✨Đế quốc Na Uy

Đế quốc Na Uy

Các thuật ngữ Đế quốc Na Uy, Vương quốc Kế thừa Na Uy (Tiếng Bắc Âu cổ: Norégveldi, Bokmål: Norgesveldet, Nynorsk: Noregsveldet) và Vương quốc Na Uy ám chỉ Vương quốc Na Uy trong đỉnh cao quyền lực vào thế kỷ XIII sau thời kỳ dài nội chiến trước năm 1240. Vương quốc là sự kết hợp lỏng lẻo bao gồm lãnh thổ Na Uy hiện đại, lãnh thổ của Thụy Điển hiện đại Jämtland, Herjedalen, Ranrike, Idre và Särna, cũng như các vùng lãnh thổ do các chiến binh Na Uy định cư trong nhiều thế kỷ trước khi sáp nhập hoặc thống nhất vào vương quốc với 'lãnh thổ thu thuế'. Ở phía Bắc, Na Uy cũng có biên giới với các vùng lãnh thổ thu thuế rộng lớn trên đất liền. Na Uy, bắt đầu mở rộng từ nền tảng Vương quốc năm 872, đạt thời kỳ đỉnh cao trong giai đoạn 1240 và 1319.

Cùng với người Đan Mạch gốc Na Uy đã định cư tại quần đảo Anh và kiểm soát biển Ireland xuyên qua các thành bang của Viking. Dưới sự lãnh đạo của Rollo, Đan Mạch và Na Uy đã vây chiếm Pari và thành lập Công quốc Normandy, và dưới lãnh đạo của vua Đan Mạch, Canute Đại đế, đã xâm chiếm các vùng đất thuộc nước Anh hiện tại. Tuy nhiên, Na Uy muốn quan tâm tới đối ngoại và văn hóa trí tuệ sau khi Saint Olav qua đời. Cái chết của thánh bảo trợ Na Uy đánh dấu ngày thành phố Trondheim hiện đại trở thành địa điểm hành hương quan trọng nhất ở Bắc Âu. Trong năm 1042–1047 vua Na Uy Magnus tốt lành cũng cai trị Đan Mạch, trước khi Sweyn II kế vị.

Vào thời đỉnh cao mở rộng Na Uy trước nội chiến (1130–1240), Sigurd I đã lãnh đạo cuộc thập tự chinh Na Uy (1107–1110) để giải phóng các vùng chiếm đóng bởi Hồi giáo tại châu Âu. Bao gồm cả Lisbon, trước khi Sigurd và lực lượng Na Uy của ông hướng về phía Trung Đông để cứu viện cho Baldwin I để thành lập Vương quốc Jerusalem. Vương quốc Na Uy là nước châu Âu thứ hai sau Anh thực thi một bộ luật thống nhất áp dụng cho cả nước, được gọi là Landslov (1274). Một sự kiện đáng chú ý của Vương quốc là câu chuyện chắc chắn rằng nhà thám hiểm Leif Erikson, đã phát kiến ra châu Mỹ gần 500 năm trước khi Columbus thực hiện.

Quyền lực thế tục mãnh mẽ đã kết thúc dưới triều vua Haakon Haakonsson trị vì năm 1263. Một yếu tố quan trọng trong giai đoạn này là uy quyền tối cao của giáo hội Nidaros từ năm 1152. Không có nguồn đáng tin cậy cho việc Jämtland được đặt dưới sự Tổng giám mục của Uppsala. Uppsala được thành lập sau đó, và là giáo phận thứ ba ở Scandinavia sau Lund và Nidaros. Nhà thờ tham gia vào một quá trình chính trị trước và trong liên minh Kalmar Thụy Điển nhằm mục đích thiết lập một vai trò Thụy Điển ở Jämtland. Khu vực này đã là một vùng đất liền có quan hệ với vương quốc Thụy Điển, và có lẽ là trong một số liên minh với Trøndelag, giống như với Hålogaland.

