✨Chiến dịch tấn công Moravská–Ostrava
Chiến dịch tấn công Moravská–Ostrava (đặt theo tên cũ của thành phố Ostrava) diễn ra từ ngày 10 tháng 3 đến ngày 5 tháng 5 năm 1945 là một chiến dịch quân sự lớn do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào Cụm tập đoàn quân Trung tâm của quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Các cuộc tấn công của quân đội Liên Xô được triển khai ở vùng trung Tiệp Khắc với mục tiêu chọc thủng các phòng tuyến của quân Đức tại khu vực biên giới Slovakia-Séc, đánh vào miền Bắc Morava, tiến sâu vào nội địa Tiệp Khắc đến vùng phụ cận Praha. Tham gia chiến dịch này là các mũi tấn công chủ yếu của Phương diện quân Ukraina 4, được tăng cường thêm quân của Cụm tập đoàn quan Ukraina 1. Khi thực hiện chiến dịch, quân đội Liên Xô còn phải chú ý bảo vệ và chiếm giữ nguyên vẹn trung tâm công nghiệp Ostrava, một vùng kinh tế quan trọng giúp tái thiết đất nước Tiệp Khắc sau chiến tranh.
Chiến dịch bị kéo dài thành ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ ngày 10 đến 23 tháng 3 năm 1945: Các cuộc tấn công được triển khai từ ngày 10 tháng 3 trên toàn tuyến mặt trận của Phương diện quân Ukraina 4 từ Żory đến Ružomberok nhưng không đạt kết quả. Gặp phải sức phản kích quyết liệt của Quân đoàn xe tăng 24 và Quân đoàn bộ binh 59 (Đức), cuộc tấn công của các tập đoàn quân 38 và cận vệ 1 chỉ phát triển được không quá 5 km chiều sâu trên một chính diện rộng khoảng 20 km. Tập đoàn quân 18, Quân đoàn bộ binh cận vệ 17 và Quân đoàn Tiệp Khắc 1 chưa kịp chuẩn bị để triển khai các mũi tấn công. Tuyến mặt trận của Phương diện quân Ukraina 4 hầu như không thay đổi so với đầu tháng 3 năm 1945. Giai đoạn thứ hai từ 24 tháng 3 đến 5 tháng 4 năm 1945: Một cuộc tấn công mới được triển khai nhưng tốc độ tấn công vẫn không được đẩy lên. Ngày 25 tháng 3, STAVKA cách chức các tướng I. Ye. Petrov và F. K. Korzhenyevich, tư lệnh và tham mưu trưởng Phương diện quân Ukraina 4. Đại tướng A. I. Yeryomenko được cử làm tư lệnh phương diện quân này, thượng tướng L. M. Saldalov làm tham mưu trưởng. Mặc dù đã tập trung binh lực và được tăng viện Quân đoàn xung kích 159 lấy từ lực lượng biên phòng của NKVD, nhưng cho đến tận ngày 14 tháng 4 - khi đã bước sang giai đoạn ba được gần 10 ngày - thì Phương diện quân Ukraina 4 cũng mới chỉ tiến lên được từ 20 đến 30 km ở cánh phải và 40 đến 55 km ở cánh trái. Trong khi đó, Phương diện quân Ukraina 1 đã thực hiện xong chiến dịch Thượng Silesia, vượt sông Oder và cánh trái của nó đã ở trên lãnh thổ phía Đông Nam nước Đức. *Giai đoạn thứ ba từ ngày 6 tháng 4 đến 5 tháng 5 năm 1945: Để phối hợp chặt chẽ các mặt trận trong cuộc tổng tấn công của Quân đội Liên Xô trên hướng Tây ngày 6 tháng 4, STAVKA ra lệnh cho nguyên soái I. S. Konev chuyển Tập đoàn quân 60 cho Phương diện quân Ukraina 4. Tướng A. I. Yeryomenko điều Tập đoàn quân 38 từ Vodzislav (Wodzislaw Slaski) vượt sông Oder lên phía Tây Bắc Morava, cùng với Tập đoàn quân 60 mở mũi tấn công vu hồi vào Moravská-Ostrava. Tập đoàn quân cận vệ 1 (trừ các sư đoàn 237 và sơn chiến 129) cũng di chuyển lên phía Bắc Nový Bohumín để mở mũi đột kích vỗ mặt từ phía Bắc vào Moravská-Ostrava. Hai mũi tấn công được thực hiện từ ngày 15 tháng 4. Ngày 30 tháng 4 năm 1945, Quân đội Liên Xô giải phóng thành phố công nghiệp Moravská-Ostrava. Trên cánh trái, Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) cũng phối hợp với cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 tấn công sang phía Tây, dồn Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) vào "cái túi" Přerov - Olomouc.
12 giờ trưa 5 tháng 5 năm 1945, tại Praha nổ ra cuộc khởi nghĩa chống lại quân đội Đức Quốc xã do những người yêu nước Tiệp Khắc tiến hành. Trong khi đó, Quân đội Liên Xô vẫn còn cách thành phố này từ 70 đến 100 km. Từ ngày 6 tháng 5 năm 1945, Phương diện quân Ukraina 4 phối hợp Phương diện quân Ukraina 1 mở Chiến dịch Praha giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Tiệp Khắc, bao vây và bức hàng phần lớn Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) ở phía Đông Praha.
