thumb|Vương Gia Na Uy vào năm 2007. Từ trái sang: [[Ingrid Alexandra của Na Uy|Vương nữ Ingrid Alexandria, Vương Thái tử Haakon, Vương Thái tử phi Mette-Marit, Vương hậu Sonja and Vua Harald V|alt=]]
Trong quá khứ lẫn hiện tại, Vương tộc Na Uy ám chỉ gia tộc của quân chủ Na Uy. Năm 1905, liên minh Thụy Điển - Na Uy cáo chung, Vương tử Carl của Nhà Glücksburg được chọn làm quân chủ Na Uy (hiệu là Haakon VII), cấu thành nên vương tộc hiện tại.
Ở Na Uy, cần phân biệt giữa kongehuset và kongelige familie. Kongehuset bao gồm quân chủ, phối ngẫu của quân chủ, trữ quân, phối ngẫu của trữ quân, và con cả của trữ quân. Trong khi đó, kongelige familie bao gồm tất cả người con của quân chủ và phối ngẫu của họ, tất cả người cháu của quân chủ và tất cả anh - chị - em của quân chủ. Trong Tiếng Anh, kongehuset được dịch ra là Royal House, trong khi kongelige familie được dịch là royal family. Cả House và family trong tiếng Việt có thể ám chỉ đến gia đình, dòng họ. Dòng họ thì đồng nghĩa với gia tộc. Dựa vào các định nghĩa như trên, có thể dịch kongehuset là Vương Gia, trong khi kongelige familie là Vương tộc.
Hiện tại, cả Vương Gia và Vương tộc Na Uy đều có được sự tín nhiệm cao trong dân chúng nước này.
Lịch sử
Câu chuyện của nền quân chủ Na Uy có thể bắt đầu từ sự thống nhất và thành lập Na Uy cũng như vị vua đầu tiên của nước này - Harald I của vương triều Fairhair. Năm 1163, Đạo luật Kế vị Na Uy được công khai lần đầu, tạo ra khuôn mẫu pháp lý cho việc cho phép một, và chỉ một quân chủ cũng như vương tộc cai trị Na Uy và duy trì điều này thông qua thừa kế.
Vào giai đoạn cuối Trung cổ, ba nước Na Uy - Thụy Điển - Đan Mạch có chung một vị quân chủ thông qua Liên minh Kalmar. Năm 1523, Thụy Điển rời khỏi liên minh, nhưng Na Uy và Đan Mạch vẫn ở lại. Giai đoạn 1536-1537, nhà nước chung Đan Mạch - Na Uy được tái lập, cai trị bởi Nhà Oldenburg đóng đô tại Copenhagen. Đến năm 1814, Na Uy bị sáp nhập vào Thụy Điển sau khi nhà nước chung Đan Mạch - Na Uy bị đánh bại trong các cuộc chiến của Napoleon, dẫn đến việc ký kết Hòa ước Kiel. Cũng trong năm này, Na Uy có được một nền độc lập với một quân chủ nội địa, nhưng sớm phải gia nhập vào một liên minh mới với Thụy Điển và chịu sự cai trị của Nhà Bernadotte.
Năm 1905, Na Uy hoàn toàn độc lập. Sau một cuộc trưng cầu dân ý, quốc gia này quyết định giữ lại nền quân chủ. Quân chủ đầu tiên là vua Haakon VII (sinh ra ở Đan Mạch), vương hậu đầu tiên là Maud - Vốn là vương nữ của Anh. Từ đó, các hậu duệ của vua Haakon VII đã thành lập nên vương tộc Na Uy hiện tại.
Thông qua hôn nhân cũng như các liên minh trong lịch sử, vương tộc Na Uy có mối liên hệ mật thiết đến các vương tộc của Thụy Điển và Đan Mạch. Sợi dây liên kết trực tiếp của vương tộc Na Uy cũng đang tiến gần hơn đến vương tộc Hy Lạp (hiện không còn nắm giữ nền quân chủ Hy Lạp kể từ khi nước này tiến lên nền cộng hòa vào năm 1973) và vương tộc Liên hiệp Anh.
Quân chủ hiện tại của Na Uy là vua Harald V, là hậu duệ của tất cả bốn vị vua của Nhà Bernadotte (1818-1905). Nhà Bernadotte là vương tộc Na Uy trước Nhà Glücksburg hiện tại, nên vua Harald V cũng là vị quân chủ Na Uy đầu tiên là hậu duệ của tất cả các vị quân chủ Na Uy từ năm 1818.
