✨Chiến dịch Na Uy

Chiến dịch Na Uy

Chiến dịch Na Uy là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến tranh thế giới thứ hai. Cuộc chiến này nổ ra vào tháng 4 năm 1940 khi Anh và Pháp gửi quân viễn chinh đến Na Uy để giúp đỡ quốc gia này chống lại cuộc xâm lăng của Đức. Cuộc chiến kéo dài tổng cộng 62 ngày, từ 9 tháng 4 đến 10 tháng 6 năm 1940, khiến Na Uy trở thành quốc gia có thời gian chống lại cuộc xâm lăng trên bộ của Đức dài nhất trong cả cuộc chiến - nếu không tính Liên Xô. Mặc dù thu được một số thành công, nhưng cuộc tấn công nước Pháp của người Đức trong tháng 6 năm 1940 đã buộc quân Đồng Minh phải rút khỏi Na Uy và chính phủ Na Uy phải sang sống lưu vong tại London. Chiến dịch kết thúc với sự chiếm đóng hoàn toàn lãnh thổ Na Uy của Đức Quốc xã.

Mục đích chính chiếm Na Uy của Đức là sự phụ thuộc của Đức Quốc xã vào nguồn quặng sắt ở Thụy Điển vận chuyển bằng đường biển qua cảng Narvik của Na Uy. Kiểm soát các cảng biển của Na Uy, Đức Quốc xã có được nguồn cung cấp quặng sắt cần thiết cho nền sản xuất trong chiến tranh cho dù đường biển bị Anh Quốc phong tỏa. Thêm vào đó, thắng lợi tại Na Uy sẽ giúp cho Đức hoặc Đồng Minh giáng một đòn mạnh vào đối thủ mà không phải sa lầy trong cuộc chiến tranh hầm hào quy mô lớn cả hai bên đều sợ như trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngoài ra, Na Uy còn có giá trị chiến lược quan trọng với Đức khi trận hải chiến ở Đại Tây Dương leo thang. Các căn cứ không quân ở Na Uy, như trạm hàng không Sola tại Stavanger, giữ một tầm quan trọng đặc biệt, cho phép các máy bay trinh sát Đức có thể hoạt động tầm xa trên Bắc Đại Tây Dương, còn các căn cứ hải quân tại đây cũng tạo điều kiện cho các tàu ngầm và tàu nổi của Đức vượt qua hàng rào phong tỏa của Đồng Minh trên biển Bắc để tấn công các đội tàu hướng về đảo Anh và sau này là Liên Xô.

Bối cảnh

Giá trị chiến lược của Na Uy

Do đã ký với Ba Lan các hiệp ước hỗ trợ quân sự, nên ngày 3 tháng 9 năm 1939, 2 ngày sau khi Đức xâm lược Ba Lan, Anh và Pháp đã đồng loạt tuyên chiến với Đức. Tuy nhiên, không quốc gia nào triển khai mở mặt trận ở phía tây, và cũng không có trận chiến đáng kể nào diễn ra giữa 2 phe trong nhiều tháng trời, hình thành nên một cục diện mà người ta gọi là Cuộc chiến tranh kỳ quặc.

Trong thời gian này, cả hai bên đều tìm cách mở một mặt trận phụ khác. Đối với Đồng Minh, đặc biệt là Pháp, điều này bắt nguồn từ tâm lý muốn tránh phải lặp lại cuộc chiến tranh hầm hào đã từng diễn ra dọc theo biên giới Pháp-Đức như trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Về phía Đức, hầu hết bộ tư lệnh tối cao quân đội đều không tin tưởng rằng họ có đủ tiềm lực kinh tế-quân sự để mở một cuộc tấn công ngay lập tức vào nước Pháp. Và Na Uy là quốc gia được cả hai bên nhìn nhận như một địa điểm chủ chốt trong việc tiến hành tiến đánh lẫn nhau.

Mặc dù vẫn đang đứng trung lập, Na Uy vẫn giữ một tầm chiến lược quan trọng đối với các bên tham chiến bởi 2 lý do chính. Một là tầm quan trọng của cảng Narvik, nơi xuất cảng một số lượng rất lớn nguồn quặng sắt Thụy Điển mà Đức phụ thuộc vào; tuyến đường biển này đặc biệt cần thiết trong những tháng mùa đông, khi mà biển Baltic đóng băng. Narvik trở nên có ý nghĩa hơn đối với Anh khi mà kế hoạch chiến dịch Catherine nhằm chiếm quyền kiểm soát biển Baltic của Hải quân Hoàng gia Anh rõ ràng sẽ không được triển khai. Hai là các cảng biển của Na Uy có thể được sử dụng để tạo ra một lỗ hổng trong cuộc phong tỏa của Anh, cho phép Đức mở đường tiến ra Đại Tây Dương.

Ngoài ra, đối với Đảng Quốc xã của Adolf Hitler, Na Uy còn mang một ý nghĩa biểu tượng quan trọng đối với phong trào dân tộc Völkisch của Đức, bởi lẽ quốc gia này từ lâu vẫn được chủ nghĩa Quốc xã cho là nơi đất mẹ của cái gọi là "chủng tộc Aryan Bắc Âu".

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chính phủ Na Uy đã tiến hành động viên một phần Lục quân và gần toàn bộ (chỉ chừa lại 2 chiếc) tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Na Uy. Bộ phận Không lực Lục quân và Bộ phận Không lực Hải quân cũng được lệnh phải bảo vệ sự trung lập của đất nước trước những hành động vi phạm đến từ các thế lực đối lập khác nhau. Sự vi phạm đầu tiên diễn ra trên lãnh thổ Na Uy là việc các tàu ngầm U-boat của Đức đánh chìm nhiều tàu thuyền của Anh trên hải phận Na Uy. Trong những tháng tiếp theo, máy bay của cả hai bên đều đã xâm phạm sự trung lập của Na Uy.

Giá trị đối với hải quân

Việc kiểm soát Na Uy được xem là có tầm quan trọng đặc biệt đối với nước Đức trong việc sử dụng một cách hiệu quả sức mạnh hải quân của mình để chống lại quân Đồng Minh, đặc biệt là Anh Quốc. Một khi Na Uy vẫn còn đang trung lập, chưa bị bên nào dùng vũ lực chiếm đóng, thì còn chưa có mối đe dọa nào. Nhưng sự yếu kém của hệ thống phòng thủ bờ biển, cũng như sự bất lực của quân đội Na Uy trong việc chống lại một cuộc xâm lăng quyết liệt từ bên ngoài là quá rõ ràng. Trong năm 1939, Đô đốc Erich Raeder đã nhiều lần chỉ ra mối nguy hiểm tiềm tàng của việc Anh giành lấy thế chủ động và đi trước trong việc tiến hành xâm chiếm Scandinavia - một khi Hải quân Hoàng gia Anh có được những căn cứ tại Bergen, Narvik và Trondheim, thì biển Bắc hầu như đóng kín đối với Đức, và Hải quân Đức sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm ngay cả tại vùng Baltic.

Chiến tranh mùa Đông

Ngày 30 tháng 11 năm 1939, Liên Xô bắt đầu tấn công Phần Lan, và quân Đồng Minh nhận thấy rằng họ cần liên kết với Na Uy và Thụy Điển để hỗ trợ Phần Lan trong cuộc chiến chống lại kẻ thù mạnh hơn mình gấp bội. Trên thực tế, Đồng Minh chỉ có thể viện trợ cho Phần Lan qua lối cảng Narvik của Na Uy, vì biển Baltic đang bị Đức phong tỏa. Do đó, Narvik trở thành một mục tiêu hậu cần quan trọng đối với Anh-Pháp.

Điều này đã đem lại cho Đồng Minh một cơ hội để trong khi đang tích cực tiến hành giúp đỡ Phần Lan, thì có thể nhân đó lấy cớ gửi quân hỗ trợ sang Bắc Âu và chiếm cứ luôn các mỏ quặng tại Thụy Điển và cảng biển của Na Uy. Theo kế hoạch ban đầu sẽ có 2 sư đoàn, nhưng sau đó có khả năng phát triển lên thành đội quân khoảng 150.000 người để mở một chiến dịch tấn công quy mô lớn tại miền trung Thụy Điển.