Bối cảnh
Khu mỏ than Jan Šverma tại Ostrava
Trong giai đoạn tháng 3 năm 1945, các Phương diện quân Ukraina 1, 2, 3, 4 và Phương diện quân Byelorussia của quân đội Liên Xô đã kế tiếp nhau mở các cuộc tấn công lớn nhằm phát huy chiến quả và củng cố thế đứng của Hồng quân sau thắng lợi tại Chiến dịch Wisla-Oder. Vào thời gian này, Phương diện quân Ukraina 1 vừa mới hoàn thành xong việc giải phóng vùng công nghiệp tại Hạ Silesia và đang khẩn trương chuẩn bị thanh toán nốt các khối quân Đức đóng tại vùng Thượng Silesia. Nhằm mục đích hỗ trợ cho hoạt động của Phương diện quân Ukraina 1, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Liên Xô (STAVKA) đã yêu cầu Phương diện quân Ukraina 4 - lúc này đang bố trí tại sườn trái của Phương diện quân Ukraina 1 tại Tiệp Khắc - tổ chức một đợt tấn công nhằm vào quân Đức tại khu vực này.
Mục tiêu của Phương diện quân Ukraina 4 chính là tiêu diệt khối quân Đức đóng tại khu vực Moravská-Ostrava, một vùng công nghiệp có vai trò quan trọng đối với đất nước Tiệp Khắc. Với nhiều thành phố và điểm dân cư có vai trò là các trung tâm công nghiệp lớn về các ngành luyện kim, hóa chất, xây dựng, hóa dầu,... cùng với trữ lượng than và sắt đồi dào, Moravská-Ostrava là một trong những nguồn cung cấp lớn về phương tiện chiến tranh cho bộ máy quân sự phát xít Đức. Một khu vực như vậy rõ ràng có tầm quan trọng cực lớn đối với sự sống còn của chế độ phát xít và cả hai bên Liên Xô và Đức đều hiểu rõ điều đó.
Khu vực tác chiến là một vùng núi già với các đỉnh tròn đặc trưng, độ cao từ 200 đến 425 m. Tuy thấp hơn dãy Carpath chính ở phía Đông nhưng vùng này lại có nhiều khối núi trải rộng từ 2 km ở phía Đông đến 10–15 km ở phía Tây. Moravská-Ostrava nằm trong một thung lũng lớn, nơi hợp lưu của ba con sông Odra, Opava và Ostravice (các chi lưu hợp thành sông Oder). Thung lũng này được bao bọc bởi các dãy núi Hạ Ecenik ở phía Tây, Oder ở phía Tây Nam, Morava-Silesia ở phía Nam và Tây Nam. Hai lối đi thuận lợi vào thung lũng này nằm ở phía Bắc qua đường đứt gãy sông Oder và phía Đông qua vùng đất trên thượng nguồn sông Wisla. Đây là vùng đất có tiềm năng cho phòng thủ trên hướng Đông do các dãy núi đều chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam và nhiều con sông thượng nguồn cũng chảy theo hướng Bắc - Nam qua các khe sâu và rừng rậm ôn đới. Trên đường tấn công, Phương diện quân Ukraina 4 phải vượt qua các dãy núi Slovacki Beskid, Tiểu Fatra, Hạ Tatra, Javorník và Morava-Silesia nằm vắt ngang đường tiến công từ phía Đông đến Moravská-Ostrava. Thành phố Moravská-Ostrava có lịch sử từ thế kỷ thứ 13. Đến thế kỷ thứ 16, nghề thủ công và chế biến nông sản ở đây đã khá phát triển. Kể từ năm 1753, khi phát hiện ra các mỏ than đến năm 1919, Moravská-Ostrava trở thành một khu công nghiệp than-thép quan trọng nhất của nền quân chủ Habsburg và Đế quốc Áo-Hung. Sau khi quân đội Đức Quốc xã thôn tính Tiệp Khắc vào tháng 3 năm 1939, Moravská-Ostrava trở thành khu công nghiệp phục vụ cho Đế chế thứ ba.
Binh lực và kế hoạch
Quân đội Liên Xô
Binh lực
Phương diện quân Ukraina 4 do đại tướng I. Ye. Petrov làm tư lệnh. Từ ngày 26 tháng 3, đại tướng A. I. Yeryomenko thay thế. Tham mưu trưởng: trung tướng F. K. Korzhenyevich, từ ngày 2 tháng 4 là thượng tướng L. M. Sandalov). Gồm các đơn vị: Tập đoàn quân cận vệ 1 do thượng tướng A. A. Grechko chỉ huy. Thành phần gồm có: Bộ binh: Quân đoàn cận vệ 3 gồm các sư đoàn 128 (sơn chiến), 242 (cận vệ), 318 (cận vệ) Quân đoàn 11 gồm các sư đoàn 30, 226, 276 Quân đoàn 67 gồm các sư đoàn 81, 211, 340 *Quân đoàn 107 gồm các sư đoàn 129 (sơn chiến), 161, 237 *Pháo binh: Hỏa tiễn: Lữ đoàn 3, Trung đoàn cận vệ 93 Pháo nòng dài: Lữ đoàn cận vệ 24 Lựu pháo: Các trung đoàn 805, 839 Pháo chống tăng: Lữ đoàn 3 và các trung đoàn 4 (cận vệ), 317 (cận vệ), 130, 1646 Sơn pháo: Các trung đoàn 9, 195, 196, 494 Súng cối: Các trung đoàn 144, 525, 618 Pháo phòng không: Sư đoàn 25 gồm các trung đoàn 1067, 1356, 1362, 1368 và Trung đoàn độc lập 580 Thiết giáp: Các trung đoàn pháo tự hành 713, 1498 và 1666 Công binh: Lữ đoàn kỹ thuật 6, Lữ đoàn công binh sơn chiến 6, Tiểu đoàn cầu phà 50 Phòng hóa: Các đại đội súng phun