✨Chiến dịch Thượng Lào

Chiến dịch Thượng Lào

Chiến dịch Thượng Lào (13.4-18.5.1953) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam phối hợp với lực lượng Pathet Lào trên địa bàn hai tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng (Thượng Lào) nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân đội Pháp, giải phóng đất đai, mở rộng căn cứ kháng chiến của nhân dân Lào.

Mục tiêu của hai bên

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Hình thái chiến sự vào đầu năm 1953 có nhiều thay đổi, từ năm 1950 sau chiến dịch Biên Giới đã đánh dấu một sự chuyển biến lớn trong cục diện chiến tranh của Quân đội Nhân dân Việt Nam: chuyển từ thế phòng thủ sang thế chủ động tiến công. Quân đội Nhân dân Việt Nam có nhiều trưởng thành về tinh thần, chiến thuật, kỹ thuật. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh đủ các loại hình du kích, công kiên, vận động... mở các chiến dịch ở nhiều khu vực từ đồng bằng, trung du tới miền núi... Tình hình thế giới cũng có nhiều thuận lợi.

Song ngoài những ưu điểm, thuận lợi, Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng gặp khó khăn, tổn thất trong cuộc chiến với đối phương vượt trội cả về quân số và trang bị. Trước năm 1953, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mở các chiến dịch nhưng đã không thu được kết quả mong đợi, Pháp mở chiến dịch Hòa Bình nhằm dành thế chủ động đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh bại. Tình thế chiến trường đang giằng co, lúc này phương châm tác chiến là vô cùng quan trọng. Trong báo cáo tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) ngày 25/1/1953, sau khi nhận xét về tình hình thế giới và trong nước về những điều kiện thuận lợi còn nhấn mạnh về nhược điểm của Quân đội Nhân dân Việt Nam: "một số đơn vị còn mắc những khuyết điểm như: ham đánh to, chủ quan khinh địch, tự kiêu tự mãn, tổ chức quá kềnh càng... Từ nay quân đội ta phải quyết tâm sửa đổi những khuyết điểm ấy... Về mặt chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự thì chúng ta phải "Tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu" để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực mở rộng vùng tự do. Đó là phương hướng chiến lược của ta năm nay."

Căn cứ vào tình hình trên đây, phương hướng chiến lược của Quân đội Nhân dân Việt Nam là nhằm phía Nam mà phát triển, tìm chỗ Pháp yếu mà đánh, bắt địch phải phân tán lực lượng để ứng phó, tạo dần điều kiện tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc bộ. Hướng về phía Nam mà phát triển không có nghĩa là không đánh ở đồng bằng Bắc Bộ. Về vấn đề chỉ đạo chiến tranh, phương châm chung của cuộc chiến tranh giải phóng là "trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, không chủ quan khinh địch, không nóng vội không mạo hiểm. Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt. Đánh ăn chắc, đánh chắc thắng. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn... về chiến lược ta lấy vận động chiến làm chính, nhưng vận động chiến cơ động, linh hoạt"

Liên hiệp Pháp

Tại miền Thượng Lào, Sầm Nưa là cửa ngõ từ tây bắc Bắc Việt Nam sang. Dân tộc Mèo tại đó chuyên trồng thuốc phiện sinh sống một cách sung túc. Sầm Nưa cũng là tiền đồn của Cánh đồng Chum và tiền đồn của thủ đô Lào là Vạn Tượng (Luang Prabang).