Động thái này gây ra một mối quan tâm lớn tại Đức. Hiệp ước Molotov-Ribbentrop trước đó đã đặt Phần Lan vào trong phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô, và do vậy Đức phải tuyên bố trung lập đối với cuộc xung đột này. Chính sách đó làm nảy sinh tâm lý chống Đức tại Scandinavia, khi mà họ đều tin rằng Đức cũng cùng hội cùng thuyền với nhà nước Xô viết. Bộ tư lệnh tối cao Đức lo ngại rằng Na Uy và Thụy Điển rồi sẽ cho phép quân Đồng Minh mượn đường để viện trợ cho Phần Lan.

Việc triển khai quân sự này đã không bao giờ diễn ra, vì cả Na Uy và Thụy Điển, sau khi chứng kiến "sự phản bội của phương Tây" đối với Ba Lan trong cuộc xâm lược tháng 9 năm 1939, đều cảnh giác không muốn đánh liều sự trung lập của họ một khi bị coi như đã tham gia chiến tranh nếu để cho Đồng Minh hành quân qua lãnh thổ của mình. Với hiệp định hòa bình Moskva được ký kết ngày 12 tháng 3 năm 1940, mọi kế hoạch tương tự của Đồng Minh đều bị chấm dứt.

Trong lúc ấy, tại Na Uy, sau khi chiến tranh giữa Liên Xô và Phần Lan bùng nổ, người Na Uy đã bắt đầu động viên thêm nhiều lực lượng trên bộ, nhiều hơn số lượng được cho là cần thiết lúc đầu. Đến đầu năm 1940, Sư đoàn Na Uy số 6 tại Finnmark và Troms đã huy động 9.500 quân phòng thủ vùng biên giới với Liên Xô, chủ yếu đóng tại phần phía đông của hạt Finnmark. Các bộ phận của Sư đoàn số 6 vẫn ở lại Finnmark ngay cả khi cuộc xâm lăng của Đức đã diễn ra, để đề phòng khả năng bị quân Liên Xô tấn công.]]

Ngày 14 tháng 12 năm 1939, Raeder đã giới thiệu cho Hitler gặp mặt Vidkun Quisling, một phần tử thân Quốc xã, cựu bộ trưởng quốc phòng Na Uy. Cuộc gặp với Quisling đóng vai trò trung tâm trong việc kích thích sự quan tâm của Hitler đối với cuộc chinh phục Na Uy. Trong lần đó, Quisling đã đề xuất về một sự hợp tác giữa Đức Quốc xã và Na Uy, và sau cuộc gặp, Hitler đã ra lệnh cho OKW (Bộ tư lệnh Tối cao các Lực lượng Vũ trang Đức) bắt đầu nghiên cứu một kế hoạch hợp lý để xâm lược Na Uy. Quisling xác nhận rằng mối đe doạ từ nước Anh đối với Na Uy là rất nghiêm trọng, và rằng chính phủ Na Uy sẽ bí mật hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng của Đức (điều này về sau là không đúng). Ông ta còn khẳng định rằng mình có một vị thế có thể bảo đảm hỗ trợ tối đa cho lực lượng của Đức, bao gồm cả việc giảm nhẹ gánh nặng của Đức trong công tác tuần tra phòng thủ bờ biển và cung cấp các căn cứ quân sự một cách hiệu quả. Trong khi đó, Hitler lại khẳng định muốn để Na Uy tiếp tục trung lập, song ngụ ý rằng nếu quân Đồng Minh mở rộng chiến tranh đến Scandinavia, ông ta sẽ đáp lại một cách thích đáng. Lúc này, Hitler đã bắt đầu nghi ngờ rằng Quisling đã cường điệu hóa sức mạnh của mình vì quyền lợi, và các kế hoạch xa hơn trong việc hợp tác với ông ta đã bị từ bỏ.

Sự kiện Altmark

Ngày 10 tháng 1 năm 1940, chiếc tàu chở dầu Altmark của Đức đã tiến vào hải phận Na Uy gần vịnh Trondheims, có treo quốc kỳ Đức. Mấy tháng trước đó, Altmark hoạt động với vai trò tàu chở dầu đi kèm của tuần dương hạm Admiral Graf Spee, vốn có nhiệm vụ đánh phá tuyến đường thương mại trên biển ở Nam Đại Tây Dương. Khi Altmark trở lại Đức, tàu có chở theo 299 tù binh từ các tàu thuyền Đồng Minh bị chiếc Admiral Graf Spee đánh chìm.

Sau sự kiện này, Đức đã phản đối mạnh mẽ chính phủ Na Uy. Phía Na Uy cũng gửi kháng nghị đến chính phủ Anh. Trong khi các chuyên gia về luật pháp quốc tế của Na Uy, Thụy Điển và Hoa Kỳ mô tả hành động của Anh như một sự vi phạm tính trung lập của Na Uy, thì Anh tuyên bố rằng sự kiện đó chỉ vi phạm về mặt kỹ thuật, còn về mặt đạo đức thì hợp lý.

Sau một thời gian dài không được coi trọng, chiến dịch Weserübung đã bắt đầu có một ý nghĩa rất cấp bách kể từ sau sự kiện Altmark. Mục tiêu chính của cuộc xâm lược là nắm lấy các cảng biển và mỏ quặng, trong đó Narvik là ưu tiên số một, và thiết lập quyền kiểm soát vững chắc tại quốc gia này nhằm ngăn cản họ hợp tác với Đồng Minh. Nó được cho là một sự bảo vệ bằng vũ trang đối với sự trung lập của Na Uy.

Một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi trong nội bộ những người lên kế hoạch ở Đức là việc cần thiết phải chiếm đóng Đan Mạch như một phần của kế hoạch chung. Đan Mạch được cho là giữ một tầm quan trọng rất lớn vì có vị trí địa lý rất thuận tiện cho việc kiểm soát quy mô lớn vùng trời và biển trong khu vực. Một số vẫn muốn đơn giản là tạo áp lực ngoại giao bắt Đan Mạch phải quy phục, như vậy sẽ an toàn hơn việc sử dụng vũ lực.

Một lý do khác dẫn đến việc phải chỉnh sửa thêm cho kế hoạch là Kế hoạch Vàng, cuộc tấn công dự kiến vào miền bắc Pháp và Vùng Đất Thấp, sẽ đòi hỏi cần đến rất nhiều lực lượng của Đức. Do phải điều động ở mức độ sư đoàn, chiến dịch Weserübung không thể tiến hành cùng lúc với kế hoạch này, và vì màn đêm, vỏ bọc che chở quan trọng cho cuộc hành quân của lực lượng hải quân, đang ngày càng rút ngắn đi khi mùa xuân đến, nên càng phải tiến hành kế hoạch sớm hơn. Cuối cùng, vào ngày 2 tháng 4, đã có quyết định chọn ngày 9 tháng 4 là ngày bắt đầu cuộc xâm lăng (mang mật danh Wesertag - ngày Weser), và thời điểm 4h15 (giờ Na Uy) sẽ là giờ đổ bộ (mật danh Weserzeit - giờ Weser).

  • Nhóm 1: 10 khu trục hạm chở theo 2.000 quân sơn chiến Gebirgsjäger tới Narvik
  • Nhóm 2: tuần dương hạm hạng nặng Admiral Hipper và 4 khu trục hạm đến Trondheim
  • Nhóm 3: các tuần dương hạm hạng nhẹ KölnKönigsberg, cùng nhiều tàu hộ tống nhỏ đến Bergen
  • Nhóm 4: tuần dương hạm hạng nhẹ Karlsruhe và nhiều tàu hộ tống nhỏ đến Kristiansand
  • Nhóm 5: các tuần dương hạm hạng nặng BlücherLützow, tuần dương hạm hạng nhẹ Emden cùng nhiều tàu hộ tống nhỏ đến Oslo
  • Nhóm 6: 4 tàu quét mìn tới Egersund

Thêm vào đó, các thiết giáp hạm ScharnhorstGneisenau sẽ hộ tống nhóm 1 và nhóm 2 khi chúng còn cùng di chuyển với nhau, và còn nhiều đội hình tàu chở dầu mang đến thêm quân, nhiên liệu và trang thiết bị quân sự.

