✨Chiến dịch Campuchia

Chiến dịch Campuchia

Chiến dịch Campuchia (tài liệu đương thời gọi Chiến dịch vượt biên Cao Miên hoặc Cuộc xâm nhập Campuchia) là tên chiến dịch tấn công vào miền Đông Campuchia vào năm 1970 của quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhằm nhằm truy quét các lực lượng của Trung ương Cục miền Nam đang đóng ở trong lãnh thổ Campuchia trong Chiến tranh Việt Nam.

Kế hoạch can thiệp của Hoa Kỳ

Khi người Pháp rời khỏi Campuchia năm 1954, Quốc trưởng Norodom Sihanouk nắm quyền. Tuy nhiên ông bị chống đối bởi phe Khmer Xanh (thân Mỹ) lẫn phe Khmer Đỏ (thân Trung Quốc). Do những rắc rối ở Việt Nam gia tăng, ông cố gắng giữ cho đất nước một thái độ trung lập. Campuchia đồng thời có quan hệ ngoại giao với cả Mỹ và Trung Quốc.

Năm 1965, sau khi người Mỹ đưa quân vào Việt Nam bảo vệ Việt Nam Cộng hòa ông chuyển hướng sang ủng hộ Trung Quốc đồng thời cắt đắt quan hệ ngoại giao với Mỹ và Anh. Ông cũng đồng ý cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng các tuyến đường vận chuyển vũ khí vào miền Nam trên lãnh thổ Campuchia và cho phép Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thiết lập các căn cứ dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia và tin tưởng Trung Quốc sẽ bảo đảm vị thế cho mình.

Sau Sự kiện Tết Mậu Thân, tướng William Westmoreland tìm kiếm sự ủng hộ cho việc tấn công truy quét các căn cứ của Quân giải phóng miền Nam và Trung ương cục miền Nam ở Campuchia. Lo ngại người Mỹ, Sihanouk cho phép họ được quyền truy đuổi Quân giải phóng, miễn là không người dân Campuchia nào bị ảnh hưởng. Người Mỹ đề xuất một chiến dịch đánh bom ngắn hạn xuống các căn cứ của Quân giải phóng miền Nam ở Campuchia dưới sự hỗ trợ tình báo từ người của Sihanouk, nhưng chiến dịch này lại kéo dài tới 14 tháng và làm Campuchia mất ổn định.

Khi còn là Phó Tổng thống Mỹ, Nixon đã coi Campuchia là một khâu trọng yếu trong việc giành thắng lợi ở Việt Nam. Khi làm Tổng thống Mỹ, Nixon đưa ra một kế hoạch nhằm biến Campuchia đang cắt đứt quan hệ ngoại giao với Mỹ, dựa vào sự ủng hộ của khối các nước Xã hội chủ nghĩa thành một quốc gia thân Mỹ. Còn Creighton Abrams, Tư lệnh quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam thì cho rằng Campuchia là nơi đứng chân của Trung ương Cục miền Nam và Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam. Vì vậy, viên tư lệnh chiến trường này nhận định, nếu phá được "thánh đường Việt cộng" ở Campuchia, cách mạng miền Nam sẽ bị bóp nghẹt, chiến tranh Việt Nam sẽ kết thúc trong vòng một năm. Creighton Abrams đề nghị Nixon dùng B-52 đánh vào khu căn cứ 353 (vùng Móc Câu và Mỏ Vẹt bên kia biên giới Campuchia), nơi mà Creighton Abrams cho rằng Trung ương Cục miền Nam đang đứng chân.

Đề nghị của Abram được Nixon chấp thuận, bởi trong nhìn nhận của giới lãnh đạo Washington, "một cuộc chiến tranh không quân ở Campuchia có thể giữ bí mật mà vẫn đạt được các mục tiêu cắt đứt các đường tiếp tế và phá huỷ các căn cứ của địch. Quan trọng hơn cả là nó có thể buộc Campuchia bỏ chính sách lâu nay của họ"

Tháng 2-1969, sau gần bốn năm gián đoạn, Campuchia và Mỹ đã lập lại quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. Chính Đại sứ quán Mỹ ở Phnôm Pênh cùng với Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã ủng hộ Lon Nol - một đại diện phái cực hữu trong Chính phủ Campuchia do Sihanouk làm Quốc trưởng, tiến hành các hoạt động quân sự tấn công Quân giải phóng miền Nam. Đầu năm 1970, thừa lúc Sihanouk đi dưỡng bệnh ở Pháp, Lon Nol và Sisowath Sirik Matak ra tuyên bố huỷ bỏ Hiệp định thương mại với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà Miền Nam Việt Nam, đóng cảng Sihanoukville không cho vũ khí, quân trang, quân dụng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cập cảng này tiếp tế cho Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Ngày 13-3-1970, Lon Nol phát đi tối hậu thư đòi tất cả các lực lượng Quân giải phóng phải rời Campuchia trong vòng hai ngày. Hết thời hạn, theo yêu cầu của Lon Nol, không quân và pháo binh Mỹ bắn phá dữ dội vào các vùng dọc biên giới Campuchia - Việt Nam, nơi có các căn cứ kháng chiến của Quân giải phóng.

