe tăng [[Ha-Go Kiểu 95 của Nhật bị quân Úc tiêu diệt gần Bakri.]] Sau đó, những người lính Ấn và Úc còn sống sót đã thành lập Lực lượng Muar do trung tướng Úc Charles Anderson chỉ huy để chống cự với quân Nhật trong suốt 4 ngày, tạo điều kiện cho các đơn vị còn lại của Khối Liên hiệp Anh rút khỏi miền bắc Mã Lai và đẩy lùi người Nhật. Khi Lực lượng Muar tiến đến cây cầu tại Parit Sulong, họ phát hiện nó đã nằm trong tay quân Nhật. Sáng ngày 21, họ nỗ lực phản công chiếm lại cây cầu nhưng bị quân Nhật đẩy lùi bằng xe tăng, pháo và máy bay, chịu thương vong 1.700 người. 9 giờ sáng ngày 22, Anderson ra lệnh rút quân và ông cùng những người còn lại của đơn vị đã phân tán về phía đông, vượt qua rừng già và đầm lầy để tới Yong Peng, sở chỉ huy của sư đoàn, để lại 150 người bị thương. Toàn bộ số quân lính bị thương đã bị quân Nhật giết chết trong cuộc thảm sát Parit Sulong, nhưng vẫn có hai người thoát được. Anderson sau đó đã được tặng thưởng Huân chương Victoria vì thành tích chiến đấu của mình. Trận Muar đã làm cho liên quân chịu thương vong 3.000 người trong đó có 1 lữ đoàn và 3 tiểu đoàn trưởng, quân Nhật cũng chịu thiệt hại 700 người sau trận này.

Ngày 20 tháng 1, quân Nhật đổ bộ lên Endau, bất chấp cuộc tấn công từ các oanh tạc cơ Vildebeest. Tuyến phòng thủ cuối cùng của liên quân Khối Thịnh vượng chung tại Johore qua Batu Pahat-Kluang-Mersing bị tấn công trên toàn tuyến. Thật không may là tướng Percival đã chống lại việc xây dựng các tuyến phòng thủ cố định tại Johore, như trên bờ biển Bắc Singapore khi phản đối lời đề nghị của Chỉ huy trưởng Lực lượng công binh, chuẩn tướng Ivan Simson với lời phê bình: "Phòng thủ sẽ không tốt cho tinh thần chiến đấu". Sau 5 ngày chiến đấu, quân Nhật phá tan hàng phòng ngự và bắt sống hàng ngàn binh sĩ Đồng Minh bị bỏ lại hay nằm gọn trong vòng vây của người Nhật.

Ngày 27 tháng 1 năm 1942, Percival nhận được lệnh của đại tướng Archibald Wavell, cho quân Anh-Ấn rút lui qua eo biển Johore để đến Singapore.

Rút lui về Singapore

nhỏ|Cảnh con đê nối Johore và Singapore sau khi bị công binh đặt mìn phá hủy. Ngày 31 tháng 1, lực lượng cuối cùng liên quân đã rời Mã Lai và công binh đã cho đặt thuốc nổ phá con đê nối liền Johore và Singapore. Một số quân Nhật đã cải trang thành dân thường để xâm nhập vào hòn đảo này bằng xuồng.

Vào cuối tháng 1, Patrick Heenan – sĩ quan trong không quân Ấn Độ bị kết tội phản quốc vì làm gián điệp cho Nhật Bản, đã bị đem ra tòa án quân sự xét xử và bị kết án tử hình. Ngày 13 tháng 2, năm ngày sau khi quân Nhật tiến đánh Singapore, cảnh sát quân sự Anh đã đem hành quyết Heenan tại cảng Keppel, phía nam Singapore và xác bị quăng xuống biển.

Kết quả

Trong khoảng thời gian chưa đầy 2 tháng, quân Nhật đã chinh phục thành công toàn bộ bán đảo Mã Lai khiến liên quân Khối Thịnh vượng chung phải lùi về Singapore để cố thủ. Tổn thất của liên quân là 5.500 người chết, 5.000 người bị thương và 40.000 tù binh. Phía Nhật có 1.800 người chết và 3.400 người bị thương. Quân Nhật bắt đầu tấn công Singapore vào ngày 7 tháng 2 và tướng Arthur Percival cuối cùng đã phải đầu hàng cùng với lại 50.000 tù binh ngày 15 tháng 2.