Đối với Đan Mạch, 2 lữ đoàn cơ giới được huy động để chiếm các cây cầu và bắt giữ quân đội đối phương; không quân Đức (Luftwaffe) sẽ chiếm Copenhagen; và lính dù sẽ được điều đi chiếm các sân bay ở phía bắc. Dù có khá nhiều nhóm quân được bố trí cho cuộc xâm lược này, nhưng không nhóm nào trong số đó có trang bị tàu lớn.

Đức hy vọng rằng có thể tránh được xung đột vũ trang với dân cư bản địa ở cả hai quốc gia này, và quân Đức được chỉ thị là chỉ nổ súng trong trường hợp bị tấn công trước. Chính phủ Đức đã tuyên bố trong tương lai họ sẽ không vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Na Uy (và cả Đan Mạch), đổi lại họ mong đợi người Na Uy sẽ không tiến hành kháng cự một cách ngu ngốc, vì như vậy sẽ chỉ dẫn đến đổ máu vô ích.

Cuộc xâm lăng của Đức

Cuộc hành quân

phải|nhỏ|Hạm đội hải quân 2 bên di chuyển trong các ngày 7–9 tháng 4 Cuộc xâm lược của Đức mở màn ngày 3 tháng 4 năm 1940, khi các tàu tiếp tế tiên phong bắt đầu rời bến cảng đi trước hạm đội chủ lực, Phe Đồng minh cho thực hiện kế hoạch của mình vào ngày hôm sau, với 16 tàu ngầm được lệnh tiến về Skagerrak và Kattegat như một hành động bảo vệ và lời cảnh cáo đầu tiên đối với phản ứng có thể có của Đức trước chiến dịch Wilfred sẽ được tiến hành vào ngày hôm sau nữa khi tàu HMS Renown của Đô đốc William Whitworth rời hải phận Scapa Flow đến vịnh Vest cùng với 12 khu trục hạm hộ tống.

Ngày 7 tháng 4, thời tiết địa phương bắt đầu chuyển biến xấu, cả khu vực bị bao phủ bởi một màn sương mù dày đặc và biển động khiến cho việc di chuyển gặp khó khăn. Đội tàu Renown gặp phải bão tuyết lớn, và tàu HMS Glowworm, một trong những tàu khu trục hộ tống, đã phải rời khỏi đội hình để đi tìm kiếm một người bị rơi khỏi tàu. Thế nhưng, thời tiết này lại có lợi cho Đức, giúp che chở cho quân đội của họ, và sáng sớm ngày hôm đó, Nhóm 1 và Nhóm 2, 2 đội tàu có tuyến đường hành quân xa nhất, đã bắt đầu khởi hành. Khoảng 3 giờ sáng ngày 7 tháng 4, các tàu quân sự Đức có chở theo các đơn vị quân đội, đã tập kết tại Bắc Na Uy, rồi tiến về phía bắc: lực lượng này bao gồm các chiến hạm Gneisenau (kỳ hạm của Phó Đô đốc Günther Lütjens) và Scharnhorst, tàu tuần dương hạng nặng Admiral Hipper cùng 14 khu trục hạm. Đô đốc Charles Forbes, tổng tư lệnh Hạm đội Nhà Anh Quốc được thông báo lại như vậy và vào lúc 20h15 đã khởi hành tiến vào biển Bắc đi chặn đánh quân Đức, và một hạm đội khác tiến về vùng biển nằm giữa quần đảo Shetland và Iceland. Đêm hôm ấy, hạm đội Đức bị gặp bão, nó gây ra một số hư hại cho các tàu và cản trở nghiêm trọng việc di chuyển. Trong quá trình chiến đấu, tàu Glowworm đã phá vỡ chế độ im lặng vô tuyến điện và thông báo cho Bộ Hải quân về tình hình của mình. Nhưng nó đã không thể hoàn thành thông điệp, nên Bộ Hải quân chỉ biết rằng Glowworm đã chạm trán với một tàu lớn của Đức, đã nổ súng, và không thể tái lập liên lạc với tàu khu trục này. Đáp lại, Bộ Hải quân ra lệnh cho tàu Renown và chiếc tàu khu trục hộ tống duy nhất còn lại (2 chiếc khác đã tới những bến cảng hữu nghị để tiếp nhiên liệu) rời vịnh Vest và tiến đến vị trí cuối cùng được biết đến của tàu Glowworm. Lúc 10h45, 8 tàu khu trục còn lại trong lực lượng rải mìn được lệnh cùng tham gia nhiệm vụ này.

Đến trưa, tàu ngầm Ba Lan Orzeł đã gặp và đánh chìm tàu chở quân bí mật Rio de Janeiro của Đức ở ngoài khơi cảng Lillesand phía nam Na Uy.. Trong các mảnh vỡ của tàu, người ta phát hiện đồng phục lính Đức cùng nhiều vật dụng quân nhu. Nhưng khi tàu Orzel báo cáo lại sự việc với Bộ Hải quân, thì họ do quá chú tâm vào số phận của tàu Glowworm và cuộc đột phá được phỏng đoán của Đức nên không mấy để tâm và không coi trọng thông tin này. Nhiều lính Đức trong đống xác tàu được các tàu đánh cá Na Uy và khu trục hạm Odin giải cứu và trong quá trình thẩm vấn đã khai rằng họ được chỉ định đi bảo vệ Bergen khỏi mối đe dọa từ quân Đồng minh. Thông tin này đã được báo về Oslo nhưng bị Quốc hội Na Uy (Stortinget) bỏ qua do lúc này ho đang bị phân tâm bởi các hoạt động rải mìn của Anh ngoài khơi bờ biển Na Uy,. Trong cuộc họp, hội đồng cũng đã ra tuyên bố rằng các tàu của Anh và Pháp sẽ không bị tấn công trước.

Cùng lúc ấy, ở xa hơn về phía bắc, tàu Renown đã quay đầu trở lại vịnh Vest sau khi tới được vị trí cuối cùng được xác định tàu Glowworm mà không tìm thấy nó. Biển động đã khiến Whitworth cho tàu đi quá lên phía bắc và tách rời khỏi 2 khu trục hạm hộ tống vào thời điểm chạm trán với tàu ScharnhorstGneisenau. Tàu Renown giao chiến với 2 thiết giáp hạm này và sau một trận đánh nhỏ Gneisenau bị hỏng hệ thống điều khiển hoả lực, phải cùng tàu Scharnhorst chạy về phía bắc. Renown cố gắng đuổi theo, nhưng đến 4h00 thì bị mất dấu vì thời tiết xấu.

Giờ Weser

Đánh chiếm Đan Mạch

phải|Xe thiết giáp Đức tại [[Jutland.]] Kế hoạch tấn công và chiếm đóng Na Uy của Đức phụ thuộc nhiều vào lực lượng không quân. Để đảm bảo nắm chắc được eo biển Skagerrak nằm giữa Na Uy và Đan Mạch, thì phải chiếm đóng các căn cứ không quân tại Đan Mạch. Thống trị eo biển này sẽ giúp Đức ngăn cản Hải quân Hoàng gia Anh quấy phá con đường tiếp tế chủ yếu cho cuộc xâm lăng. Trên phương diện đó thì việc chiếm đóng Đan Mạch cũng như sân bay Aalborg ở phía bắc được xem là tối cần thiết.