Giữa tháng 2-1969, lực lượng không quân chiến lược Mỹ được lệnh tiến hành các phi vụ B-52 đánh phá căn cứ 353. Ngày 18-3-1969, cuộc tiến công bằng B-52 mà phía Mỹ gọi là "hoạt động bữa ăn" được thực hiện nhằm vào khu vực dọc theo biên giới Campuchia - Việt Nam, khởi đầu cho việc leo thang mở rộng chiến tranh sang Campuchia. Từ đó, đất nước Campuchia bước vào một thời kỳ đầy biến động.

Trong hơn 1 năm (từ tháng 3-1969 đến tháng 4-1970), lực lượng không quân chiến lược Mỹ (B-52) đã thực hiện trên 3.630 phi vụ ném bom xuống Campuchia, chiếm 60% tổng số phi vụ B-52 trên chiến trường Đông Dương trong cùng thời gian đó.

Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa tiến vào Campuchia

Quốc hội Campuchia quyết nghị bãi nhiệm Sihanouk

Ngày 18 tháng 3 năm 1970, trong lúc Sihanouk đang ở nước ngoài, Lon Nol - thủ tướng chính phủ - cho quân đội bắt giữ chính quyền dân sự ở Phnompenh và bố trí xe tăng bao vây toà nhà Quốc hội sau đó triệu tập Quốc hội bỏ phiếu phế truất Norodom Sihanouk khỏi vị trí Quốc trưởng và trao quyền lực khẩn cấp cho Lon Nol. Việc đàn áp đối lập và các chính sách kinh tế sai lầm của Sihanouk, cũng như thái độ xích lại gần Việt Nam và Trung Quốc của ông cùng với áp lực của Lon Nol khiến Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm ông. Sihanouk gọi đây là âm mưu đảo chính của CIA và buộc phải đi an dưỡng ở biệt thự riêng của gia đình ông tại Riviera một thời gian.

Ngày 22-4-1970, Nixon triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ để thảo luận về bước đi tiếp theo của Mỹ ở Campuchia. Trong cuộc họp này, giới lãnh đạo Mỹ cho rằng, các vùng "đất thánh" Mỏ Vẹt và Móc Câu, nơi đứng chân của cơ quan chỉ đạo quân Giải phóng miền Nam, sau 14 tháng B-52 ném bom, gần như vẫn còn nguyên vẹn. Vì vậy, Mỹ quyết định phát động cuộc tiến công trên bộ vào Campuchia để "chộp bắt" các cơ quan chỉ đạo quân Giải phóng miền Nam, mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương.

Ngày 28-4-1970, một số đơn vị quân đội Sài Gòn vượt biên giới Campuchia tiến công khu vực Mỏ Vẹt. Hai ngày sau, ngày 30-4-1970, theo lệnh của Nixon, Mỹ huy động năm vạn quân Mỹ phối hợp với năm vạn quân Việt Nam Cộng hòa, mở cuộc tiến công quy mô lớn vào Campuchia. Giờ đây, Chiến tranh Việt Nam đã thực sự mở rộng ra toàn cõi Đông Dương.

Chủ trương của quân Giải phóng

Theo đánh giá của quân Giải phóng miền Nam, "ngày 30-4-1970, Mỹ đưa hơn 10 vạn - vừa quân Mỹ vừa quân Sài Gòn, mở cuộc hành quân đánh chiếm Campuchia, nhằm cứu bọn ngụy Lon Non đang có nguy cơ sụp đổ, triệt phá cái mà chúng gọi là "đất thánh Việt cộng" trên đất Campuchia, biến nước này thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ, thực hiện ở đây một chiến lược chiến tranh mới phù hợp với "học thuyết Níchxơn" - chiến lược "Khơme hóa chiến tranh".