Các thành viên
Vương Gia bao gồm các thành viên:
Vua Harald V (quân chủ)
Vương hậu Sonja (phối ngẫu của quân chủ)
Vương Thái tử Haakon (trữ quân)
Vương Thái tử phi Mette-Marit (phối ngẫu của trữ quân)
Vương tôn nữ Ingrid Alexandra của Na Uy (con cả trữ quân)
Vương tộc bao gồm các thành viên còn sống chia sẻ huyết thống với quân chủ:
Vương tử Sverre Magnus của Na Uy (cháu trai của quân chủ)
Vương nữ Märtha Louise của Na Uy (con gái của quân chủ)
Maud Angelica Behn (cháu gái của quân chủ)
Leah Isadora Behn (cháu gái của quân chủ)
*Emma Tallulah Behn (cháu gái của quân chủ)
Vương nữ Astrid, Bà Ferner (chị gái của quân chủ)
Các thành viên thuộc về Vương tộc nhưng đã qua đời bao gồm:
Vương hậu Maud (bà nội của quân chủ hiện tại; qua đời năm 1938)
Märtha của Thụy Điển (mẹ của quân chủ hiện tại; qua đời năm 1954)
Vua Haakon VII (ông nội của quân chủ hiện tại; qua đời năm 1957)
Vưa Olav V (cha của quân chủ hiện tại; qua đời năm 1991)
Vương nữ Ragnhild, Bà Lorentzen (chị gái của quân chủ hiện tại; qua đời năm 2012)
Johan Ferner (anh rể của quân chủ hiện tại; qua đời năm 2015)
Ari Behn (con rể từ 2002 đến 2017 của quân chủ hiện tại, qua đời năm 2019)
Erling Lorentzen (anh rể của quân chủ hiện tại, qua đời năm 2021)
Huy hiệu Nhà Vua
Giữ nguyên các họa tiết từ huy hiệu của các vị vua Na Uy thời Trung cổ, quốc huy Na Uy là một trong những quốc huy lâu đời nhất của châu Âu. Hiện tại, quốc huy Na Uy cũng chính là huy hiệu của Nhà Vua và Vương Thái tử nước này.
Ngược dòng lịch sử, vua Håkon Già (1217-1263) đã sử dụng huy hiệu có họa tiết bao gồm một tấm khiên và một con sư tử. Năm 1280, vua Eirik Magnusson cho vẽ thêm vào huy hiệu họa tiết vương miện và một cây rìu bạc trên tay con sư tử - Cây rìu được dùng để giết Thánh Olav (một vị thánh tử đạo) trong trận Stiklestad vào năm 1030.
Họa tiết trong huy hiệu thay đổi theo năm tháng cùng với dòng thay đổi các trào lưu thiết kế huy hiệu. Cuối thời Trung Cổ, cán của cây rìu dần dài ra và trông giống phủ thương. Phần cán thường được uốn cong để vừa vặn trong họa tiết tấm khiên và đồng xu khắc họa huy hiệu. Năm 1844, việc kiểm định họa tiết trong huy hiệu lần đầu tiên xuất hiện. Huy hiệu chính thức mới, thông qua bởi một đạo luật do chính nhà vua ký tên, loại bỏ họa tiết phủ thương và thay thế bằng họa tiết cây rìu ngắn hơn. Năm 1905, huy hiệu chính thức của Nhà Vua và chính quyền thay đổi thêm một lần nữa: lấy lại họa tiết thời Trung Cổ, với một chiếc khiên hình tam giác và một con sư tử được vẽ ngay thẳng hơn.
Khi thể hiện trên cương vị là huy hiệu của Nhà Vua hay huy hiệu của Vương Thái tử, quốc huy của Na Uy sẽ được bổ sung thêm một số họa tiết: Quốc huy sẽ được "đeo" Vương Huân chương Thánh Olav, "khoác" một chiếc Vương bào bằng lông chồn Ecmin (màu tím đối với huy hiệu của Nhà Vua, màu đỏ đối với huy hiệu của Vương Thái tử), và "đội" vương miện của Nhà Vua hoặc của Vương Thái tử.
Tuy nhiên, nhà vua không thường xuyên sử dụng huy hiệu. Thay vào đó, monogram (họa tiết chữ lồng) của nhà vua được sử dụng rộng rãi, chẳng hạn như trên quân hàm hay đồng xu.