Quân đội Đức Quốc xã vượt biên giới Đan Mạch vào khoảng 4h15 ngày 9 tháng 4. Phối hợp với cuộc tấn công trên bộ, các toán quân Đức đã đổ bộ lên cảng Langelinie tại thủ đô Copenhagen của Đan Mạch, và bắt đầu đánh chiếm thành phố. Lính dù Đức đã chiếm sân bay Aalborg. Cùng thời gian ấy, đại sứ Đức gứi tối hậu thư cho Quốc vương Christian X. Các bản báo cáo về kế hoạch của Đức vốn đã được trình lên chính phủ Đan Mạch vài ngày trước đó nhưng bị bỏ qua. Quân đội Đan Mạch nhỏ yếu, thiếu sự chuẩn bị và trang bị lỗi thời nhưng vẩn kháng cự tại nhiều nơi ở trong nước; nhất là Đội cận vệ Hoàng gia đóng tại lâu đài Amalienborg ở Copenhagen, và các lực lượng tại ngoại ô Haderslev ở Nam Jutland. Đến 6h00, Lực lượng không quân Hoàng gia Đan Mạch đã bị xoá sổ và hơn 30 máy bay ném bom Đức đe doạ sẽ ném bom xuống Copenhagen. Quốc vương Christian X, hội ý với Thủ tướng Thorvald Stauning, Bộ trưởng ngoại giao Peter Munch và tư lệnh của quân đội và lực lượng hải quân, đã quyết định đầu hàng vì tin rằng nếu tiếp tục kháng cự sẽ chỉ dẫn đến tổn hao vô ích sinh mạng người Đan Mạch. Công chúng Đan Mạch đã hoàn toàn bị bất ngờ trước cuộc xâm chiếm, và được chính phủ kêu gọi hợp tác với nhà cầm quyền Đức. Cuộc chiếm đóng Đan Mạch của Đức hoàn tất vào ngày 10 tháng 4 và kéo dài dài cho đến tháng 5 năm 1945.

Một phần quan trọng của đội tàu buôn Đan Mạch đã trốn thoát không bị chiếm giữ, khi mà Arnold Peter Møller, giám đốc công ty tàu biển Mærsk, ngày 8 tháng 4 đã ra lệnh cho 36 chiếc tàu của mình đang ở ngoài khơi phải chạy đến các cảng biển của Đồng minh hoặc các nước trung lập nếu có thể.

Trong hoạt động đầu tiên nhằm ngăn chặn cuộc xâm lược của Đức, ngày 12 tháng 4 năm 1940 quân đội Anh đã chiếm đóng quần đảo Faroe, một đơn vị hành chính tương đương cấp quận của Đan Mạch.

Đổ bộ tại Na Uy

nhỏ|phải|Bản đồ [[Vịnh Oslo]]

Trong vịnh Ofot dẫn vào Narvik, 10 tàu khu trục Đức thuộc Nhóm 1 đã bắt đầu áp sát mục tiêu. Với việc tàu Renown cùng đội hộ tống chuyển hướng đi điều tra sự cố đối với tàu Glowworm, không còn một chiếc tàu Anh nào ở lại tại khu vực này, và họ đã tiến vào mà không gặp trở ngại gì. Cho đến lúc đến sâu vào gần Narvik, phần lớn các tàu khu trục đã dốc lực lượng chủ yếu ra chiếm các công sự bên ngoài vịnh Ofot, chỉ để lại 3 chiếc để chiến đấu với 2 tàu chiến cũ bảo vệ bờ biển thường trực của Na Uy, tàu EidsvoldNorge. Mặc dù cũ kĩ, 2 tàu phòng thủ bờ biển vẫn chống cự lại các tàu khu trục thiết giáp được trang bị gọn nhẹ hơn. Sau một cuộc trao đổi ngắn gọn với thuyền trưởng tàu Eidsvold, các tàu chiến Đức đã nổ súng trước, bắn chìm nó bằng 3 quả ngư lôi. Tàu Norge nhập trận ngay sau đó và bắt đầu bắn trả lại các tàu khu trục, nhưng do các pháo thủ không có kinh nghiệm nên đã không thể đánh trúng mục tiêu và bị đánh đắm bằng một loạt ngư lôi của Đức. Các khu trục hạm đổ bộ vào cảng, và sau một cuộc trao đổi ngắn, viên chỉ huy quân đồn trú Narvik, Đại tá Konrad Sundlo đã đem lực lượng ra đầu hàng không kháng cự, Khi đổ bộ họ đã gặp một sự kháng cự nhỏ. Trong vịnh Trondheim, tàu Admiral Hipper tấn công các công sự phòng thủ trong khi các khu trục hạm băng qua chúng với tốc độ 25 km/h. Một phát đạn chuẩn xác từ tàu Admiral Hipper đã cắt đứt các dây cáp nối với hệ thống đèn pha rọi làm cho các khẩu đại bác hoạt động không còn hiệu quả. Trong suốt cuộc đổ bộ chỉ có một tàu khu trục bị trúng đạn. Đến 6 giờ trung đoàn súng trường sơn chiến 138 đã bắt đầu đổ bộ lên thành phố và các công sự ở bờ biển phía nam. Chỉ huy trung đoàn, Đại tá Weiss, nhanh chóng nhận được sự quy phục của chính quyền địa phương.

Tại Bergen, Nhóm 3 có chở các đơn vị bộ binh dẫn đầu bởi sư đoàn bộ binh 69, dưới quyền Thiếu tướng Hermann Tittel. Pháo đài Kvarven bắn trả, làm bị thương tàu Carl Peters, nhưng các tàu khác đã vào được cảng Bergen. Các công sự phòng thủ đã chống trả kiên quyết với cuộc tấn công của Nhóm 3 làm chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ Königsberg cùng với tàu huấn luyện pháp binh Bremse bị thương nặng. Thế nhưng trời tối đã làm giảm hiệu quả chiến đấu của các khẩu đại bác, và các tàu đổ bộ đã cập bến mà không gặp thêm trở ngại nào nữa. Đến 6h20 cuộc đổ bộ kết thúc, 3 tiếng sau đã dập tắt được sự chống cự tại pháo đài Kvarvena và Sandviken, Tình cờ, đúng vào lúc đó, tàu buôn Seattle của Đức, chạy trốn hạm đội Anh, đã vào trong vịnh, vượt qua vòng vây của tàu Anh Curacoa không đúng lúc đúng chỗ, và đã bị đánh chìm bởi pháo đài Na Uy và khu trục hạm Giller. Đến 17h00 trung đoàn bộ binh 310 của Đức có mặt tại Kristiansand.. Tàu khu trục Æger của Na Uy bị tàu Đức đánh chìm trong bến cảng, rồi sau đó đã bị Không quân Đức phá hủy. Tại lối ra vào phía bắc của cảng này có một pháo đài đặt trên đảo - pháo đài Oscarsborg. Không đợi chiếc tuần dương hạm vào hẳn trong tầm bắn, pháo đài Oscarsborg đã nổ súng bằng 2 khẩu đại bác Krupp 48 tuổi kiểu Đức (MosesAron, cỡ 280 li được lắp ráp tại pháo đài Oscarsborg tháng 5 năm 1893) từ khoảng cách 500 mét. đồng thời cũng lãnh thêm 2 lỗ hổng bởi một loạt ngư lôi kiểu cũ đã 40 năm tuổi từ các ống phóng ngư lôi được ngụy trang tại Kaholme, Khoảng cách này đã làm chậm cuộc tiến quân vào Oslo của chủ lực quân Đức đi 24 giờ đồng hồ (mặc dù vậy Oslo vẫn bị chiếm chỉ 12 tiếng sau bởi lực lượng đổ bộ bằng không quân tại sân bay Fornebu). rồi cuối cùng trốn thoát sang Anh. Nhờ đó mà Na Uy đã không bao giờ phải chính thức đầu hàng quân đội Đức.

Một nửa trung đoàn bộ binh 324 thuộc sư đoàn 163 được phân công đến sân bay Fornebu, Oslo bằng đường không sau khi 1 đại đội lính dù của trung đoàn này đã chiếm được sân bay (nửa còn lại có kế hoạch đổ bộ tại Oslo cùng Nhóm 5). Dự tính ban đầu của Đức là lính dù phải chiếm sân bay Fornebu một tiếng đồng hồ trước khi đội quân không vận đầu tiên tới nơi, nhưng số lính dù này đã bị mất phương hướng trong sương mù nên không đến được. Tuy vậy, do sân bay này không được bố phòng đầy đủ nên vẫn nhanh chóng bị bộ binh Đức - với sự yểm trợ của máy bay ném bom - đổ bộ và đánh chiếm. Phi đội tiêm kích Jagevingen thuộc Bộ phận Không lực Lục quân Na Uy đóng tại Fornebu đã chống trả bằng máy bay tiêm kích hai tầng cánh Gloster Gladiator cho đến khi hết đạn và phải bỏ chạy đến bất kỳ sân bay nhỏ nào có thể. Lực lượng trên bộ của Na Uy cũng bị cạn đạn dược cho súng máy phòng không ngay sau đó, bởi vì trong không khí hỗn loạn và quá tập trung vào việc chuẩn bị chiến đấu cho các máy bay, không ai còn tâm trí hay thời gian để tâm đến vấn đề đạn dược cho các vũ khí cá nhân hạng nhẹ trên mặt đất. Cuộc kháng cự tại Fornebu kết thúc. Cố gắng sau đó của Na Uy nhằm tiến hành một cuộc phản công đã không được tiến hành tận lực và không đem lại kết quả gì. Sau khi nghe tin này, Oslo được tuyên bố là một thành phố mở. Lúc 9h00 các tàu vận tải đã bắt đầu hạ cánh tại sân bay Fornebu; đến chiều, bộ binh dưới sự chỉ huy của Đại tá Pohlmann đã tràn vào Oslo, và sớm chiếm đóng thành phố.