lửa 9, 26 Tập đoàn quân 38 do thượng tướng K. S. Moskalenko chỉ huy. Thành phần gồm có: Bộ binh: Quân đoàn 52 gồm các sư đoàn 121, 241 và 305 Quân đoàn 95 gồm Sư đoàn đổ bộ đường không cận vệ 2 các sư đoàn 271 và 351 Quân đoàn 101 gồm các sư đoàn 70 (cận vệ), 140 và 183 Quân đoàn sơn chiến nhẹ 126 gồm các lữ đoàn sơn chiến 31, 32 và 72 *Quân đoàn sơn chiến nhẹ 127 gồm các lữ đoàn 3, 69 và 70 *Pháo binh: Sư đoàn hỗn hợp 24 gồm các lữ đoàn 174 (nòng dài), 177 (lựu pháo), 180 (chống tăng), 126 (hỏa tiễn), 40 và 47 (súng cối), cận vệ 34 (súng cối 120 mm). Lựu pháo và hỏa tiễn: Lữ đoàn lựu pháo 135, các trung đoàn hỏa tiễn sơn chiến 901 và 905 Pháo chống tăng: Lữ đoàn 6 và các trung đoàn 1506, 1642, 1663, 1672 Sơn pháo: các trung đoàn 197, 253, 496 Súng cối: Các trung đoàn cận vệ 5, 16, 83; các trung đoàn 276, 491 *Pháo phòng không: Sư đoàn 76 gồm các trung đoàn 223, 416, 447, 591 và trung đoàn độc lập 1954 *Thiết giáp: Xe tâng: Các lữ đoàn cận vệ 5, 31, 42 (hạng nặng); Trung đoàn cận vệ 12 *Pháo tự hành: Các trung đoàn 875 và 1511 *Công binh: Lữ đoàn công binh sơn chiến 4, Lữ đoàn công trình 39 Tập đoàn quân 18 do trung tướng A. I. Gastilovich chỉ huy. Thành phần gồm có: Bộ binh: Quân đoàn cận vệ 17 gồm các sư đoàn 8, 138 Quân đoàn Tiệp Khắc 1 do thiếu tướng Ludvík Svoboda (đến ngày 3 tháng 4) và thiếu tướng Karel Klapálek chỉ huy *Trực thuộc: Sư đoàn bộ binh 24, Sư đoàn xung kích 159 (từ NKVD) Pháo binh: Lữ đoàn lựu pháo 146, Lữ đoàn pháo chống tăng cận vệ 294, Trung đoàn sơn pháo 477, Trung đoàn súng cối 281, Trung đoàn phòng không cận vệ 269 Thiết giáp: Trung đoàn pháo tự hành cận vệ 108 *Công binh: Lữ đoàn kỹ thuật 9, Tiểu đoàn công trình 897 Tập đoàn quân không quân 8 do trung tướng không quân V. M. Zhdanov chỉ huy. Thành phần gồm có: Máy bay cường kích: Quân đoàn 8 gồm các sư đoàn 224, 227 Máy bay cường kích: Quân đoàn 10 gồm các sư đoàn cận vệ 10 và 15 Máy bay ném bom: Sư đoàn 321 và Trung đoàn 8 Vận tải: các trung đoàn 100, 678 Trinh sát, liên lạc, cứu hộ: Trung đoàn 212 Sân đường, căn cứ: Các trung đoàn 87 (cận vệ) và 200 Pháo phòng không: Các trung đoàn 1578, 1603, 1682 **Sư đoàn không quân Tiệp Khắc 1 do đại tá L. Boudin chỉ huy (phối thuộc) *Lực lượng trực thuộc phương diện quân: Pháo binh: Lữ đoàn súng cối cận vệ 27; các trung đoàn súng cối cận vệ 4, 96, 329; các trung đoàn sơn pháo cận vệ 2, 3; Trung đoàn phòng không 1485; các tiểu đoàn cao xạ phòng không 95, 104; Tiểu đoàn trinh sát pháo Thiết giáp: Trung đoàn xe tăng hạng nhẹ cận vệ 1 **Phòng hóa Tiểu đoàn súng phun lửa 38
Lực lượng tăng viện từ Phương diện quân Ukraina 1: (từ ngày 6 tháng 4 năm 1945) Tập đoàn quân 60 do thượng tướng P. A. Kurochkin chỉ huy. Thành phần gồm có: Bộ binh: Quân đoàn 15 gồm các sư đoàn 107, 246 và 322 Quân đoàn 28 gồm Sư đoàn bộ binh trinh sát Cossak 9, các sư đoàn bộ binh 148, 302, 336 Quân đoàn 106 gồm các sư đoàn 100, 304 Pháo binh: **Sư đoàn hỗ hợp 25 gồm các lữ đoàn 175 (hạng nặng), 179 (nòng dài), 181 (lựu pháo), 183 và cận vệ 3 hỏa tiễn, 39 (súng cối), 38 (súng cối tự hành) Lựu pháo: Trung đoàn 33 Pháo chống tăng: Các lữ đoàn 7 (cận vệ) và 48; các trung đoàn 316 (cận vệ), 1178 và trung đoàn pháo chống tăng 1593 Súng cối: Lữ đoàn cận vệ 1, các trung đòa 98 (cận vệ) và 139 *Pháo phòng không: Sư đoàn 23 gồm các trung đoàn 1064, 1336, 1342, 1348 và Trung đoàn độc lập 217 *Thiết giáp: Xe tăng: Lữ đoàn 152, Trung đoàn 59 Pháo tự hành: Trung đoàn cận vệ 368 (chống tăng), Trung đoàn 1448 Công binh: Lữ đoàn cầu cận vệ 22, Lữ đoàn công trình 59, Tiểu đoàn mìn 8 Phòng hóa: Các tiểu súng phun lửa 1 và 37 Quân đoàn xe tăng 31 (phối thuộc Tập đoàn quân 60). Thành phần gồm có: Xe tăng: Các lữ đoàn 100, 237, 242 Cơ giới: Lữ đoàn 65 Mô tô: Tiểu đoàn 98 Pháo tự hành: Trung đoàn cận vệ 367 (chống tăng), các trung đoàn 722, 1442 Pháo và súng cối: Các trung đoàn 269 (pháo nòng dài), các trung đoàn 617 và cận vệ 201 (súng cối) **Phòng không: Trung đoàn 1885
Tổng số binh lực ban đầu gồm 255.000 người, 180 xe tăng và pháo tự hành, 3.000 đại bác và súng cối, 408 máy bay. Từ ngày 6 tháng 4 tăng lên 317.000 người, 6.000 pháo và súng cối, 300 xe tăng và pháo tự hành, 438 máy bay.