Trong chiến dịch Mã Lai, lực lượng Công binh Hoàng gia Anh đã phá hủy hàng trăm cây cầu trong cuộc rút lui, làm giảm phần nào tốc độ tiến quân của người Nhật. Tuy nhiên quân Nhật đã cho bộ binh đi xe đạp vác xe qua suối và công binh ở phía sau sửa cầu để xe tăng và cơ giới qua sau.

Danh sách các trận đánh

  • Trận Kota Bharu
  • Không kích Singapore
  • Chiến dịch Krohcol
  • Đánh chìm Prince of Wales và Repulse
  • Trận Jitra
  • Trận Kampar
  • Trận Sông Slim
  • Trận Muar
  • Trận Gemas
  • Trận Endau
  • Trận Singapore
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Mã Lai** (tiếng Nhật:マレー作戦) hay **Trận Mã Lai** (Tiếng Anh:_Battle of Malaya_) là cuộc tấn công thuộc địa Mã Lai của Đế quốc Anh bởi Lục quân Đế quốc Nhật Bản từ ngày
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
**Người Mã Lai** hay **Người Malay** (; chữ Jawi: ملايو) là một dân tộc Nam Đảo nói Tiếng Mã Lai chủ yếu sinh sống trên bán đảo Mã Lai cùng các khu vực ven biển
**Chiến dịch Đăk Tô – Tân Cảnh** hay **Trận Đăk Tô – Tân Cảnh** năm 1967, là một trận đụng độ trực tiếp giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với quân đội Hoa
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Chiến dịch tây nam Ninh Bình** là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Đông Dương. Khởi nguồn từ hai cuộc hành quân lớn của quân đội Pháp là **cuộc hành quân Mouette** (Hải âu)
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Chiến dịch Nguyễn Huệ** là chiến dịch quân sự do Quân Giải phóng Miền Nam (QGP) tiến hành năm 1972, trong Chiến tranh Việt Nam, tại miền Đông Nam Bộ. Đây là một trong ba
**Chiến dịch Sấm Rền** (tiếng Anh: _Operation Rolling Thunder_) hay** Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất** (theo cách gọi của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay)
**Chiến dịch Trị Thiên** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện vào năm 1972. Đây là một phần trong Chiến dịch Xuân hè
**Chiến dịch Tây Bắc** (từ 14 tháng 10 đến 10 tháng 12 năm 1952) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) trên hướng Tây Bắc Việt Nam nhằm tiêu
**Chiến dịch Huế - Đà Nẵng** là một chiến dịch trong các chiến dịch lớn của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
**Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950**, còn gọi là **_Chiến dịch Lê Hồng Phong 2_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Đông Dương do Quân đội nhân dân Việt Nam (được phía Pháp
**Chiến dịch sự giận dữ của Chúa trời** (, _Mivtza Za'am Ha'el_) cũng được gọi là **Chiến dịch Bayonet**, là một chiến dịch mật do Israel và Mossad chỉ đạo nhắm tới các cá nhân
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**Chiến dịch Tunisia** (hay còn gọi là **Trận Tunisia**) là một loạt trận đánh diễn ra tại Tunisia trong Chiến dịch Bắc Phi thời chiến tranh Thế giới thứ hai, giữa các lực lượng Phe
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong
thumb|Một chiến dịch chống tham nhũng chưa từng có đã bắt đầu sau khi [[Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XVIII kết thúc tại Bắc Kinh vào tháng 11 năm 2012.]] Một
**Chiến dịch Đông Ấn Hà Lan** là một chuỗi các hoạt động quân sự của Đế quốc Nhật Bản từ tháng 12 năm 1941 đến tháng 3 năm 1942 nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà
**Chiến dịch tấn công Viên** là một trong các chiến dịch quân sự lớn cuối cùng ở châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch do Phương diện quân Ukraina 3 và
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