Cùng với những cuộc đổ bộ của Đức tại miền nam và trung Na Uy, Bộ Hải quân Anh cũng được biết qua một bản báo cáo khẩn cấp về sự có mặt của một khu trục hạm đơn lẻ của Đức tại Narvik. Bộ liền ra lệnh cho Tiểu hạm đội Khu trục số 2, gồm hầu hết là các tàu hộ tống trước đó trong chiến dịch Wilfred, đến đánh. Hạm đội này đặt dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng Bernard Warburton-Lee, mới chuyển đến từ tàu Renown trong cuộc truy đuổi các tàu ScharnhorstGneisenau, vốn đang làm nhiệm vụ bảo vệ tại lối ra vào vịnh Vest. Lúc 16h00 ngày 9 tháng 4, tiểu hạm đội này cử một sĩ quan lên bờ tại Tranøy cách Narvik 50 dặm về phía tây để thu thập thông tin và được cư dân địa phương cho biết lực lượng của Đức gồm từ 4–6 khu trục hạm và 1 tàu ngầm. Warburton-Lee báo cáo lại phát hiện này về cho Bộ Hải quân, cùng với ý kiến của ông ta là nên tấn công vào ngày hôm sau lúc "bình minh, nước lớn", như vậy sẽ đảm bảo yếu tố bất ngờ và tránh được các bãi mìn. Kế hoạch này được Bộ phê duyệt trong một bản điện tín gửi vào đêm hôm đó.

Sáng sớm ngày hôm sau, Warburton-Lee chỉ huy chiếc kỳ hạm HMS Hardy cùng 4 tàu khu trục tiến vào vịnh Ofot. Lúc 4h30, tàu của ông tới cảng Narvik, và tiến vào trong cảng cùng với tàu HMS Hunter và HMS Havock, để lại 2 tàu HMS Hotspur và HMS Hostile canh giữ lối ra và trông chừng các công sự trên bờ biển. Sương mù và tuyết quá dày đặc đã giúp cho quân của Warburton-Lee tiếp cận mà không bị phát hiện. Khi đến nơi họ phát hiện ra 5 tàu khu trục của Đức và nổ súng, mở màn trận Narvik lần thứ nhất. Các tàu chiến của Warburton-Lee đã bắn chìm 2 khu trục hạm, vô hiệu hóa một tàu khu trục khác, và đánh đắm 6 tàu chở dầu và tiếp tế của Đức. Tư lệnh quân Đức, thuyền trưởng Friedrich Bonte, đã tử trận cùng với chiếc kỳ hạm Wilhelm Heidkamp của mình. Tiểu hạm đội của Warburton-Lee sau đó đã rút ra khỏi cảng mà hầu như không bị thiệt hại gì.

Vào lúc 6h00, khi Tiểu hạm đội Khu trục số 2 đang trên đường trở lại cửa vịnh Vest thì từ trong vịnh Herjangs, 3 tàu khu trục của Đức tiến ra từ phía sau họ, do tư lệnh Erich Bey chỉ huy, và sau vài phút có thêm 2 chiếc khác xuất hiện từ phía trước và bao vây quân của Warburton-Lee. Chiếc Hardy bị tấn công đầu tiên và nhanh chóng bị bắn hỏng rồi được các sĩ quan cho cập cạn. Tàu Hunter là chiếc tiếp theo bị loại khỏi vòng chiến, bị chết máy tại chỗ sau khi trúng nhiều phát đạn. Rồi đến lượt tàu Hotspur bị tấn công làm hỏng hệ thống điều khiển, khiến cho tàu này đâm phải tàu Hunter. Người Đức tiếp tục bắn phá cặp tàu này cho đến khi chiếc Hotspur quay đầu chạy thoát được. Tàu HostileHavock lúc đó đang cố gắng chống trả cũng rút chạy theo tàu Hotspur. Các tàu Đức cũng bị trúng đạn và nhất là do thiếu nhiên liệu trầm trọng nên đã không thể truy kích. Khi họ tiến ra khỏi vịnh Ofot, 3 khu trục hạm của Anh đã kịp xoay xở đánh chìm thêm tàu tiếp tế Rauenfels. nhỏ|phải|Tàu Lutzow tại Kiel sau khi trúng thủy lôi từ tàu ngầm [[HMS Spearfish (69S)|Spearfish của Anh trên đường trở về từ Na Uy.]] Ngay sau trận Narvik lần thứ nhất, có thêm 2 tàu Đức khác bị quân đội Anh đánh đắm. Một chuỗi các cuộc tấn công của Binh chủng Không lực Hải quân xuất phát từ căn cứ tại Hatston thuộc quần đảo Orkney tại Bergen đã tiêu diệt chiếc tuần dương hạm bị thương Königsberg của Đức; đây là chiếc tàu chiến lớn đầu tiên được ghi nhận là bị bắn chìm bằng máy bay. Thêm vào đó, tàu ngầm HMS Truant cũng đánh đắm tàu tuần dương hạng nhẹ Karlsruhe vào đêm ngày 9 tháng 4 ngay sau khi tàu này rời bến Kristiansand. Hôm sau, ngày 10 tháng 4, có thêm chiếc Furious và chiến hạm HMS Warspite gia nhập Hạm đội Nhà và một cuộc tấn công khác đã được tiến hành tại Trondheim nhằm tiêu diệt tàu Admiral Hipper. Thế nhưng tàu Admiral Hipper đã khéo xoay xở thoát khỏi đội canh phòng bên ngoài cảng và đang trên đường về Đức trong lúc cuộc tấn công diễn ra; và không một khu trục hạm hay tàu tiếp tế nào ở lại của Đức bị hư hại. May mắn hơn, ở phía nam, tàu HMS Spearfish đã đánh trọng thương được chiếc tuần dương hạm hạng nặng Lützow vào nửa đêm 11 tháng 4, khiến chiếc tàu này của Đức không thể hoạt động trong vòng 1 năm trời.

Trước tình hình ngày càng rõ rệt là hạm đội Đức đang rời khỏi hải phận Na Uy, Hạm đội Nhà tiếp tục bắc tiến về Narvik với hy vọng bắt kịp các tàu khu trục còn lại. Trên đường đi hạm đội bị các máy bay ném bom Đức quấy rối rất nhiều, buộc họ phải đổi lộ trình đi về phía tây ra xa bờ biển. Đến ngày 12 tháng 4, họ đã đến vùng Narvik và tàu Furious đã cho thử một cuộc tấn công bằng không quân nhưng kết quả không được như mong muốn. Điều này dẫn đến quyết định điều thêm chiến hạm Warspite cùng một lực lượng hộ tống mạnh do Whitworth làm tư lệnh đến trợ chiến.

phải|nhỏ|Các trận hải chiến tại Narvik Sáng ngày 13 tháng 4, quân của Whitworth tiến vào vịnh Vest, sử dụng máy bay trinh sát của tàu Warspite dẫn đường. Ngoài việc định vị được 2 tàu khu trục Đức, máy bay trinh sát còn bắn chìm một tàu ngầm địch, đây là cuộc đụng độ đầu tiên trong trận này. Các khu trục hạm hộ tống tàu Warspite đã đi trước chiến hạm này 5 km và giao chiến đầu tiên với các tàu Đức mà họ chạm trán, mở màn trận Narvik thứ hai. Mặc dù không bên nào chịu thiệt hại đáng kể, các tàu Đức bị bất lợi về vấn đề đạn dược và dần dần bị đẩy lùi vào trong cảng. Đến trưa, hầu hết các tàu Đức đều cố gắng bỏ chạy vào vịnh Rombaks, ngoại trừ tàu Künne đã tự cập cạn tại vịnh Herjangs và bị tiêu diệt bởi tàu HMS Eskimo. Bốn tàu khu trục Anh tiếp tục đuổi theo các tàu Đức trong vịnh Rombaks, và tàu Eskimo ngay sau đó đã bị thương. Mặc dù vậy tình cảnh của quân Đức vẫn là vô vọng khi cạn kiệt nhiên liệu và đạn dược, và khi các tàu của Anh đến nơi toàn bộ các thủy thủ đoàn đã bỏ trốn sau khi tự đánh đắm tàu. Đến 18h30 thì hạm đội Anh lên đường rời khỏi khu vịnh mà bây giờ đã hoàn toàn được dọn sạch.