Ngay khi cuộc đảo chính ở Campuchia nổ ra, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp và nhận định: "Đây là nấc thang mới của đế quốc Mỹ nhằm biến Campuchia thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng, xoá bỏ căn cứ và bàn đạp chiến lược của ta, cắt đứt tuyến tiếp tế hậu cần chi viện cho chiến trường miền Nam, thực hiện âm mưu bóp nghẹt cách mạng miền Nam." Phân tích những thuận lợi và khó khăn của quân Giải phóng cũng như của Mỹ khi cuộc đảo chính xảy ra, Bộ Chính trị chỉ rõ: "Cuộc đảo chính ở Campuchia trước mắt có gây cho ta một số khó khăn về mặt hậu cần tiếp tế, ta cần có những biện pháp thiết thực để khắc phục, nhưng Mỹ và tay sai cũng gặp những khó khăn lúng túng về nhiều mặt, thế và lực bọn phản động ở Campuchia nói chung là yếu. Mỹ đang xuống thang ở miền Nam đưa quân vào Campuchia không phải dễ dàng, nhưng chúng tìm mọi cách để phối hợp. Ta vẫn có nhiều thuận lợi lớn"

Trên cơ sở phân tích những thuận lợi và khó khăn của đôi bên trên chiến trường, Bộ Chính trị chủ trương đẩy mạnh tiến công ở miền Nam, đồng thời "tích cực giúp đỡ cách mạng Campuchia giương cao ngọn cờ dân tộc chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai cực hữu". Bộ Chính trị chỉ thị cho lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường phải "nghiên cứu tổ chức, bố trí lại lực lượng cho thích hợp với tình hình mới bảo đảm đẩy mạnh tiến công ở miền Nam, giúp cách mạng Campuchia có hiệu lực vừa mạnh vừa vững chắc, chủ động và lâu dài"

Diễn biến cuộc tấn công

Các cuộc hành quân của Hoa Kỳ

Trong vòng hai tháng (từ ngày 30-4 đến ngày 30-6-1970), quân Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa đã mở 23 cuộc hành quân, ồ ạt đánh sâu vào đất Campuchia 30 km đến 40 km (có nơi đến 80 km), trên toàn tuyến biên giới tiếp giáp với Việt Nam, tập trung vào các hướng đông và đông nam Svay Rieng, Memot - Snuol, Takéo - đông Kam pốt, trọng tâm là căn cứ Ba Thu (Bến Lức, Long An) và vùng Lưỡi Câu (ở Kampong Cham).

Quân giải phóng miền Nam rút ngay khi Mỹ tiến vào nhưng họ lại kháng cự quyết liệt ở thị trấn Snoul. Hơn 90% thị trấn bị xóa sổ sau hai ngày bị oanh tạc bằng bom, na-pan và pháo. Quân đội Mỹ cũng thông báo là đã phát hiện cách đó không xa một khu vực rộng hai dặm vuông của Quân giải phóng miền Nam dưới các tán rừng già gồm các hệ thống boong ke, lán trại, lối mòn, ga-ra xe tải, nhà ăn, chuồng nuôi heo, gà, bãi tập bắn và cả hồ bơi. Quân Mỹ kiểm tra thấy có tới hơn 400 lán trại, nhà kho và boong ke, chứa đầy lương thực, quần áo và thuốc men, 182 hầm vũ khí và đạn dược. Có hầm chứa tới 480 khẩu súng và một hầm khác có 120.000 viên đạn.

Đối với Tổng thống Nixon thì đây là một lễ Giáng sinh vui vẻ. Cuộc xâm nhập là một thành công ngoài sức tưởng tượng. Chỉ trong hai tuần chiến dịch đã thu được 4.793 vũ khí cá nhân, 730 súng cối, hơn 3 triệu viên đạn dành cho vũ khí cá nhân, 7.285 rốc két, 124 xe tải và 2 triệu pound gạo. Tuy nhiên mục tiêu chính của cuộc tấn công là tiêu diệt đầu não quân Giải phóng thì vẫn chưa thực hiện được.

Sau đó người Mỹ tăng cường thêm 31.000 người sang Campuchia nhằm đẩy mạnh truy lùng. Tuy nhiên nó lại gây ra phản ứng dữ dội từ Pháp và Liên Xô vì hành động này mở rộng chiến tranh sang Campuchia. Ở Mỹ, các cuộc biểu tình chống đối Nixon lại có dịp bùng phát.

Quân Giải phóng phản công

Đến tháng 5 năm 1970, trước tình hình mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết "Về tình hình mới ở bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta", nêu lên "sự phát triển mới của cục diện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; âm mưu và chủ trương chiến lược của địch; nhiệm vụ mới, những phương châm chiến lược lớn nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nâng cao sức mạnh đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, tiến lên giành những thắng lợi mới."