**Chiến dịch Overlord**, hay **Cuộc tập trận Hornpipe**, là mật danh của **Trận Normandie,** một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh
**Chiến dịch Starlite**, trong tiếng Việt gọi là **Cuộc hành quân Ánh sáng sao**, là một chiến dịch "tìm và diệt" của quân đội Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Đây là chiến dịch đầu
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Chiến dịch Eagle Pull** (tạm dịch: _Chiến dịch Đại Bàng Quắp_) là chiến dịch di tản trên không do Mỹ tiến hành ở thủ đô Phnôm Pênh, Campuchia vào ngày 12 tháng 4 năm 1975.
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Chiến dịch Philippines (1941–1942)** (tiếng Philippines: Kampanya sa Pilipinas, tiếng Tây Ban Nha: Campaña en las Filipinas del Ejercito Japonés, tiếng Nhật: フィリピンの戦い, tiếng Lating: Firipin no Tatakai), hay còn được biết đến với tên
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Chiến dịch Sao Thiên Vương (Uranus)** (tiếng Nga: _Операция «Уран»_, phiên âm La Tinh: _Operatsiya Uran_; tiếng Đức: _Operation Uranus_) là mật danh của chiến dịch có tính chiến lược của Liên Xô thời gian
**Chiến dịch Mãn Châu** hay _Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu_ (tiếng Nga: _Манчжурская стратегическая наступательная операция_), hay _Cuộc tấn công của Liên Xô vào Mãn Châu_ hay _Chiến tranh chống lại Nhật
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
**Chiến dịch Tây Nguyên** hay **Chiến dịch Bắc Tây Nguyên** là một chiến dịch tiến công của các lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa
**Chiến dịch tấn công Moravská–Ostrava** (đặt theo tên cũ của thành phố Ostrava) diễn ra từ ngày 10 tháng 3 đến ngày 5 tháng 5 năm 1945 là một chiến dịch quân sự lớn do
**Chiến dịch Plei Me** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch do Mặt trận Tây Nguyên thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam phát động vào tứ giác Plei Me-Bàu Cạn-Đức
**Chiến dịch Pedestal** (, **Trận chiến giữa tháng Tám**), được người dân Malta gọi là **** (, **Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia
**Chiến dịch Minsk**, một phần của Chuỗi chiến dịch giải phóng Byelorussia vào mùa hè năm 1944, mang mật danh "Bagration", là hoạt động tấn công, hợp vây của quân đội Liên Xô nhằm vào
**Chiến dịch giải phóng Bulgaria** (5 tháng 9 - 15 tháng 9 năm 1944) là một chiến dịch quân sự do Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của nguyên soái
**Chiến dịch Voronezh–Kastornoye** (từ ngày 24 tháng 1 đến ngày 17 tháng 2 năm 1943) là một hoạt động quân sự chiến thuật của quân đội Liên Xô chống lại 10 sư đoàn Đức và
**Chiến dịch Ba Gia** diễn ra từ ngày 28 tháng 5 đến 20 tháng 7 năm 1965 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, là chiến dịch góp phần đẩy nhanh sự phá sản của chiến
**Chiến dịch Cao – Bắc – Lạng** là một chiến dịch tấn công của Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đánh vào tuyến phòng thủ đường 4 và lực lượng chiếm đóng của
**Chiến dịch Polotsk** (29 tháng 6 - 4 tháng 7 năm 1944) là một chiến dịch quân sự diễn ra trong chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào
**Chiến dịch Tôi Đồng Ý – I do** là một chiến dịch truyền thông xã hội được khởi xướng bởi Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) và Trung tâm ICS
**Chiến dịch Igloo White** là một hoạt động chiến tranh điện tử chung của quân đội Hoa Kỳ được tiến hành từ cuối tháng 1 năm 1968 cho đến tháng 2 năm 1973, trong Chiến
**Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani** hay _Chiến dịch tấn công Uman-Botoshany_ Chiến dịch này có quy mô lớn về binh lực của hai bên Liên Xô và Đức tại giai đoạn hai của các hoạt
**Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka** (6 tháng 3 - 18 tháng 3 năm 1944) là một chiến dịch tấn công cấp Phương diện quân thuộc các hoạt động quân sự tại hữu ngạn sông Dniepr
**Chiến dịch Berlin** là chiến dịch tấn công cuối cùng của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Xô-Đức. Tại chiến dịch này – diễn ra từ ngày 16 tháng 4 đến 9 tháng 5 năm