Tình hình của Na Uy

Các nhóm quân của Đức phần lớn đều đã đạt được mục tiêu tấn công đồng loạt và đánh bại được lực lượng phòng thủ của Na Uy, trong khi mệnh lệnh động viên hạn chế của chính phủ Na Uy còn chưa kịp phát huy tác dụng hỗ trợ cho quân đội. Tuy nhiên không phải thế là đã hết đối với quân Đồng Minh, vì việc Nhóm 5 bị đẩy lùi trong vịnh Oslo đã tạo ra khoảng thời gian vài tiếng quý giá cho Hoàng gia và Chính phủ Na Uy kịp sơ tán đến Hamar. Nhân cơ hội chính phủ bỏ trốn, Vidkun Quisling đã kiểm soát lấy một đài phát thanh để tuyên bố đảo chính, tự phong làm thủ tướng Na Uy. Cuộc đảo chính của Quisling và danh sách những bộ trưởng của ông ta được công bố lúc 19h32. Đến ngày 15 tháng 4 Hội đồng Hành chính đã được Tòa án Tối cao Na Uy chỉ định để kiểm soát chính quyền dân sự tại các khu vực của Na Uy bị chiếm đóng, và Quisling từ chức. Đối với người Đức đã kiểm soát được các thành phố, cảng và sân bay lớn nhất, cũng như các kho vũ khí và hệ thống thông tin liên lạc, thì việc đẩy lùi họ ngay lập tức là điều không thể. Ruge thay vào đó đã quyết định rằng phương hướng hoạt động duy nhất có thể của ông bây giờ là kéo dài thời gian, cầm chân quân Đức cho đến khi quân tiếp viện từ Anh và Pháp kịp đến.

nhỏ|phải|Bộ binh Đức tấn công tại một ngôi làng đang cháy của Na Uy.

Ngày 11 tháng 4, sau khi có thêm quân tiếp viện tại Oslo, Đại tướng Falkenhorst đã cho mở cuộc tấn công với mục tiêu liên kết lại các lực lượng rải rác của Đức trước khi người Na Uy kịp tiến hành cuộc động viên có hiệu quả hay bất kỳ sự can thiệp đáng kể nào của quân Đồng Minh có thể diễn ra. Nhiệm vụ đầu tiên của ông ta là củng cố vững chắc khu vực vịnh Oslo, rồi tung các sư đoàn bộ binh số 196 và 163 đi nối liên lạc với các lực lượng tại Trondheim. Cũng trong ngày 11 táng 4, 11 máy bay ném bom của Luftwaffe đã tấn công thị trấn Nybergsund nhằm tiêu diệt Quốc vương, Thái tử và nội các Na Uy.

Các nền tảng cho chiến lược này của Na Uy đã bắt đầu sụp đổ vào các ngày 13 và 14 tháng 4 khi 3.000 quân thuộc Sư đoàn số 1 (Na Uy) tại Østfold tự ý rút chạy qua biên giới Thụy Điển mà không có lệnh, và bị nước Thụy Điển trung lập giam giữ. Cùng ngày mà Sư đoàn số 1 vượt biên giới, 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Bộ binh số 3 đóng tại trại Heistadmoen ở Kongsberg đã đầu hàng. Sư đoàn số 3 (Na Uy) do thiếu tướng Einar Liljedal chỉ huy có nhiệm vụ phòng thủ miền Nam Na Uy, cũng đầu hàng quân Đức tại Setesdal ngày 15 tháng 4, tại đây khoảng chừng 2.000 lính Na Uy đã bị bắt làm tù binh trong khi vẫn chưa có hoạt động gì cho đến thời điểm đó. Cùng với việc Anh-Pháp quyết định từ bỏ kế hoạch tái chiếm thành phố miền trung Trondheim ngày 20 tháng 4, chiến lược của Ruge trở nên không thể tiến hành trong thực tế được nữa.

Trong khi tiến quân từ Oslo lên phía bắc, quân Đức lần lượt đánh tan sức kháng cự của Na Uy bằng các đòn không kích. Quân Na Uy hầu hết đều thiếu vũ khí phòng không khiến máy bay Đức có thể hoạt động gần như hoàn toàn tự do. Máy bay ném bom bổ nhào Junkers Ju 87 đã tỏ ra đặc biệt hiệu quả trong việc bẻ gãy ý chí chiến đấu của các lực lượng Na Uy cản đường.

Chiến dịch tại miền Trung Na Uy

nhỏ|Diễn biến tại miền Trung và miền Nam Na Uy trong tháng 4 và tháng 5 năm 1940. Kế hoạch ban đầu cho chiến dịch tại miền Trung Na Uy bao gồm một cuộc tấn công bằng 3 mũi vào Trondheim của Đồng Minh trong khi người Na Uy cầm chân quân Đức tại miền nam.

Ngày 14 tháng 4, lực lượng Maurice, bao gồm hầu hết là lữ đoàn bộ binh số 146 của Anh, do thiếu tướng Adrian Carton de Wiart chỉ huy đã tiến hành cuộc đổ bộ đầu tiên tại Namsos. Lực lượng này đã được chuyển giao cho các tàu khu trục thay vì những con tàu vận tải đồ sộ vì đường biển con vịnh dẫn tới Namsos quá hẹp; và do sự lộn xộn xảy ra khi chuyển đổi mà một số lượng lớn đồ tiếp tế và cả sĩ quan chỉ huy tàu đã bị xếp nhầm vị trí. Một vấn đề nghiêm trọng khác của lực lượng Maurice là không có không quân yểm trợ, thế nên Luftwaffe hoàn toàn chiếm ưu thế. Ngày 17 tháng 4 lực lượng Maurice đã hành quân từ Namsos đến các vị trí bao quanh làng Follafoss và thị trấn Steinkjer. Từ Åndalsnes, quân Anh di chuyển bằng tàu hỏa đến làng Dombås với ý định sẽ tiếp tục tiến lên phía bắc để tới Trondheim; thế nhưng tại đây họ đã gặp tướng Ruge và được thông báo rằng quân đội Na Uy không thể ngăn cản cuộc tiến quân của Đức lên thung lũng lâu hơn được nữa. Biết rằng một cuộc đột phá của Đức sẽ cắt đứt đường tiếp tế và khiến cho lực lượng Sickle bị bao vây, Paget liền chuyển hướng lực lượng của mình về phía nam đến Lillehammer. Thế nhưng họ đã không thể ở lại đó lâu khi mà lữ đoàn số 148 đã ngay lập tức bị quân của Richard Pellengahr tấn công và buộc phải rút lui. Khi họ rút qua thung lũng Tretten thì lại bị tấn công lần nữa và bị loại khỏi vòng chiến do mất khả năng chiến đấu. Đến lúc này, lữ đoàn bộ binh số 15 của Anh liền đổ bộ tại Åndalsnes và bắt đầu hành quân về phía nam để giải cứu cho lữ đoàn 148. Họ đã chạm trán với lực lượng truy kích của Đức tại Kvam, một ngôi làng nằm giữa Tretten và Dombås, và bị đánh bật lại Kjorem, tại đây họ đã phải chống cự lại những cuộc tấn công dữ dội của đối phương.