File:Blason Norvège.svg|Quốc huy Na Uy
File:Greater royal coat of arms of Norway.svg|Huy hiệu Nhà Vua Na Uy
File:Coat of Arms of His Royal Highness the Crown Prince of Norway.svg|Huy hiệu Vương Thái tử Na Uy
File:Royal Monogram of King Haakon VII of Norway.svg|Monogram biểu trưng Vua Haakon VII của Na Uy
File:Royal Monogram of Queen Maud of Norway.svg|Monogram biểu trưng Vương hậu Maud của Na Uy
File:Royal Monogram of King Olav V of Norway.svg|Monogram biểu trưng Vua Olav V của Na Uy
File:Royal Monogram of Princess Martha of Norway.svg|Monogram biểu trưng Vương nữ Martha của Na Uy
File:Royal Monogram of King Harald V of Norway.svg|Monogram biểu trưng Vua Harald V của Na Uy
File:Royal Monogram of Queen Sonja of Norway.svg|Monogram biểu trưng Vương hậu Sonja của Na Uy
File:Royal Monogram of Prince Haakon of Norway.svg|Monogram biểu trưng Vương Thái tử Haakon của Na Uy
File:Royal Monogram of Princess Ingrid Alexandra of Norway.svg|Monogram biểu trưng Vương nữ Ingrid Alexandra của Na Uy
File:Royal Monogram of Prince Sverre Magnus of Norway.svg|Monogram biểu trưng Vương tử Sverre Magnus của Na Uy
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Vương Gia Na Uy vào năm 2007. Từ trái sang: [[Ingrid Alexandra của Na Uy|Vương nữ Ingrid Alexandria, Vương Thái tử Haakon, Vương Thái tử phi Mette-Marit, Vương hậu Sonja and Vua Harald V|alt=]] Trong
**Vương hậu Sonja của Na Uy** (nhũ danh: **Sonja Haraldsen**, sinh ngày 04 tháng 07 năm 1937) là vợ của Vua Harald V và là mẹ của Thái tử Haakon - người sẽ kế vị
**Vương tôn nữ Ingrid Alexandra** (**Ingrid Alexandra av Norge/Noreg**, sinh ngày 21 tháng 1 năm 2004) là con trưởng của Thái tử Haakon và hiện đang đứng thứ hai trong dòng kế vị ngai vàng
**Vương nữ Märtha Louise** (**Märtha Louise av Norge**, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1971) là con trưởng và là con gái duy nhất của Vua Harald V và Hoàng hậu Sonja. Bà hiện đứng
**Sverre Magnus của Na Uy** (; sinh ngày 3 tháng 12 năm 2005) là người con út và là con trai duy nhất của Thái tử Haakon và Thái tử phi Mette-Marit. Cậu hiện đứng
**Ragnhild Alexandra của Na Uy** (; 09 tháng 06 năm 1930 – 16 tháng 09 năm 2012) là con trưởng của vua Olav V của Na Uy và công chúa Märtha của Thụy Điển. Bà
**Mette-Marit của Na Uy** (; sinh ngày 19 tháng 08 năm 1973), nhũ danh **Mette-Marit Tjessem Høiby**, là vợ của Thái tử Haakon, người thừa kế ngai vàng của Vương quốc Na Uy. Cô là
**Na Uy** (Bokmål: _Norge_; Nynorsk: _Noreg_), tên chính thức là **Vương quốc Na Uy**, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Haakon VII** (3 tháng 8 năm 1872 – 21 tháng 9 năm 1957), còn được biết tới là Hoàng tử Karl của Đan Mạch cho đến năm 1905, là vị vua đầu tiên của Na
**Olav V của Na Uy** (Alexander Edward Christian Frederik; ngày 2 tháng 7 năm 1903 – ngày 17 tháng 1 năm 1991) là vua của Na Uy từ năm 1957 cho đến khi ông qua
**Haakon Magnus của Na Uy** (; sinh ngày 20 tháng 07 năm 1973) là người thừa kế ngai vàng của Vua Harald V. Ông cũng là một vị Vương tử Đan Mạch và là thành
**Astrid Maud Ingeborg của Na Uy** (; sinh ngày 12 tháng 2 năm 1932) là con gái thứ hai của vua Olav V của Na Uy và công chúa Märtha của Thụy Điển. Bà là
**Đan Mạch – Na Uy** () là một nhà