Một vương quốc thống nhất bởi vua Harald I Fairhair trong thế kỷ IX. Ông nỗ lực thống nhất các vương quốc nhỏ của Na Uy, kết quả chính quyền trung ương Na Uy lần đầu tiên được thành lập. Đất nước này sớm bị chia cắt, và lại được thống nhất thành một thực thể vào nửa đầu thế kỷ thứ XI. Na Uy đã là một chế độ quân chủ kể từ Fairhair, cho nhiều thế kỷ sau đó.

Lịch sử

nhỏ|phải|Quốc kỳ được sử dụng trong thế kỷ IX đến thế kỷ X

Khi Harald Fairhair trở thành Vua Na Uy sau trận đánh tại Hafrsfjord, ông hướng về phía tây tới các đảo đã được người Na Uy định cư từ một thế kỷ trước, và đến năm 875, Bắc Isles của Orkney và Shetland đã được ông cai trị và trao cho Ragnvald Eysteinsson, Bá tước xứ Møre. Đây được coi là năm đầu tiên của Đế quốc Na Uy.

Iceland đã miễn cưỡng từ bỏ sự độc lập của mình, vì vậy tác giả Iceland Snorri Sturluson đã được mời đến chính điện của vua Haakon Haakonsson và đã thuyết phục rằng Iceland là người Na Uy. Vì vậy, bắt đầu thời kỳ Sturlungs, thời điểm xung đột chính trị ở Iceland, Sturlungs đã làm việc để đưa Iceland vào Na Uy và truyền bá thông qua vị trí của họ tại Althing và thậm chí sử dụng bạo lực trước đó, năm 1262, Cựu công ước đã được ký kết, đưa quy định của Na Uy lên đảo.

Trong Ranríki Konunghella được xây dựng như một thành phố hoàng gia bên cạnh Túnsberg và Biorgvin. Nó vẫn ở Na Uy cho đến hiệp ước Roskilde 1658. Herjárdalr thuộcc Na Uy trong thế kỷ 12 và vẫn tiếp tục trong 5 thế kỷ. Jamtaland bắt đầu thu thuế cho Na Uy trong thế kỷ 13 và sau đó đã được sáp nhập thành một phần của lãnh thổ đại lục trong cùng một thế kỷ. Nó bị chiếm đóng bởi người Thụy Điển trong Chiến tranh Bảy năm Bắc Âu, nhưng sau đó trở lại Đan Mạch-Na Uy như là kết quả của hiệp ước Stettin năm 1570. Idre và Særna, Na Uy từ thế kỷ 12 đã bị Thụy Điển chinh phục trong cuộc tranh cãi Hannibal. Ranríki, Herjárdalr, Jamtaland, Idre và Særna đã được Thuỵ Điển vĩnh viễn đầu hàng vào Hòa bình Brömsebro vào ngày 13 tháng 8 năm 1645.

Lãnh thổ

Các đơn vị hành chính

Viken, quận hạt thuộc Borgarþing:

  • Ránríki
  • Vingulmórk
  • Vestfold
  • Grenafylki (kéo dài tới Tvedestrand)

Oppland, quận hạt thuộc Heiðsævisþing:

  • Heinafylki (hiện tại Hedmarken và Gjøvik)
  • Haðafylki (bao gồm Hadeland, Land, Ringerike, và Toten)
  • Raumaríki (bao gồm Glåmdalen, và Romerike)
  • Guðbrandsdalir
  • Eystridalir (bao gồm Särna và Idre)

Vestlandet, quận hạt thuộc Gulaþing:

  • Sunnmærafylki
  • Firðafylki (gồm Nordfjord và Sunnfjord)
  • Sygnafylki
  • Horðafylki
  • Rygjafylki
  • Egðafylki
  • Vøllðres
  • Haddingjadalr

Trøndelag, quận hạt thuộc Frostaþing:

  • Raumsdølafylki
  • Norðmørafylki
  • Naumdølafylki
  • Sparbyggjafylki
  • Eynafylki
  • Verdølafylki
  • Skeynafylki
  • Stjórdølafylki
  • Strindafylki
  • Gauldølafylki
  • Orkdølafylki