Cho đến ngày 28 tháng 4, với việc cả hai cánh quân đều bị người Đức chặn đứng, đã có quyết định rút toàn bộ lực lượng Đồng Minh ra khỏi miền Nam và miền Trung Na Uy. Lực lượng Sickle, với sự trợ giúp của tướng Ruge, đã xoay xở trở về được Åndalsnes rồi lên tàu chạy thoát lúc 2h00 ngày 2 tháng 5, chỉ vài tiếng trước khi sư đoàn số 196 của Đức tới chiếm cảng. Trước đó cả Quốc vương và Thái tử đều đã xem xét đến khả năng ở lại Na Uy, nhưng Đại sứ Anh Cecil Dormer đã thuyết phục được họ theo chính phủ sống lưu vong.

Sự chiếm đóng

Xe tăng [[Neubaufahrzeug của Đức tại Oslo.]] Với việc quân đội Na Uy đầu hàng thì sự chiếm đóng của Đức đã bắt đầu.

Hải quân Hoàng gia và Không lực Hoàng gia Na Uy đã được tái thiết lập tại Anh từ tàn quân trốn thoát trong chiến dịch Na Uy và sớm tham chiến trong các trận đánh tại Bắc Đại Tây Dương cũng như cuộc không chiến ở châu Âu. Lực lượng của họ ngày càng tăng lên nhờ vào dòng người tị nạn không ngừng tìm đường rời khỏi nước Na Uy bị chiếm đóng, còn trang thiết bị thì được cung cấp đủ tiêu chuẩn bằng máy bay và tàu chiến của Anh và Mỹ. Đến cuối chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu, Hải quân Hoàng gia Na Uy gồm có 58 tàu chiến, với khoảng 7.000 thành viên thủy thủ đoàn. Tổng cộng có 118 tàu chiến thuộc quyền bộ tư lệnh Na Uy trong các giai đoạn khác nhau của chiến tranh.

Quân đội Na Uy cũng được tái lập tại Scotland. Tuy nhiên, do thiếu đi một số lực lượng đặc biệt, đội quân này hoạt động không nhiều trong suốt chiến tranh. Các bộ phận của quân đội Na Uy đóng tại Scotland đã tham gia vào việc giải phóng Finnmark (tỉnh cực bắc của Na Uy) trong mùa đông 1944–1945 sau khi quân Đức tháo chạy khỏi đây trước cuộc tấn công được dự đoán của Hồng quân. Trong giai đoạn này, đã có một số cuộc chạm súng nhỏ với lực lượng tuần tra và bảo vệ hậu quân của Đức.

Tại nước Thụy Điển trung lập cũng có một lực lượng quân Na Uy được tạo dựng trong 2 năm cuối của cuộc chiến thông qua cái gọi là "đội quân cảnh sát" với sự trợ giúp của chính quyền Thụy Điển. Thuật ngữ "cảnh sát" được sử dụng nhằm che đậy cho công tác huấn luyện quân sự hoàn chỉnh của một lực lượng được đào tạo và trang bị đầy đủ và ước tính tập hợp được khoảng 10.000 người tính đến ngày chiến thắng. Năm 1945, có khoảng 1.300 "quân cảnh sát" đã tham gia giải phóng hạt Finnmark.

Đánh giá cuộc chiến

Đúng như kế hoạch, hoạt động quân sự này là một thắng lợi quyết định của Đức. Cả Đan Mạch và Na Uy đều bị chiếm đóng với thương vong khá thấp: 1.317 chết, 2.375 mất tích và 1.604 bị thương - tổng cộng là 5.296 người. Lúc đó Hitler không có trong tay hạm đội nào hiện hữu, và sự thiếu hụt lực lượng hải quân đã góp phần dẫn đến việc Đức không thể tiến hành thành công Chiến dịch Sư tử biển.

Hạm đội Anh cũng chịu một số tổn thất, mất 1 tàu sân bay, 1 tuần dương hạm, 7 khu trục hạm và 1 tàu ngầm,

Hải quân Hoàng gia Na Uy với 121 tàu thuyền vào thời điểm trước cuộc xâm lăng của Đức, đã hầu như bị xóa sổ trong suốt chiến dịch. Chỉ có 15 tàu chiến, 1 tàu đánh cá bắt được của Đức và khoảng 600 người là xoay xở trốn thoát được sang Anh cho đến cuối cuộc chiến. Các tàu còn lại đều đã bị đánh đắm trong khi chiến đấu, hoặc bị thủy thủ đoàn tự đánh đắm, hoặc bị quân Đức bắt giữ, trong đó có 1 khu trục hạm, 2 tàu phòng thủ bờ biển và 3 tàu ngầm bị đánh đắm.

Trong chiến dịch, Hải quân Pháp cũng bị mất một tàu khu trục lớn.

Phe Đồng Minh đã đạt được thành công một phần tại Narvik. Việc vận chuyển tải cảng này đã bị đình chỉ trong vòng 6 tháng, tuy vậy vẫn ít hơn khoảng thời gian Đồng Minh ước đoán rằng cảng sẽ phải ngừng hoạt động ít nhất 1 năm.

Việc Đức chiếm đóng Na Uy đã tạo nên một mối lo ngại cho phía Đồng Minh trong vài năm sau đó. Các máy bay ném bom Đức đóng tại Sola chỉ còn cách mũi đất Rattray Head ở đông bắc Scotland khoảng 600 dặm, thay vì hơn 1.000 dặm so với sân bay gần nhất thuộc đất Đức nằm trên đảo Sylt, và như vậy miền đông Scotland cùng các tàu bè ở duyên hải đã phải chịu đựng nhiều cuộc oanh tạc chủ yếu xuất phát từ Na Uy cho đến năm 1943. Sau khi Na Uy thất thủ, Scotland (nhất là các căn cứ của hạm đội đóng tại Scapa Flow và Rosyth) đã đứng trước nguy cơ bị đe dọa bởi những đòn tấn công không vận và hải vận của đối phương. Lực lượng đánh phá hàng hải Đức cũng đã sử dụng Na Uy làm căn cứ hoạt động để tiến ra Bắc Đại Tây Dương mà không gặp phải nguy hiểm gì. Sau khi Đức xâm lược Liên Xô năm 1941, các căn cứ không quân tại Na Uy còn được dùng để ngăn chặn đoàn tàu Bắc cực của Đồng Minh, gây ra những thiệt hại nặng nề cho lực lượng vận chuyển.