Nếu Pháp thu phục được dân tộc Mèo để chống Quân đội Nhân dân Việt Nam trong khu vực đó, thì cũng là một lực lượng đáng kể, có thể gây rất nhiều khó khăn cho Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đại tá Trinquier chỉ huy đoàn biệt kích dù hỗn hợp GCMA thuộc cơ quan phản gián SDECE được giao trách nhiệm tổ chức lực lượng biệt kích Mèo tại khu vực đó. Cơ quan này liền đề nghị với bộ Chỉ huy Pháp giao thiệp với Tù trưởng Mèo tên là Lý Phụng (Pháp gọi là Toubi) để mua hết số thuốc phiện do dân Mèo sản xuất, chở vào Chợ Lớn, Sài Gòn bán lấy lời dùng để chi phí tổ chức một toán quân biệt kích Mèo. Bộ chỉ huy Pháp thấy có lợi vì không phải bỏ tiền, mà mua chuộc được Tù trưởng và cả ngàn tay súng phụ lực. Trước kia, Nhà đoan Đông Dương do Pháp tổ chức vẫn mua tất cả thuốc phiện của dân Mèo về lọc, nấu thành chất lỏng, rồi đóng hộp bán cho dân nghiện dùng, nên viên tướng Chỉ huy trưởng đồng ý cho cơ quan GCMA thực hiện chương trình đó.

Những chuyến bay Dakota chở hàng tấn thuốc phiện sống, đóng trong những thùng cũ đựng đạn dược, từ Cánh đồng Chum bay tới Vũng Tàu, chuyển bằng xe hơi lên Sài Gòn giao cho người được Pháp uỷ nhiệm việc tiêu thụ. Sau đó nhờ những món tiền lời, hơn một ngàn quân biệt kích Mèo được tổ chức, dưới quyền chỉ huy của đại úy dù Desfarges và trung úy Brehier, có các hạ sĩ quan Quốc gia Việt Nam phụ trách việc Truyền tin. Đoàn quân này được huấn luyện và tổ chức thành từng toán 50 người hoặc 100 người, len lỏi trong rừng rậm tây bắc Bắc Việt Nam và Thượng Lào, dùng chiến thuật du kích, gây nhiều khó khăn cho Quân đội Nhân dân Việt Nam. Phần lớn toán quân này về sau bị bỏ rơi khi Pháp rút quân khỏi Bắc Việt Nam năm 1954.

Diễn biến

Sau khi sử dụng Đại đoàn 316 đánh vào Nà Sản để nghi binh, ngày 8-4, bộ đội chủ lực Việt Nam bí mật tiến sang Thượng Lào theo 3 hướng: Hướng chủ yếu gồm: Các đại đoàn 308, Đại đoàn 312 (2 trung đoàn) và Đại đoàn 316 (1 trung đoàn) được tăng cường 4 đại đội sơn pháo, 2 tiểu đoàn pháo phòng không, 3 đại đội súng cối, 1 tiểu đoàn công binh và 1 đại đội trinh sát theo đường 6 sang Sầm Nưa; Hướng thứ yếu: Đại đoàn 304 được tăng cường 1 đại đội sơn pháo, 1 đại đội súng cối và 1 tiểu đoàn pháo phòng không theo đường 7 sang Xiêng Khoảng, chặn đường rút của quân đội Pháp từ Sầm Nưa xuống; *Hướng phối hợp: Trung đoàn 148 theo lưu vực sông Nậm Hu xuống uy hiếp Luang Prabang.

Tới ngày 12-4-1953, trước áp lực mạnh của 8 tiểu đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam, quân Pháp rút chạy khỏi đồn Sầm Nứa rút về Cánh đồng Chum, ở cách 30 km về phía Nam. Tiểu đoàn số 8 Lào trên đường rút lui khỏi Sầm Nưa bị Quân đội Nhân dân Việt Nam đuổi theo truy kích nên bị thiệt hại rất nhiều, phải len lỏi trong rừng, mãi đến 8 ngày sau nhờ có một đại đội dù nhảy xuống tiếp cứu, 300 người sống sót mới thoát được về Cánh đồng Chum. Một số khác được quân biệt kích Mèo giúp đỡ, cuối cùng phân nửa số quân trú phòng tại Sầm Nưa thoát được, còn thì bị tử trận, hoặc bị bắt, hay đầu hàng.

Quân đội Nhân dân Việt Nam chuyển sang truy kích: đêm 13-4, đuổi kịp và tiêu diệt bộ phận cuối của quân đội Pháp ở Mường Hàm, bắt toàn bộ ban lãnh đạo chính quyền Vương quốc Lào tỉnh Sầm Nưa; 9 giờ ngày 14-4, đánh quân đội Pháp ở Nà Noọng (cách Sầm Nưa 30 km), diệt và bắt gần 300 quân; 7 giờ ngày 16-4, đuổi kịp bộ phận đi đầu ở Hứa Mường (cách Sầm Nưa 60 km), tiêu diệt và làm tan rã 4 đại đội, tiếp tục đuổi quân đội Pháp đến sát Cánh đồng Chum.