Rest of Norway, quận hạt không gán liền thing:

  • Jamtaland
  • Herdalir
  • Háleygjafylki

Lãnh thổ thu thuế

*Finnmòrk, cũng như các khu vực phía bắc Malangen, ngày nay là Murmansk của Nga, các phần phía bắc Lapland của Phần Lan.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Các thuật ngữ **Đế quốc Na Uy**, **Vương quốc Kế thừa Na Uy** (Tiếng Bắc Âu cổ: _Norégveldi_, Bokmål: _Norgesveldet_, Nynorsk: _Noregsveldet_) và **Vương quốc Na Uy** ám chỉ Vương quốc Na Uy trong đỉnh
**Đế quốc thực dân Đan Mạch** () và tiền **Đế quốc Đan Mạch-Na Uy** (tiếng Na Uy: _Danmark-Norges kolonier_) thể hiện những thuộc địa bị Đan Mạch-Na Uy (chỉ một mình Đan Mạch sau năm
**Đế quốc thuộc địa** là một tập hợp các quốc gia hoặc một phần lãnh thổ các quốc gia (gọi là thuộc địa) bị xâm chiếm, sở hữu và khai thác bởi một nước đế
**Na Uy** (Bokmål: _Norge_; Nynorsk: _Noreg_), tên chính thức là **Vương quốc Na Uy**, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
thế=Bản đồ Na Uy vẽ năm 1662|nhỏ|349x349px|Bản đồ Na Uy vẽ năm 1662 **Lịch sử Na Uy** bị tác động mạnh mẽ bởi yếu tố địa hình và khí hậu. Khoảng 10,000 năm TCN, các
thumb|[[Harald V của Na Uy|Vua Harald V và Hoàng hậu Sonja]] Danh hiệu **Quốc vương Na Uy** bắt đầu từ năm 872, đánh dấu bằng trận Hafrsfjord mà Harald đánh bại các nước, thống nhất
Ủy ban Di sản thế giới là một cơ quan của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), là tổ chức có tầm quan trọng đến việc bảo tồn
thumb|right|Huy hiệu của hoàng gia Na Uy **Danh sách kế vị ngai vàng vương thất Na Uy** được lập nên để sẽ chọn ra nguyên thủ quốc gia tương lai của Vương quốc Na Uy.
**Vương tôn nữ Ingrid Alexandra** (**Ingrid Alexandra av Norge/Noreg**, sinh ngày 21 tháng 1 năm 2004) là con trưởng của Thái tử Haakon và hiện đang đứng thứ hai trong dòng kế vị ngai vàng
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
**Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Na Uy** () là đội bóng nữ đại diện cho Hiệp hội bóng đá Na Uy trên bình diện quốc tế trong các trận thi đấu giao hữu
**Harald V của Na Uy** (sinh ngày 21 tháng 2 năm 1937) là đương kim Quốc vương Na Uy. Ông là người thứ 3 của gia tộc Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg kế thừa ngôi vị này. Harald sinh
**Quốc hội Na Uy** ( ; ) là cơ quan lập pháp tối cao của Na Uy, được thành lập vào năm 1814 theo Hiến pháp Na Uy. Quốc hội gồm một viện với 169
**Quốc kỳ Na Uy** () là một lá cờ màu đỏ - có hình chữ thập mờ màu trắng trải dài tới các cạnh của lá cờ; phần thẳng đứng của cây thập tự được
**Liên minh cá nhân giữa Thụy Điển và Na Uy** (; ), có tên chính thức **Vương quốc Liên hiệp Thụy Điển và Na Uy**, là một liên minh cá nhân của 2 vương quốc
thumb|Vương Gia Na Uy vào năm 2007. Từ trái sang: [[Ingrid Alexandra của Na Uy|Vương nữ Ingrid Alexandria, Vương Thái tử Haakon, Vương Thái tử phi Mette-Marit, Vương hậu Sonja and Vua Harald V|alt=]] Trong