nước đa quốc gia và đa ngôn ngữ thời kỳ đầu hiện đại bao gồm vương quốc Đan Mạch, vương quốc Na Uy (bao gồm Na
**Harald V của Na Uy** (sinh ngày 21 tháng 2 năm 1937) là đương kim Quốc vương Na Uy. Ông là người thứ 3 của gia tộc Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg kế thừa ngôi vị này. Harald sinh
**Vương tộc Glücksburg** (tiếng Đan Mạch S_lesvig-Holsten-Sønderborg-Lyksborg_, cũng viết _Glücksborg_), Glücksburg là từ viết rút gọn của **Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg**, là tên của một nhánh gia đình thuộc Nhà Oldenburg, có nguồn gốc từ Đức, các thành
**Vương tộc Bernadotte** là triều đại trị vì Thụy Điển kể từ khi thành lập vào năm 1818 cho đến nay. Đây cũng là vương tộc trị vì Na Uy từ năm 1818 đến năm
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
thumb|[[Xu bạc: 2 rigsdaler Đan Mạch kỷ niệm Nhà Glücksburg lên thay Nhà Oldenburg trị vì Đan Mạch, mặt trước xu là chân dung cựu vương Frederik VII và mặt sau là chân dung tân
**Vương tộc Plantagenet** (phát âm: ) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn
**Nhà Mecklenburg** (tiếng Đức: _Haus Mecklenburg_), còn được gọi là Nikloting, là một triều đại gốc Slav ở Bắc Đức, cai trị cho đến năm 1918 tại vùng Mecklenburg, là một trong những vương tộc
thumb|Gia huy của Vương tộc Holstein-Gottorp **Nhà Holstein-Gottorp**, là một nhánh của triều đại Oldenburg, cai trị Thụy Điển từ năm 1751 đến 1818 và Na Uy từ 1814 đến 1818, trải qua 4 đời
**Nhà Wittelsbach** là một trong những hoàng tộc châu Âu lâu đời nhất và là một triều đại Đức ở Bayern. Xuất phát từ nhà này là các bá tước, công tước, tuyển hầu tước
**Christian III** (12 tháng 8 năm 1503 - 1 tháng 1 năm 1559) là vua của Đan Mạch từ năm 1534 cho đến khi ông qua đời và là vua Na Uy từ năm 1537
**Nhà Griffin** (tiếng Đức: _Greifen_; tiếng Ba Lan: _Gryfici_, tiếng Đan Mạch: _Grif_) còn được gọi là triều đại Griffin, là gia tộc cai trị Công quốc Pomerania từ thế kỷ XII cho đến năm
**Vương tôn nữ Alexandra, Phu nhân Danh dự Ogilvy** (Alexandra Helen Elizabeth Olga Christabel, sinh ngày 25 Tháng 12 năm 1936) là cháu gái út của vua George V và Vương hậu Mary. Bà là
**Maud Charlotte Mary Victoria của Liên hiệp Anh** (26 tháng 11 năm 1869 – ngày 20 tháng 11 năm 1938) là Vương hậu của Na Uy với tư cách là phối ngẫu của Quốc vương
thumb|Vương thất Đan Mạch tại sinh nhật lần thứ 70 của [[Margrethe II của Đan Mạch|Nữ vương Margrethe II (nay Thái thượng vương Margrethe), ngày 16 tháng 4 năm 2010. _Từ trái sang: (hàng trước)_
**Hậu duệ vương thất của Victoria** (Nữ vương Liên hiệp Anh) ** và Christian IX** (Quốc vương Đan Mạch) hiện tại vị trên ngai vàng của Bỉ, Đan Mạch, Luxembourg, Na Uy, Tây Ban Nha,
**Margaret của Scotland** (tiếng ; 9 tháng 4 năm 1283 - 26 tháng 9 năm 1290) là một Vương nữ Na Uy được công nhận là Nữ vương Scotland sau cái chết của ông ngoại,
**Vương quốc Scotland** (tiếng Gaelic: _Rìoghachd na h-Alba_, tiếng Scots: _Kinrick o Scotland_) là một quốc gia có chủ quyền ở Tây Bắc châu Âu tồn tại từ năm 843 tới 1707. Vương quốc này
**Carl của Thụy Điển** (cho đến năm 1905 cũng là Vương tử Na Uy), Công tước xứ Västergötland (sinh tại Stockholm, ngày 27 tháng 2 năm 1861 - Mất tại Stockholm, 24 tháng 10 năm