Kế hoạch
Kế hoạch tấn công ban đầu của quân đội Liên Xô có mũi tấn công chính do Tập đoàn quân cận vệ số 1 và Tập đoàn quân 38 phụ trách, tiến công theo hướng Olomouc, Pardubice và tiếp cận tuyến sông Vltava để từ đó giải phóng Praha. Theo dự tính, mũi tấn công sẽ phải đột phá sâu khoảng 350 cây số. Trong giai đoạn đầu của chiến dịch, các đơn vị xung kích ở tuyến đầu sẽ phải tiến đến tuyến Český Šternberk - Olomouc. Trong trường hợp này, Tập đoàn quân 38 sẽ phải hoàn thành việc làm chủ Moravská-Ostrava trong vòng 4 ngày, và Tập đoàn quân cận vệ 1 sẽ phải đánh chiếm Cieszyn cũng trong khoảng thời gian đó. Trong khi đó, các lữ đoàn xe tăng 5, 31 và 42 sẽ được đưa vào cửa mở để khai thác chiến quả sau khi các mũi xung kích đã đột phá được từ 5 đến 6 km.
Tuy nhiên, đây là một kế hoạch không mấy phù hợp với khả năng của Phương diện quân Ukraina 4 tại thời điểm đó. Trong khi các tập đoàn quân 38 và cận vệ 1 tập trung vào hướng Moravská-Ostrava, Cieszyn, Bohumín, Karviná, Troppau (Opava), Fryštát và Frýdek-Místek với binh lực đã bị sứt mẻ đáng kể sau chiến dịch Tây Carpath và những lực lượng mới tăng viện còn chưa quen với chiến trường rừng núi thì Tập đoàn quân 18 với vỏn vẹn 6 sư đoàn (bao gồm cả hai sư đoàn Tiệp Khắc) phải phụ trách một chính diện tấn công lên đến 70 km. Mỗi sư đoàn chỉ có từ 3.000 đến 4.000 sĩ quan và binh sĩ. Tập đoàn quân 38 cũng trong tình trạng hao quân tương tự. Chỉ có sư đoàn của tập đoàn quân này có 5.000 người. Ở tập đoàn quân cận vệ 1, tình hình có khá hơn. Quân số trung bình của mỗi sư đoàn ở đây đạt khoảng 4.000 đến 5.500 người. Với binh lực tổng cộng 255.000 quân, chiến dịch tấn công đã dàn mỏng Phương diện quân Ukraina 4 trên tổng chính diện mặt trận dài hơn 140 km. Trong khi các tướng I. Ye. Petrov và F. K. Korzhenyevich đang tìm lối thoát thì Ủy viên hội đồng quân sự Phương diện quân, thượng tướng L. Z. Mekhlis lại một mực đòi "phải chuyển sang tấn công không muộn hơn ngày 10 tháng 3" thể theo yêu cầu của STAVKA. Kết quả là Phương diện quân Ukraina 4 phải tổ chức tấn công trong điều kiện chưa được chuẩn bị đầy đủ về người, vũ khí, đạn dược và phương tiện.
Quân đội Đức Quốc xã
Binh lực
Cánh phải Cụm Tập đoàn quân Trung tâm (Đức) phòng thủ tại khu vực Tiệp Khắc và Nam Ba Lan do thống chế Ferdinand Schörner chỉ huy. Binh lực gồm có: Cụm tác chiến đặc biệt "Heinrici" (tư lệnh: thượng tướng Gotthard Heinrici), từ ngày 22 tháng 3 là được đổi lại tên cũ là Tập đoàn quân xe tăng 1 do trung tướng xe tăng Walther Nehring chỉ huy. Thành phần qua các giai đoạn của chiến dịch bao gồm: Từ ngày 10 tháng 3 năm 1945: Quân đoàn bộ binh sơn chiến 49 của tướng Karl von Le Suire gồm Sư đoàn bộ binh sơn chiến 4, Sư đoàn bộ binh 320, Cụm tác chiến Sư đoàn xung kích 78 và Sư đoàn bộ binh 16 (Hungary) Quân đoàn bộ binh 11 của tướng Rudolf von Bünau (đến ngày 6 tháng 4) và tướng Friedrich Wiese, gồm Sư đoàn bộ binh trượt tuyết 1, Sư đoàn biệt kích 97, các cụm tác chiến sư đoàn 344 và 371, một phần Sư đoàn xe tăng 5 SS "Wiking" Quân đoàn bộ binh 59 của trung tướng Ernst Sieler gồm các sư đoàn bộ binh 68, 253, các cụm tác chiến sư đoàn bộ binh 75 và 544 *Các đơn vị trực thuộc: Sư đoàn xe tăng 18 SS "Horst Wessel", Sư đoàn bộ binh dự bị 154 và Cụm phòng thủ Thượng Silesia *Từ ngày 12 tháng 4: Tập đoàn quân xe tăng 1 được tăng viện: Quân đoàn xe tăng 24 của tướng Walter Hartmann gồm các sư đoàn xe tăng 8, 17 và các sư đoàn bộ binh 75, 253 Từ ngày 30 tháng 4: Có thêm nhiều đơn vị Đức Quốc xã thất trận từ các hướng nhập vào Tập đoàn quân xe tăng 1: **Quân đoàn bộ binh 72 của trung tướng Werner Schmidt-Hammer gồm các sư đoàn bộ binh 15, 78, 153 và sư đoàn dự bị 601 Các sư đoàn bộ binh 304, 371, 545 *Tập đoàn quân không quân 4 do thượng tướng Otto Deßloch chỉ huy yểm hộ từ trên không
Binh lực ban đầu gồm 150.000 người, 100 xe tăng và pháo tự hành, 120 máy bay. Đến cuối chiến dịch tăng lên 305.000 người, 3.000 pháo và súng cối, 280 xe tăng và pháo tự hành, 270 máy bay.