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Na Uy** là đội tuyển bóng đá đại diện cho Na Uy trong bóng đá quốc tế nam, và được kiểm soát bởi Liên đoàn bóng đá Na Uy,
thumb|Huy hiệu của Thụy Điển (với lỗi [[Tincture (huy hiệu)|tinctures) trên một bức tường của Tòa thị chính tại Lützen ở Đức]] Thuật ngữ **Đế quốc Thụy Điển** dùng để chỉ tới **Vương quốc Thụy
**Người Việt ở Na Uy** gồm những người cư trú hoặc là công dân xứ Na Uy có cha mẹ là người Việt. Chủ yếu bài này nói tới những người mà có cả cha
thumb|alt=Một thác nước chảy từ một ngọn đồi xuống bên con đường|[[Hạt lộ 55, Na Uy|Hạt lộ 55 đi qua Kvinnafossen.]] **Tuyến đường Du lịch Quốc gia tại Na Uy** (tiếng Na Uy: _Nasjonale turistveger_)
**Viện hàn lâm Ngôn ngữ và Văn học Na Uy** () là một viện nghiên cứu ngôn ngữ và văn học của Na Uy. Viện có nhiệm vụ "tạo lập yếu tố ổn định trong
**Quỹ quốc gia của Na Uy** còn được gọi với nhiều tên gọi như **Quỹ hưu trí chính phủ Na Uy** (Government Pension Fund of Norway); **quỹ đầu tư chính phủ** (Sovereign Wealth Funds -
right|thumb|Trụ sở đảng **Công Đảng** (tiếng Na Uy: Arbeiderpartiet, A Ap /) là một chính đảng dân chủ xã hội ở Na Uy. Đây là thành phần chính trong chính phủ Na Uy hiện tại
Bài viết này phản ánh lại các tác động của đại dịch COVID-19 ở Na Uy, và có thể không bao gồm tất cả các phản ứng và biện pháp chính đương thời. ## Dòng
Trụ sở Viện Hàn lâm Khoa học Na Uy, số 78 đường Drammensveien, Oslo **Viện Hàn lâm Khoa học Na Uy** (, viết tắt là DNVA) là một hội khoa học ở Oslo, Na Uy,
**Quan hệ Pháp – Na Uy** (tiếng Anh: _France–Norway relations_ hoặc _Franco–Norwegian relations_) hay **quan hệ Pháp – Na**, là quan hệ đối ngoại giữa Pháp và Na Uy. Cả hai nước đều thiết lập
nhỏ|phải|Một dĩa thức ăn ở Na Uy **Ẩm thực Na Uy** ở dạng truyền thống chủ yếu dựa trên các nguyên liệu có sẵn ở Na Uy và núi non, các khu vực hoang dã
**Tiếng Na Uy** (_norsk_) là một ngôn ngữ thuộc nhánh phía Bắc của nhóm ngôn ngữ German trong hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Đây là ngôn ngữ của người dân Na Uy, là ngôn ngữ của
nhỏ|Tòa nhà của Viện Nobel Na Uy ở Trung tâm thành phố [[Oslo.]] **Viện Nobel Na Uy** (tiếng Na Uy: _Det Norske Nobelinstitutt_) là một cơ quan phụ giúp cho Ủy ban Nobel Na Uy
**Biển Na Uy** (tiếng Na Uy: _Norskehavet_) là một vùng biển thuộc Bắc Đại Tây Dương, ở tây bắc Na Uy, nằm giữa biển Bắc và biển Greenland. Vùng biển này tiếp giáp với biển
**Người Canada gốc Na Uy** dùng để chỉ công dân Canada tự nhận mình có nguồn gốc toàn bộ hoặc một phần người Na Uy hoặc những người di cư từ Na Uy và cư
**Na Uy hóa** (_fornorsking av samer_) là một chính sách chính thức do chính phủ Na Uy thực hiện nhằm hướng vào người Sami và sau đó là người Kven ở miền bắc Na Uy
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