**Frederik VI** (28 tháng 1 năm 17683 tháng 12 năm 1839) là vua của Vương quốc Đan Mạch từ 13 tháng 3 năm 1808 đến 3 tháng 12 năm 1839 và Vua của Vương quốc
**Eugen Napoleon Nicolaus của Thụy Điển** (cho đến năm 1905 cũng là Vương tử Na Uy), Công tước xứ Närke (ngày 01 tháng 8 năm 1865 - ngày 17 tháng 8 năm 1947) là một
**Chó săn Na Uy** () hay còn gọi là **Dunker**, là một giống chó cỡ trung bình của Na Uy. Nó được nuôi bởi Herr Wilhelm Dunker là một scenthound (chó săn bằng mùi hương)
**Estelle của Thụy Điển, Nữ Công tước xứ Östergötland** (**Estelle Silvia Ewa Mary**, sinh ngày 23 tháng 2 năm 2012) là con trưởng của Thái nữ Victoria, Nữ Công tước xứ Västergötland và Vương thân
**Vương tôn Gustaf Adolf Oscar Fredrik Arthur Edmund, Công tước xứ Västerbotten** (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1906, tại Stockholm – mất ngày 26 tháng 01 năm 1947, tại Kastrup Airfield, Copenhagen, Đan Mạch)
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
thumb|[[Từ Hi Thái hậu - một ví dụ điển hình của người họ Na Lạp thị triều Thanh.]] **Na Lạp thị** (chữ Hán: 那拉氏; ), hoặc **Ná Lạp thị**, **Nạp Lạt thị** (納喇氏) và **Nạp
**Karl XIV Johan**, tên khai sinh: **Jean-Baptiste Bernadotte**, về sau là **Jean-Baptiste Jules Bernadotte** (26 tháng 1 năm 1763 – 8 tháng 3 năm 1844), con trai thứ hai của luật sư Henri nhà Bernadotte,
**Iceland** (phiên âm tiếng Việt: "Ai-xlen"; ; ) là một quốc đảo thuộc khu vực châu Âu theo thể chế cộng hòa đại nghị. Iceland nằm giáp vòng Cực Bắc nên có khí hậu rất
**Liên minh Kalmar** (tiếng Đan Mạch, tiếng Na Uy, tiếng Thụy Điển: _Kalmarunionen_) là liên minh giữa 3 vương quốc Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển dưới quyền cai trị của một quốc vương
**Quần đảo Faroe** hay **Quần đảo Faeroe** ( ; , ) là một nhóm đảo nằm trong vùng biển Na Uy, phía Bắc Đại Tây Dương, ở giữa Iceland, Na Uy và Scotland. Quần đảo
**Knud Sweynsson** (, tiếng Anh cổ: _Cnut cyng_, tiếng Na Uy cổ: _Knútr inn ríki_, mất ngày 12 tháng 11 năm 1035), còn được gọi là **Knud Đại đế** hay **Canute**, là vua của Đan
**Oslo** ( hay , phiên âm: Ốt-xlô) là một khu tự quản, thủ đô và cũng là thành phố đông dân nhất Na Uy. Oslo trở thành khu tự quản (_formannskapsdistrikt_) vào ngày 1 tháng
**Rollo** (Nam. Tiếng Norman: _Rou_; tiếng Bắc Âu cổ: _Hrólfr_; tiếng Pháp: _Rollon_. Sinh năm 846 hoặc 860, mất năm 928/930 hoặc 932/933 sau công nguyên), một người Viking, một chiến binh, Kẻ chinh phục
**Louise của Hà Lan** (; tên đầy đủ: _Wilhelmina Frederika Alexandrine Anna Louise_; 5 tháng 8 năm 1828 – 30 tháng 3 năm 1871), hay còn được gọi là **Lovisa**, là Vương hậu Thụy Điển
Grönland **Greenland** (tiếng Greenland: _Kalaallit Nunaat_, nghĩa "vùng đất của con người"; tiếng Đan Mạch: _Grønland_, phiên âm tiếng Đan Mạch: **Grơn-len**, nghĩa "Vùng đất xanh") là một quốc gia tự trị thuộc Vương quốc
**Lovisa của Thụy Điển, hay Lovisa của Thụy Điển và Na Uy** (**_Lovisa Josefina Eugenia_**; tiếng Thụy Điển: _Lovisa av Sverige_; tiếng Đan Mạch: _Louise af Sverige-Norge_; tiếng Anh: _Louise of Sweden_; 31 tháng 10
**Ủy hội châu Âu** (, ) là một tổ chức quốc tế làm việc hướng tới việc hội nhập châu Âu. Ủy hội được thành lập năm 1949 và có một sự nhấn mạnh đặc