Kế hoạch
Căn cứ tình hình thực tế trong tháng 3 năm 1945, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Đức Quốc xã cho rằng không thể giữ vững được lâu hơn các tuyến phòng thủ trên sông Oder và các khu vực khác nếu không sử dụng các đòn phản công từ hai bên sườn vào cánh quân chủ lực của quân đội Liên Xô trên hướng Berlin gồm các phương diện quân Byelorussia 1, 2 và Phương diện quân Ukraina 1. Giống như cánh quân Đức tại vùng Đông Pomerania, cánh quân tại vùng Thượng Silesia có vai trò uy hiếp bên sườn trái Phương diện quân Ukraina 1. Liên quan đến nó có cánh trái của Cụm tập đoàn quân Trung tâm mà trực tiếp là Tập đoàn quân xe tăng 1, có nhiệm vụ khép chặt sườn trái với Tập đoàn quân 17 (Đức) đang phòng ngự tại khu vực Đông Nam Breslau (Wrocław). Với thế bố trí thành 1 cánh cung lồi về phía Đông dựa vào vùng núi non Morava, Bộ Tổng tư lệnh Đức Quốc xã hy vọng cầm chân quân đội Liên Xô để tạo thế cho các cuộc đàm phán bí mật với các đồng minh chống phát xít ở phương Tây bắt đầu được khởi sự tại Thụy Sĩ. Trong trường hợp không thể chống giữ được, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Đức Quốc xã còn hy vọng cứu được càng nhiều càng tốt các quân nhân Đức khỏi bị quân đội Liên Xô bắt làm tù binh cho dù có phải đầu hàng Anh - Mỹ ở mặt trận phía Tây và mặt trận Ý.
Biết rõ tầm quan trọng của khu vực Moravská-Ostrava, quân Đức đã tổ chức một hệ thống bố phòng chặt chẽ trong vùng. Toàn bộ hệ thống phòng ngự của phát xít Đức bao gồm ba phòng tuyến chính chạy dọc theo các sông Olza, Ostravice và Oder, và một phòng tuyến khác nằm ở phía Bắc tại tuyến sông Opava - Morava - Ostrava. Mỗi khu vực phòng thủ đều được bố trí bốn tuyến công sự bao gồm các hỏa điểm súng máy, pháo, súng cối, lô cốt và công sự ngầm. Các tuyến phòng thủ đều được ken dày bởi các hỏa điểm pháo chống tăng, súng cối và súng máy hạng nặng. Tất cả các công trình phòng thủ đều được ngụy trang kỹ lưỡng sao cho chúng được trông giống như cảnh vật rừng và đồi núi xung quanh. Các nhà máy công nghiệp cũng được sử dụng để xả khói mù, nhằm cản trở xạ giới của pháo binh, đồng thời gây khó khăn cho sự quan sát mục tiêu các phi công ném bom và cường kích.
Tại Moravská-Ostrava và các thành phố lân cận, mỗi công trình xây dựng kiên cố đều được bố trí thành các ổ đề kháng mạnh. Các cây cầu bắc qua các con sông Olza, Orava, Opava và Ostravice đều bị gài mìn. Trên hướng Moravská-Ostrava, quân Đức bố trí ba tuyến phòng thủ chính, bao gồm cả thành phố Racibórz được coi như pháo đài tiền tiêu che chở cho phía Bắc Moravská-Ostrava. Trên hướng Tây Slovakia, cũng có hai tuyến phòng thủ chạy dọc theo các con sông Orava (tuyến đầu) và Olza nối với tuyến sông Rajčanka (tuyến chính). Hai tuyến phòng thủ dự bị phía sau dọc theo các sông Ostravice và Odra ở phía Nam Moravská-Ostrava. Quân Đức hy vọng không những giữ được Moravská-Ostrava mà còn có thể ngăn chặn, không cho quân đội Liên Xô tiến đến gần Praha, một trong những địa điểm mà Bộ Tổng tư lệnh lục quân Đức Quốc xã dự định rời đến đó trong trường hợp không giữ được Berlin.
Tư lệnh Tập đoàn quân 38 (Liên Xô), thượng tướng K. S. Moskalenko đã miêu tả hệ thống phòng ngự của quân Đức như sau:
Diễn biến
Bản đồ Chiến dịch tấn công Moravská-Ostrava (10 tháng 3 đến 5 tháng 5 năm 1945)
Giai đoạn I: từ ngày 10 đến 23 tháng 3
Cơ quan tình báo Đức lần này không thu thập được đầy đủ thông tin về binh lực cũng như thời điểm quân đội Liên Xô có thể tấn công mà chỉ ước đoán phỏng chừng. Vì vậy, rút kinh nghiệm xương máu từ các chiến dịch trước đó, đêm 9 rạng ngày 10 tháng 3, Bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) hạ lệnh cho các đơn vị có nguy cơ bị tấn công triệt thoái khỏi các tuyến chiến hào thứ nhất về các tuyến chiến hào phía sau nhằm tránh thương vong do pháo binh.