Hướng đường 7, bao vây tiến công Noọng Hét, buộc quân đội Pháp rút chạy khỏi Bản Xan, Xiêng Khoảng về Cánh Đồng Chum.

Hướng Phongsaly - Mường Sài, giải phóng Mường Ngòi, Bản Sẻ, Pắc Soòng, Nạm Bạc, uy hiếp Luang Prabang.

Bộ chỉ huy Pháp cho rằng Lào đang bị đe doạ, Quân đội Nhân dân Việt Nam đang tiến vào xứ Lào, nên ngày 18-4 tướng Raoul Salan bay lên Vạn Tượng để trình bày với Vua Lào tình trạng nguy ngập của Luang Prabang, trước sức tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Hơn nữa, những người Mỹ đang du lịch tại Vạn Tượng đã được di tản cấp tốc ngay khỏi thành phố bằng một máy bay nhỏ. Vua Lào nhất định không rời khỏi kinh đô. Tướng Salan khi tới hoàng cung thì thấy vua Lào vẫn bình thản, không chút lo ngại, mặc dầu các cận thần có trình với nhà vua phải cấp tốc di tản hoàng gia ngay khỏi kinh đô, nhất là phải di dời bức tượng vàng Prabang, là một quốc bảo. Nhà vua từ chối, nhất định không chịu rời khỏi kinh đô.

Ngày 24-4-1953, thành phố Luang Prabang vắng tanh, chợ không họp, các cửa tiệm người Hoa đều đóng chặt. Đài phát thanh Bắc Kinh loan báo Vạn Tượng sẽ bị chiếm chậm lắm trong một tuần lễ nữa, ngày 1-5-1953. Thực sự thì quân đội Pháp rất ít ỏi ở Vạn Tượng để bảo vệ kinh đô, nếu có thể có thêm quân tiếp viện khoảng 1 ngàn người được đưa tới, thì chẳng là bao so với 2 đại đoàn gồm 16.000 quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Trước những chi phí nặng nề cho chiến cuộc Đông Dương và trước những đòi hỏi gia tăng viện trợ về Không quân mà Bộ Chỉ huy Đông Dương yêu cầu tiếp viện gấp để áp dụng chiến thuật "lập căn cứ địa-không như căn cứ Nà Sản, để cầm chân quân Việt minh", chính phủ Pháp không đủ khả năng đáp ứng cấp thời nên Thủ tướng René Mayer chỉ thị cho Chỉ huy Đông Dương phải tự túc với những phương tiện không quân sẵn có và phải thay đổi chiến thuật ở mạn xứ Thái để bảo vệ sinh mạng binh sĩ mà không cần giữ đất đai. Chính phủ Pháp đã hết sức chán nản trước chiến cuộc kéo dài năm này qua năm nọ làm hao tổn ngân quỹ và làm chia rẽ nội bộ, gây thêm sự đối lập của các đảng phái chính trị.

Ngày 3-5-1953, hai đại đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đang chuyển quân bỗng ngừng lại không tiến nữa về phía Luang Prabang mà chuyển hướng tiến về phía Sầm Nưa, Quân đội Nhân dân Việt Nam rút hết quân khỏi khu vực Thượng Lào, thành ra không có một trận đánh nào xảy ra trên đất Lào. Cánh đồng Chum thành phố Vạn Tượng thoát khỏi chiến sự. Về sau, quân Pháp cho ra một giải thích. Tù binh bị bắt đã khai là mưa nguồn lớn quá làm cản trở sự giao thông, không chuyển kịp gạo muối được, nên Quân đội Nhân dân Việt Nam bị gián đoạn tiếp tế, phải đi về hướng Sầm Nưa.

Ngày 18-5 chiến dịch kết thúc với trận tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Mường Khoa.