Đây là **danh sách các đảo của Na Uy** được sắp xếp theo tên. Để biết danh sách được sắp xếp theo khu vực, truy cập Danh sách đảo Na Uy theo khu vực. ##
**Thủ tướng Na Uy** (, nghĩa đen là "Bộ trưởng Nhà nước") là người đứng đầu chính phủ của Na Uy. Thủ tướng và Nội các (bao gồm tất cả các bộ trưởng cấp cao
Đây là _danh sách các **đế quốc**_, được liệt kê theo thời gian. ## Đế quốc thời Cổ đại phải|thumb|[[Nhà Achaemenid|Đế quốc Achaemenid (Ba Tư) là đế quốc rộng lớn nhất thế giới vào thời
**Quần đảo Faroe** hay **Quần đảo Faeroe** ( ; , ) là một nhóm đảo nằm trong vùng biển Na Uy, phía Bắc Đại Tây Dương, ở giữa Iceland, Na Uy và Scotland. Quần đảo
Grönland **Greenland** (tiếng Greenland: _Kalaallit Nunaat_, nghĩa "vùng đất của con người"; tiếng Đan Mạch: _Grønland_, phiên âm tiếng Đan Mạch: **Grơn-len**, nghĩa "Vùng đất xanh") là một quốc gia tự trị thuộc Vương quốc
**Knud Sweynsson** (, tiếng Anh cổ: _Cnut cyng_, tiếng Na Uy cổ: _Knútr inn ríki_, mất ngày 12 tháng 11 năm 1035), còn được gọi là **Knud Đại đế** hay **Canute**, là vua của Đan
nhỏ|[[Viện Nobel Na Uy ở Oslo.]] nhỏ|Phòng của Ủy ban Nobel Na Uy trong [[Viện Nobel Na Uy. Trên tường là hình chân dung các người đoạt giải Nobel Hòa bình trước đây.]] **Ủy ban
Hôn nhân cùng giới đã hợp pháp tại Na Uy vào ngày 1 tháng 1 năm 2009, khi một dự luật hôn nhân trung lập giới được ban hành sau khi được Quốc hội Na
**Đức Quốc Xã**, còn gọi là **Đệ Tam Đế chế** hay **Đế chế thứ ba** () hoặc với tên chính thức là **Đế chế Đức** (), là nước Đức trong thời kỳ 1933–1945 đặt dưới
Dầu Cá Norsk Ledd Na Uy 90 ViênDầu cá Norsk Ledd là sản phẩm nổi tiếng của Na Uy. Được chiết từ dầu cá hồi tinh khiết cung cấp bởi Epax ( 180 năm kinh
Dầu Cá Norsk Barn Na Uy 90 ViênDầu cá Norsk Barn là sản phẩm nổi tiếng của Na Uy. Được chiết từ dầu cá hồi tinh khiết cung cấp bởi Epax ( 180 năm kinh
**_Rừng Na-Uy_** (tiếng Nhật: ノルウェイの森, _Noruwei no mori_) là tiểu thuyết của nhà văn Nhật Bản Murakami Haruki, được xuất bản lần đầu năm 1987. Với thủ pháp dòng ý thức, cốt truyện diễn tiến
**Vương quốc Scotland** (tiếng Gaelic: _Rìoghachd na h-Alba_, tiếng Scots: _Kinrick o Scotland_) là một quốc gia có chủ quyền ở Tây Bắc châu Âu tồn tại từ năm 843 tới 1707. Vương quốc này
là một bộ phim điện ảnh Nhật Bản có đề tài chính kịch lãng mạn do Trần Anh Hùng làm đạo diễn công chiếu năm 2010, dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà
**Christian III** (12 tháng 8 năm 1503 - 1 tháng 1 năm 1559) là vua của Đan Mạch từ năm 1534 cho đến khi ông qua đời và là vua Na Uy từ năm 1537
**Chó sục Na Uy** là một giống chó có nguồn gốc từ Vương quốc Anh, và được lai tạo để săn lùng các loài gặm nhấm hoặc động vật gặm nhấm có kích thước nhỏ.