Ngày 26 tháng 3, đại tướng A. I. Yeryomenko thay thế đại tướng I. Ye. Petrov làm tư lệnh Phương diện quân Ukraina 4. Sau khi nghiên cứu tình hình, ông yêu cầu Tập đoàn quân 18 và Tập đoàn quân cận vệ 1 tiếp tục tấn công nhằm kéo bớt quân Đức ra khỏi mũi công kích chính của Tập đoàn quân 38. Ngày 29 tháng 3, sau 45 phút pháo binh bắn chuẩn bị, lúc 11 giờ 45 phút, các quân đoàn bộ binh 107 và cận vệ 3 của Tập đoàn quân cận vệ 1 triển khai tấn công trên hướng Fryštát. Ngay trong ngày 29 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 107 đã đánh chiếm thị trấn Drogomyśl và điểm cao 259,3 trên bờ sông Olza. Từ điểm cao này, Lữ đoàn hỏa tiễn và Lữ đoàn pháo nòng dài cận vệ 24 có thể triển khai trận địa và bắn trực chỉ vào Fryštát. Tận dụng lúc quân Đức tập trung binh lực vào hướng Đông Bắc Morava, ngày 1 tháng 4, Sư đoàn bộ binh 237 (Quân đoàn 107) đã mở cuộc tấn công từ Žilina, vượt qua vùng núi thấp giữa sông Soła và thượng nguồn Wisla, đánh chiếm Głębce và Istebna. Bị Sư đoàn 237 tấn công từ sau lưng trong khi đang phải đối phó với Quân đoàn tăng cường 159 (Liên Xô) trên hướng Raiša (Rajcza), Cụm tác chiến sư đoàn xung kích 87 (Đức) buộc phải bỏ phòng tuyến sông Soła rút về phía Tây.
Ở trên tuyến tấn công chính, tại khu vực tác chiến của Tập đoàn quân số 38 và Tập đoàn quân cận vệ số 1, quân Đức tiếp tục chống cự kịch liệt dựa trên một hệ thống phòng ngự cứng rắn quy mô lớn. Chỉ có những mũi đột kích chính của Tập đoàn quân số 38 là có thể tiếp tục tiến lên trước. Vào đầu tháng 4 năm 1945, Quân đoàn sơn chiến 126 và Quân đoàn bộ binh số 95 đã tiếp cận sông Oder, đánh chiếm và mở rộng một số đầu cầu vượt sông. Đến đây, sự chống cự kịch liệt của quân Đức cùng với hình thái chiến trướng buộc quân đội Liên Xô phải dừng cuộc tấn công và điều chỉnh kế hoạch. Ngày 5 tháng 4, Tập đoàn quân 38 được lệnh chuyển sang phòng ngư, chuẩn bị cho các trận đánh mới.
Ngày 20 tháng 3, Quân đoàn bộ binh cận vệ 17 bắt đầu tấn công dọc theo thượng nguồn sông Orava về xuôi. Thời tiết tốt trên khu vực đã tạo điều kiện cho Tập đoàn quân không quân 8 yểm hộ cho các trận công kích trên mặt đất. Cuối ngày 21 tháng 3, Sư đoàn bộ binh 138 đánh lui Sư đoàn bộ binh sơn chiến 4 (Đức), chiếm thị trấn Tvrdosin nằm trên ngã ba sông Orava chính và sông Orava Đen, Sư đoàn bộ binh 8 cũng đánh chiếm thị trấn Trstena. Ở phía Bắc, Quân đoàn tăng cường 159 cũng tấn công dọc theo sông Orava Trắng và đánh chiếm các điểm dân cư Oravská Polhora và Námestovo, đánh thiệt hại nặng Sư đoàn bộ binh 16 (Hungary).
Ở phía Nam, ngày 30 tháng 3, Quân đoàn Tiệp Khắc 1 được tăng cường Sư đoàn bộ binh cận vệ 24 và Trung đoàn xe tăng cận vệ 1 (Liên Xô) bắt đầu tấn công dọc theo thượng nguồn sông Váh. Sư đoàn 320 (Đức) bị tổn thất nặng sau 4 ngày kháng cự và phải rút lui về thành phố. Chiều 3 tháng 4, công binh Đức làm nổ tung cây cầu ở phía Tây Liptovský Mikuláš trên con lộ nối thành phố này với Ružomberok để chặn đường truy kích của liên quân Liên Xô-Tiệp Khắc. Chỉ hai ngày sau, Lữ đoàn công binh 9 và Tiểu đoàn công trình 897 đã làm xong ba cây cầu treo và một đường ngầm qua sông Orava. Quân đội Liên Xô và Tiệp Khắc lại tiếp tục tiến sang phía Tây. Sáng ngày 3 tháng 4, các lữ đoàn bộ binh Tiệp khắc 3, 4 và Sư đoàn bộ binh cận vệ 24 (Liên Xô) giải phóng thành phố Liptovský Mikuláš. Ngày 5 tháng 4, đến lượt Ružomberok được Quân đoàn Tiệp Khắc 1 giải phóng.
Trong giai đoạn cuối tháng 3 đầu tháng 4, tuy Phương diện quân Ukraina 4 đột phá được một số khu vực trên trận tuyến, nhiệm vụ đánh chiếm khu công nghiệp Moravská-Ostrava vẫn chưa hoàn thành được. Tuy nhiên hoạt động tích cực của Phương diện quân Ukraina 4 đã góp phần củng cố đáng kể vị thế của cánh trái Phương diện quân Ukraina 1 và giúp Phương diện quân này giải phóng khu vực Thượng Silesia.