Kết quả

Liên quân Lào-Việt diệt và bắt gần 2.800 quân Pháp, giải phóng tỉnh Sầm Nưa, một phần Xiêng Khoảng và tỉnh Phongxalì với diện tích hơn 4.000km2 và hơn 300.000 dân; mở rộng căn cứ kháng chiến của Lào, nối liền với vùng Tây Bắc Việt Nam.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Thượng Lào** (13.4-18.5.1953) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam phối hợp với lực lượng Pathet Lào trên địa bàn hai tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng (Thượng Lào)
**Chiến dịch An Lão** là một chiến dịch lớn của quân và dân Khu 5 nhằm vào chi khu quận lỵ An Lão cùng các cứ điểm quân sự và hệ thống ấp chiến lược
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh** còn được gọi là **"Chiến dịch Đường 9"** hay **"Trận Khe Sanh"**, là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam. Các tài
**Chiến dịch Wisła – Oder** là chiến dịch tấn công chiến lược lớn của Quân đội Xô Viết trong Chiến tranh Xô-Đức, chiến dịch này diễn ra trong thời gian từ 12 tháng 1 đến
**Chiến dịch Starlite**, trong tiếng Việt gọi là **Cuộc hành quân Ánh sáng sao**, là một chiến dịch "tìm và diệt" của quân đội Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Đây là chiến dịch đầu
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Chiến dịch Tây Bắc** (từ 14 tháng 10 đến 10 tháng 12 năm 1952) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) trên hướng Tây Bắc Việt Nam nhằm tiêu
**Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950**, còn gọi là **_Chiến dịch Lê Hồng Phong 2_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Đông Dương do Quân đội nhân dân Việt Nam (được phía Pháp
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch Trường Sa và các đảo trên Biển Đông** là một chiến dịch không lớn nhưng có ý nghĩa quan trọng về chủ quyền lãnh thổ của Quân giải phóng Miền Nam (QGPMN) trong
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Chiến dịch Xuân – Hè 1972**, còn được biết đến với tên gọi **Mùa hè đỏ lửa** (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc **Easter Offensive** ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh";
**Chiến dịch Trị Thiên** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện vào năm 1972. Đây là một phần trong Chiến dịch Xuân hè
**Chiến dịch Mãn Châu** hay _Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu_ (tiếng Nga: _Манчжурская стратегическая наступательная операция_), hay _Cuộc tấn công của Liên Xô vào Mãn Châu_ hay _Chiến tranh chống lại Nhật
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch Linebacker** là chiến dịch do Hoa Kỳ thực hiện trong Chiến tranh Việt Nam nhầm giải tỏa áp lực tiến công của Quân giải phóng trong Chiến dịch hè 1972. Thực hiện bằng
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
**Chiến dịch giải phóng Bulgaria** (5 tháng 9 - 15 tháng 9 năm 1944) là một chiến dịch quân sự do Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của nguyên soái
**Chiến dịch Praha** là chiến dịch lớn cuối cùng của Quân đội Liên Xô và các đồng minh tại châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Diễn ra từ ngày 5 đến ngày
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Chiến dịch Huế - Đà Nẵng** là một chiến dịch trong các chiến dịch lớn của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Chiến dịch Vilnius** là đòn phát triển tiếp tục tấn công phát huy chiến quả sau Chiến dịch Minsk của Phương diện quân Byelorussia 3 (Liên Xô) chống lại các lực lượng Đức Quốc xã