Trong văn học nghệ thuật

  • Năm 1942 phim The Day Will Dawn (Ngày sẽ rạng) được chiếu rộng rãi tại Na Uy ngay trước và ngay sau cuộc xâm lược.
  • Paul Milner, một nhận vật chính trong vở kịch Foyle's War (Cuộc chiến của Foyle), đã từng phục vụ trong chiến dịch Na Uy và mất một chân tại đó.
  • Bộ phim năm 2008 Max Manus (tựa tiếng Anh: Man of War) là một phim lịch sử chiến tranh dựa trên những sự việc có thật trong cuộc đời của kháng chiến quân Na Uy Max Manus (1914–1996)
  • Tiểu thuyết phiêu lưu Biggles Defies the Swastika của W. E. Johns miêu tả cuộc phiêu lưu của nhân vật chính là Phi đội trưởng Bigglesworth (Biggles) khi cố gắng trốn thoát từ Na Uy sau khi mắc kẹt tại quốc gia này trong cuộc xâm lược của Đức. Cuốn tiểu thuyết chứa đựng nhiều tài liệu về việc chiếm đóng Oslo, các trận đánh tại Narvik và phản ứng của hải quân Anh trong chiến dịch này.
  • Cuộc xâm chiếm Na Uy và sự chiếm đóng quốc gia này sau đó đã được mô tả trong cuốn tiểu thuyết The Moon is Down (Trăng lặn) của John Steinbeck, mặc dù cả Đức và Na Uy đều không được nhắc đến theo đúng tên gọi quốc gia trong đó.
  • Narvik (2022), bộ phim kể về trận chiến của quân Na Uy với người Đức trước khi bị chiếm đóng hoàn toàn vào ngày 10/6/1940. Đây được coi là thất bại đầu tiên của quân đội Đức trong Thế chiến II.
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**Na Uy** (Bokmål: _Norge_; Nynorsk: _Noreg_), tên chính thức là **Vương quốc Na Uy**, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây
thế=Bản đồ Na Uy vẽ năm 1662|nhỏ|349x349px|Bản đồ Na Uy vẽ năm 1662 **Lịch sử Na Uy** bị tác động mạnh mẽ bởi yếu tố địa hình và khí hậu. Khoảng 10,000 năm TCN, các
Các thuật ngữ **Đế quốc Na Uy**, **Vương quốc Kế thừa Na Uy** (Tiếng Bắc Âu cổ: _Norégveldi_, Bokmål: _Norgesveldet_, Nynorsk: _Noregsveldet_) và **Vương quốc Na Uy** ám chỉ Vương quốc Na Uy trong đỉnh
**Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950**, còn gọi là **_Chiến dịch Lê Hồng Phong 2_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Đông Dương do Quân đội nhân dân Việt Nam (được phía Pháp
**Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Na Uy** () là đội bóng nữ đại diện cho Hiệp hội bóng đá Na Uy trên bình diện quốc tế trong các trận thi đấu giao hữu
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Chiến dịch Tây Bắc** (từ 14 tháng 10 đến 10 tháng 12 năm 1952) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) trên hướng Tây Bắc Việt Nam nhằm tiêu
**Chiến dịch Neptune** (mã hiệu: **Halcyon**), là mật danh của **cuộc đổ bộ vào Normandie**, chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp với đường hàng không của quân đội Đồng Minh ở Chiến dịch
**Chiến dịch Overlord**, hay **Cuộc tập trận Hornpipe**, là mật danh của **Trận Normandie,** một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Harald V của Na Uy** (sinh ngày 21 tháng 2 năm 1937) là đương kim Quốc vương Na Uy. Ông là người thứ 3 của gia tộc Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg kế thừa ngôi vị này. Harald sinh
**Chiến dịch sự giận dữ của Chúa trời** (, _Mivtza Za'am Ha'el_) cũng được gọi là **Chiến dịch Bayonet**, là một chiến dịch mật do Israel và Mossad chỉ đạo nhắm tới các cá nhân
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Chiến dịch Đường 14 – Phước Long** là trận đụng độ quân sự lớn giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa diễn ra trên địa bàn tỉnh
**Chiến dịch Thượng Lào** (13.4-18.5.1953) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam phối hợp với lực lượng Pathet Lào trên địa bàn hai tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng (Thượng Lào)
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Chiến dịch Cao – Bắc – Lạng** là một chiến dịch tấn công của Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đánh vào tuyến phòng thủ đường 4 và lực lượng chiếm đóng của
**Chiến dịch Sao Thiên Vương (Uranus)** (tiếng Nga: _Операция «Уран»_, phiên âm La Tinh: _Operatsiya Uran_; tiếng Đức: _Operation Uranus_) là mật danh của chiến dịch có tính chiến lược của Liên Xô thời gian
**Trận chiến nước Pháp** (), còn được gọi là **Chiến dịch phía Tây** (**'), **Chiến dịch nước Pháp** (, ) và **Nước Pháp thất thủ''', là cuộc xâm lược của Đức nhằm vào Pháp, Bỉ,
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
**Chiến dịch Šiauliai** hay **Chiến dịch Shyaulyay** diễn ra từ ngày 5 tháng 7 đến ngày 29 tháng 8 năm 1944 là một trong các hoạt động quân sự lớn của Hồng quân Liên Xô
thumb|Vương Gia Na Uy vào năm 2007. Từ trái sang: [[Ingrid Alexandra của Na Uy|Vương nữ Ingrid Alexandria, Vương Thái tử Haakon, Vương Thái tử phi Mette-Marit, Vương hậu Sonja and Vua Harald V|alt=]] Trong
**Chiến dịch Trị Thiên** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện vào năm 1972. Đây là một phần trong Chiến dịch Xuân hè
**_Top Model Na Uy, Mùa 2_** là mùa thứ hai của Norway's Next Top Model được phát sóng vào tháng 9 đến tháng 11 năm 2007 với 13 thí sinh sẽ tranh giành danh hiệu
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
**Chiến dịch Tây Nguyên** hay **Chiến dịch Bắc Tây Nguyên** là một chiến dịch tiến công của các lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa
nhỏ|phải|Một dĩa thức ăn ở Na Uy **Ẩm thực Na Uy** ở dạng truyền thống chủ yếu dựa trên các nguyên liệu có sẵn ở Na Uy và núi non, các khu vực hoang dã
**Chiến dịch Bắc Kỳ** () là một chiến dịch diễn ra từ tháng 6 năm 1883 đến tháng 4 năm 1886 do Pháp tổ chức, nhằm chống lại các đội quân của người Việt, quân
**Chiến dịch Mogilev** (23 tháng 6 - 28 tháng 6 năm 1944) là một trận tấn công của quân đội Liên Xô nhằm vào quân đội Đức Quốc xã, diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức
**_Top Model Na Uy, Mùa 3_** là mùa thứ ba của Norway's Next Top Model được phát sóng vào tháng 9 đến tháng 11 năm 2007 trên TV3. Vendela Kirsebom vẫn là host của chương
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**Chiến dịch Donets** hay **Trận Kharkov lần thứ ba** là một chuỗi những chiến dịch phản công của quân đội Đức quốc xã nhằm vào Hồng quân Liên Xô tại gần khu vực Kharkov trong
**Chiến dịch Phan Rang – Xuân Lộc** là chiến dịch giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước cửa ngõ Sài Gòn trong Cuộc tổng tấn công
**Liên minh cá nhân giữa Thụy Điển và Na Uy** (; ), có tên chính thức **Vương quốc Liên hiệp Thụy Điển và Na Uy**, là một liên minh cá nhân của 2 vương quốc
**Chiến dịch Berlin** là chiến dịch tấn công cuối cùng của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Xô-Đức. Tại chiến dịch này – diễn ra từ ngày 16 tháng 4 đến 9 tháng 5 năm
**Chiến dịch Ostrogozhsk–Rossosh** (_tiếng Nga: Острогожско-Россошанская операция_) là tên gọi chính thức trong lịch sử Liên Xô (trước đây) và Liên bang Nga (hiện nay) của cuộc tấn công mùa đông 1942-1943 tại khu vực
**Chiến dịch Gorodok (1943)** là hoạt động quân sự quy mô lớn đầu tiên của Phương diện quân Pribaltic 1 (Liên Xô) kể từ khi nó được đổi tên từ Phương diện quân Kalinin ngày
**Top Model Na Uy, Mùa 1** là mùa đầu tiên của Norway's Next Top Model từ _Top Model_. Nó được phát sóng trên TV3 từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2006. Người chiến thắng
**Chiến dịch Bảo vệ Thịnh vượng** (tiếng Anh: _Operation Prosperity Guardian_) là mật danh của chiến dịch quân sự do một liên minh đa quốc gia được Hoa Kỳ lãnh đạo tiến hành nhằm đáp
**_Top Model Na Uy, Mùa 4_** là mùa thứ tư của Norway's Next Top Model được phát sóng vào ngày 7 tháng 2 năm 2011. Chương trình đã được quay vào mùa hè năm 2010.
**Chiến dịch Sao Thổ** (tiếng Nga: _Операция Сатурн_) là mật danh do Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô đặt cho cuộc tấn công quy mô lớn thứ hai của Chiến cục
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947** là chiến dịch phản công của lực lượng vũ trang nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước **Cuộc hành quân Léa** do quân đội Pháp thực
**Chiến dịch Campuchia** (tài liệu đương thời gọi **Chiến dịch vượt biên Cao Miên** hoặc **Cuộc xâm nhập Campuchia**) là tên chiến dịch tấn công vào miền Đông Campuchia vào năm 1970 của quân đội
**Channel Dash** hay **_Unternehmen Zerberus_** (Chiến dịch Cerberus) là một chiến dịch hải quân Đức trong thế chiến II. Một _Kriegsmarine_ (hải quân Đưc) hạm đội của cả s, tàu tuần dương hạng nặng và
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
Cuộc **Không chiến tại Anh Quốc** () là tên thường gọi của một cuộc không chiến dai dẳng giữa Đức Quốc xã và Anh Quốc vào mùa hè-thu năm 1940 trong Chiến tranh thế giới
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Courageous**_ bao gồm ba chiếc tàu chiến-tuần dương được biết đến như là những "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn" được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trên