Giai đoạn III: từ 6 tháng 4 đến 5 tháng 5
Giải phóng Moravská-Ostrava
Đến đầu tháng 4, hình thái trận tuyến của Phương diện quân Ukraina 4, 1 và 2 tại Tiệp Khắc có dạng giống như một cung lõm về phía Đông, bao quanh lấy Tập đoàn quân xe tăng 1 của quân đội Đức Quốc xã. Bộ chỉ huy quân đội Liên Xô quyết định tận dụng hình thái này để thực hiện một kế hoạch bao vây nguyên một khối quân lớn của Đức Quốc xã. Nhằm tăng cường binh lực cho Phương diện quân Ukraina 4, Đại bản doanh quyết định điều chuyển Tập đoàn quân 60 cho Phương diện quân. Tập đoàn quân này cùng với Tập đoàn quân 38 và Tập đoàn quân cận vệ 1 được giao nhiệm vụ tấn công dọc theo tả ngạn sông Oder về hướng Olomouc để hội quân với Phương diện quân Ukraina 2 đang tấn công Olomouc từ hướng Tây Nam. Ngày mở màn cuộc tấn công được ấn định là 15 tháng 4 năm 1945, đúng 1 ngày trước khi chiến dịch Berlin mở màn.
Các binh sĩ của Lữ đoàn xe tăng Tiệp Khắc 1 tại tuyến phòng thủ của quân Đức mà họ vừa chiếm được ở phía Bắc Ostrava
Nhiệm vụ chính của Phương diện quân Ukraina 4 không gì khác hơn là giải phóng khu công nghiệp Moravská-Ostrava với trung tâm là thành phố Ostrava. Nhằm giảm thiểu hết mức những thiệt hại đối với các cơ sở kinh tế trong vùng, Bộ Tư lệnh phương diện quân không tấn công trực diện vào thành phố mà hành tiến vòng qua nó. Theo kế hoạch này, Tập đoàn quân cận vệ 1 sẽ tiến vòng qua Ostrava từ phía Bắc và Tập đoàn quân số 38 tiến qua từ phía Tây. Tập đoàn quân 60 và Quân đoàn xe tăng 31 sau khi chiếm Opava và Fulnek sẽ bẻ mũi tấn công sang phía Tây, tạo thành một hướng công kích vào Praha. Sau vài ngày thanh toán các cứ điểm mạnh án ngữ các con đường dẫn vào Ostrava, ngày 29 tháng 4 quân đội Liên Xô đã tiếp cận vùng ngoại vi thành phố. Cuộc tổng tấn công vào Ostrava bắt đầu vào sáng ngày 30 tháng 4 sau một trận oanh kích của pháo binh và không quân. Đến 13 giờ, quân đội Liên Xô vượt qua khu ngoại vi thành phố và đến 18 giờ Ostrava được giải phóng. Quân đội Liên Xô tiến vào thành phố trong sự hoan nghênh nồng nhiệt của nhân dân địa phương.
Trong cái túi Přerov - Olomouc
Để mất Moravská-Ostrava, quân đội Đức Quốc xã đã mất đi một phòng tuyến cứng rắn và vững chắc tại Bắc Morava nhằm cản chân quân đội Liên Xô. Không những thế, tin Berlin thất thủ đã làm cho binh lính Đức tại Cụm tập đoàn quân Trung tâm hoang mang và giảm sút tinh thần chiến đấu. Chỉ có các đơn vị SS là chống trả quyết liệt đến cùng. Sau khi để mất Moravská-Ostrava, các khu vực phòng thủ khác của quân Đức xung quanh thành phố như Karviná, Fryštát, Cieszyn, Frýdek-Místek lần lượt thất thủ. Tập đoàn quân 38 (Liên Xô) tiến chiếm Fulnek và cùng với Tập đoàn quân 60, Quân đoàn xe tăng 31 hướng đòn tấn công về Šternberk và tiếp cận ngoại vi Olomouc. Tập đoàn quân cận vệ 1 sau khi đánh chiếm Fryštát, Frýdek-Místek cũng dồn quân Đức về phía Glavniče (Hranice). Trên hướng Đông, Tập đoàn quân 18 cũng tăng tốc độ tấn công. Chỉ trong 5 ngày, họ đã tiến lên được từ 50 đến 80 km, đánh chiếm các thành phố Vsetín và Rožnov. Các tập đoàn quân 40 và 53 của Phương diện quân Ukraina 2 cũng hiệp đồng chặt chẽ với cánh trái của Phương diện quân Ukraina 4 trong Chiến dịch tấn công Bratislava-Brno. Chỉ trong một tuần, các thành phố Považská Bystrica, Zlín, Uherský Brod, Uherské Hradiště và Kroměříž lần lượt bị đánh chiếm. Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) thu nhận Quân đoàn bộ binh 72 từ Cụm tập đoàn quân Áo (nguyên là Cụm tập đoàn quân Nam) và được tăng viện thêm Sư đoàn xe tăng 19, các sư đoàn bộ binh 304, 371, 545. Cánh quân này co cụm về khu vực Přerov - Olomouc để chống cự với hy vọng có thể đầu hàng các nước đồng minh phương Tây khi Tập đoàn quân 3 (Hoa Kỳ) đã tiến đến biên giới Tiệp Khắc. Ngày 6 tháng 5, quân đội Liên Xô giải phóng Šternberk và tiếp cận ngoại vi Olomouc. Đó cũng là ngày mà Phương diện quân Ukraina 1 cùng với Phương diện quân Ukraina 4 mở Chiến dịch Praha, đánh tan khối quân chủ lực cuối cùng của quân đội Đức Quốc xã đang đóng tại Tiệp Khắc. Cũng trong ngày này, người dân Praha bắt đầu phát động cuộc khởi nghĩa lớn cuối cùng trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu.
Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng
Kết quả
Tổn thất của Phương diện quân Ukraina 4 (Liên Xô) trong các hoạt động chiến đấu từ tháng 3 đến hết tháng 4 năm 1945 tại khu vực Morava lên đến 23.964 người chết (chiếm 7,6% tổng quân số), 88.657 người khác bị thương. Về tỷ lệ thương vong trong cùng thời gian ở các hoạt động quân sự ngoài khuôn khổ các cuộc tấn công chiến lược, thương vong của Phương diện quân Ukraina 4 trong chiến dịch này chỉ đứng thứ hai sau Phương diện quân Byelorussia 1 trong các hoạt động đột phá vào khu vực pháo đài Küstrin, phía Đông Berlin từ ngày 3 tháng 2 đến ngày 30 tháng 3 năm 1945. Tuy nhiên, bình quân thương vong trong một ngày của Phương diện quân Ukraina 4 còn xếp sau Phương diện quân Ukraina 1 trong các chiến dịch Hạ Silesia, Thượng Silesia và Phương diện quân Ukraina 3 trong các trận đánh phòng thủ tại khu vực Hồ Balaton từ ngày 6 đến ngày 15 ngày 3 năm 1945. Quân đội Liên Xô đã đánh chiếm được Moravská-Ostrava, khu công nghiệp lớn cuối cùng của nước Đức Quốc xã tại Đông Nam nước Đức, mở ra con đường tiến đánh Praha từ phía Đông.
Tổn thất của quân đội Đức Quốc xã không được xác định tuyệt đối chính xác nhưng các số liệu từ phía Đức cho thấy quy mô tổn thất tăng lên bất thường. Thống kê lưu trữ của Cộng Hòa Liên Bang Đức cho biết từ ngày 10 tháng 3 đến 20 tháng 4 năm 1945, chỉ riêng Tập đoàn quân xe tăng 1 và Tập đoàn quân 17 (Đức) đã mất 16.275 người chết, 74.808 bị thương, 27.098 người mất tích. Từ 10 ngày cuối tháng 4 đến 10 ngày đầu tháng 5 năm 1945, Bộ chỉ huy tối cao Đức Quốc xã không còn tập hợp được các báo cáo thương vong từ các mặt trận gửi về. Thống kê của Phương diện quân Ukraina 4 và Phương diện quân Ukraina 2 tập hợp từ báo cáo của các tập đoàn quân gửi về trong tháng 3 và tháng 4 năm 1945 cho biết tổn thất của quân đội Đức Quốc xã vào khoảng 428.000 sĩ quan và binh sĩ, trong đó có khoảng 120.000 tù binh. 15 sư đoàn Đức đã vĩnh viễn bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Sau chiến dịch, 92 đơn vị cùng hàng nghìn cá nhân sĩ quan, binh sĩ Liên Xô và Tiệp Khắc đã được khen thưởng. Trong đó, Lữ đoàn xe tăng Tiệp Khắc 1 được tặng Huân chương Suvorov hạng nhì, Lữ đoàn bộ binh Tiệp Khắc 3 được tặng Huân chương Aleksander Nevsky. Nhiều sĩ quan và binh sĩ Liên Xô được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, trong đó có Thiếu tướng M. I. Koldubov, Sư đoàn trưởng Sư đoàn sơn chiến cận vệ 128; Trung tá G. K. Bagyan, Trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh 71 thuộc Sư đoàn bộ binh 30, Thiếu tá N. I. Sidorov, Tham mưu trưởng Trung đoàn pháo binh cận vệ 93 (Katyusha); Trung úy N. P. Chernov, đại đội trưởng bộ binh của Sư đoàn bộ binh 81; Trung sĩ V. M. Bezgolosov, chiến sĩ bắn tỉa của Sư đoàn bộ binh 183; Trung úy A. M. Yakovlev, phi công lái máy bay IL-2 thuộc Sư đoàn cường kích 227 và nhiều người khác.
Năm 1976, một khu phức hợp tưởng niệm nhằm tôn vinh quân đội Liên Xô và Tiệp Khắc trong Chiến tranh thế giới thứ hai được khởi công tại làng Hrabyně nằm trên con đường từ Moravská-Ostrava đến Opava. Đây là nơi đã diễn ra các trận đánh khốc liệt nhất trong giai đoạn III của Chiến dịch tấn công Moravská–Ostrava với sự tham gia của Lữ đoàn xe tăng Tiệp Khắc 1, hơn 13.000 quân nhân Xô Viết và Tiệp Khắc đã ngã xuống trong các trận đánh tại Hrabyně và các khu vực lân cận. Một tượng đài về chủ đề liên minh chiến đấu Tiệp Khắc - Liên Xô cũng được dựng lên. Năm 1980, công trình được khánh thành và được công nhận là di tích văn hóa quốc gia nhân kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng Tiệp Khắc. Năm 1990, tượng đài đổ nát và bị phá hủy. Năm 1995, Chính phủ Cộng hòa Séc ra Nghị quyết số 262/1995 Sb bãi bỏ quy chế di tích văn hóa quốc gia đối với khu phức hợp tưởng niệm này. Phần cơ sở vật chất còn lại của nó được giao cho Bảo tàng Silesia quản lý. Khi đó, đã có người gọi khu phức hợp tưởng niệm này là "con quái vật cộng sản". Năm 2006, Bảo tàng Silesia tiến hành phục hồi và trùng tu toàn bộ khu di tích này với kinh phí 192 triệu Koron do Bộ Văn hóa Tiệp Khắc cấp. Ngày 29 tháng 4 năm 2009, khu phức hợp tưởng niệm này lại tiếp tục mở cửa để đón khách tham quan.
Tại nhiều thành phố, thị trấn trong vùng Morava như Slavkov u Brna, Nové Město (quận Liberec), làng Chuchelná (quận Opava).. đều có các đài tưởng niệm Hồng quân Liên Xô.