**Chiến dịch tây nam Ninh Bình** là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Đông Dương. Khởi nguồn từ hai cuộc hành quân lớn của quân đội Pháp là **cuộc hành quân Mouette** (Hải âu)
**Chiến dịch Sấm Rền** (tiếng Anh: _Operation Rolling Thunder_) hay** Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất** (theo cách gọi của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay)
**Chiến dịch Đăk Tô – Tân Cảnh** hay **Trận Đăk Tô – Tân Cảnh** năm 1967, là một trận đụng độ trực tiếp giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với quân đội Hoa
**Chiến dịch Thung lũng 1862**, còn được biết đến với cái tên **Chiến dịch Thung lũng của Jackson**, là một chiến dịch nổi tiếng của thiếu tướng Liên minh miền Nam Thomas J. "Stonewall" Jackson
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Chiến dịch hợp vây Korsun–Shevchenkovsky** còn được gọi là "Tiểu Stalingrad" hay "Stalingrad trên bờ sông Dniepr" là một chiến dịch lớn trong Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 24 tháng 1 đến 17
**Chiến dịch Tây Nguyên** hay **Chiến dịch Bắc Tây Nguyên** là một chiến dịch tiến công của các lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa
**Chiến dịch tấn công Smolensk–Roslavl** là hoạt động quân sự lớn của quân đội Liên Xô trong giai đoạn kết thúc các chiến dịch tiến công trên hướng Smolensk năm 1943. Từ ngày 15 tháng
**Chiến dịch Minsk**, một phần của Chuỗi chiến dịch giải phóng Byelorussia vào mùa hè năm 1944, mang mật danh "Bagration", là hoạt động tấn công, hợp vây của quân đội Liên Xô nhằm vào
**Chiến dịch Hoàng Hoa Thám** là một trong những cuộc tiến công lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam vào khu vực Hải Phòng thuộc đồng bằng Bắc Bộ do quân Liên hiệp Pháp
**Chiến dịch sự giận dữ của Chúa trời** (, _Mivtza Za'am Ha'el_) cũng được gọi là **Chiến dịch Bayonet**, là một chiến dịch mật do Israel và Mossad chỉ đạo nhắm tới các cá nhân
**Chiến dịch Demyansk** (_Демянская операция_) là tên của một chiến dịch quân sự do Liên Xô tổ chức trong Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 7 tháng 1 đến ngày 25 tháng 5 năm
**Chiến dịch Kutuzov** là hoạt động quân sự lớn của Quân đội Liên Xô tại khu vực phía bắc vòng cung Kursk với trung tâm là thành phố Oryol tại khu vực trung tâm mặt
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**Chiến dịch Gorodok (1943)** là hoạt động quân sự quy mô lớn đầu tiên của Phương diện quân Pribaltic 1 (Liên Xô) kể từ khi nó được đổi tên từ Phương diện quân Kalinin ngày
**Chiến dịch Philippines (1941–1942)** (tiếng Philippines: Kampanya sa Pilipinas, tiếng Tây Ban Nha: Campaña en las Filipinas del Ejercito Japonés, tiếng Nhật: フィリピンの戦い, tiếng Lating: Firipin no Tatakai), hay còn được biết đến với tên
**Chiến dịch Vitebsk–Orsha** là một trong ba chiến dịch mở màn cho các hoạt động tấn công lớn nhất năm 1944 của Quân đội Liên Xô trên Chiến trường Byelorussia, diễn ra từ ngày 23
**Chiến dịch Polotsk** (29 tháng 6 - 4 tháng 7 năm 1944) là một chiến dịch quân sự diễn ra trong chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào
**Chiến dịch Hòa Bình** (10 tháng 12 năm 1951 - 25 tháng 2 năm 1952) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam (Việt Minh) ở khu vực thị xã Hoà
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
**Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall** từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 2 năm 1944, là các chiến dịch chiến lược quan trọng của Hải quân và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ
**Chiến dịch Eagle Pull** (tạm dịch: _Chiến dịch Đại Bàng Quắp_) là chiến dịch di tản trên không do Mỹ tiến hành ở thủ đô Phnôm Pênh, Campuchia vào ngày 12 tháng 4 năm 1975.
**Chiến dịch tấn công Spas–Demensk** là hoạt động quân sự mở đầu của Chiến dịch Smolensk (1943), diễn ra từ ngày 7 đến ngày 20 tháng 8 trên khu vực Sluena (???) - Dyuki (???)
[[George Brinton McClellan|George B. McClellan và Robert E. Lee, hai viên tướng tư lệnh trong Chiến dịch Maryland]] **Chiến dịch Maryland**, hay **Chiến dịch Antietam**, diễn ra từ ngày 4 tháng 9 đến 20 tháng