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, dưới sự chỉ đạo, chỉ huy của Trung ương Cục và Quân uỷ miền, các đơn vị bộ đội chủ lực, hậu cần, lực lượng bảo vệ căn cứ, kho tàng phối hợp với lực lượng du kích Campuchia tiến công vào một số thị trấn, chi khu quân sự, kiểm soát thêm nhiều vùng nông thôn thuộc tỉnh Kratié (ở phía đông Campuchia), sáu huyện thuộc Takéo, Kam pốt (ở nam và tây nam Campuchia), bao vây nhiều vùng khác, đưa phong trào quần chúng vũ trang ở các tỉnh Svay Rieng, Kandal, Takéo, Kam pốt, Prey Veng... phát triển mạnh.

Ở hướng bắc, Trung đoàn 205 và 207 tiến công Kampong Thom, Kampong Chhnang dọc Biển Hồ từ phía bắc xuống Précđam, từ Xiêm Riệp xuống Kampong Thom. Hướng đông bắc, hai trung đoàn thuộc Sư đoàn 5 chủ lực miền tiến công tỉnh lỵ Kratié (ngày 5-5), Stung Treng (ngày 18-5) và Mondulkiri. Cuối tháng 5, Trung đoàn 5 Sư đoàn 5 tiến về phía tây, tăng cường cho mặt trận Bình Long - Phước Long. Tại đây, từ tháng 4-1970, Sư đoàn 1 chủ lực miền và các đơn vị bộ binh, đặc công của Quân khu 9 đã giải phóng các khu vực Tani (Kam pốt), Túcmia, Kampong Tralach, Kep... cắt đứt đường số 4, đánh chiếm Kampong Speu, Kirirom, Kimini, giải phóng một vùng rộng lớn ở nam - bắc đường 5 với trên 50 vạn dân.

Tại hai tỉnh Svay Rieng và Prey Veng, Sư đoàn 9 chủ lực miền phối hợp với Quân giải phóng Campuchia đánh chiếm nhiều vùng nông thôn từ biên giới đến sông Mê Kông, từ nam đường số 1 đến tây đường số 22, đồng thời liên tục tập kích vào các cụm quân Mỹ trên các trục đường 1, 22, 15, bảo vệ hệ thống kho tàng, bệnh viện, các cơ quan Trung ương cục.

Trên địa bàn tỉnh Kampong Cham, Sư đoàn 7 chủ lực miền cùng các đơn vị thuộc khu vục Căn cứ 20 và lực lượng du kích cơ quan, bệnh viện đã chiến đấu quyết liệt làm thất bại cuộc hành quân lớn của 21 tiểu đoàn quân Mỹ và quân Sài Gòn. Đây là cuộc hành quân nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của Quân giải phóng miền Nam. Sau khi sử dụng một bộ phận lực lượng tập kích, phục kích ghìm chân và tiêu hao quân Mỹ, tạo điều kiện cho việc di chuyển cơ quan, kho tàng, bệnh viện về phía sau, từ ngày 11-5-1970, Quân giải phóng bắt đầu tập trung lực lượng đánh mạnh vào các cụm hoả lực tại Krariêng, Sa Tum, Sóc Chum, bẻ gãy các đợt tiến công của Sư đoàn 25 bộ binh và Trung đoàn 7 thiết giáp của Mỹ.

Tại Thủ đô Phnôm Pênh, đặc công biệt động Quân giải phóng và du kích Campuchia đẩy mạnh các hoạt động quấy rối, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh, làm cho Phnômpênh hầu như bị biệt lập với cảng Côngpông Xom từ tháng 5-1970.

Cuộc rút lui

Trước việc không thể đạt mục tiêu và dưới áp lực phản đối của dư luận Mỹ, Nixon rút quân Mỹ ra khỏi Campuchia 7 tuần sau đó, dù các cuộc oanh tạc vẫn tiếp diễn. Cuộc hành quân mà Mỹ dự định kéo dài đến hết 1970 đã phải bỏ dở giữa chừng mà mục tiêu chính của cuộc hành quân không đạt được: không tiêu diệt được các cơ quan lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam và Bộ Chỉ huy miền, chỉ triệt phá được một phần hệ thống căn cứ, kho tàng, bệnh viện và các tuyến tiếp tế hậu cần của Quân giải phóng miền Nam. Tướng Mỹ để lại 20 tiểu đoàn quân Sài Gòn ở lại để giữ những vùng làm bàn đạp trên đất Campuchia, đồng thời làm nòng cốt cho việc xây dựng và hoạt động của quân Lon Nol.

Việc phát động cuộc tiến công sang Campuchia đã khiến Mỹ phạm một sai lầm lớn về chiến lược. Việc mở rộng chiến tranh sang Campuchia của chính quyền Mỹ càng khiến phong trào phản đối chiến tranh, phản đối chính quyền dâng lên mạnh mẽ ở khắp nước Mỹ. (xem Thảm sát Đại học Tiểu bang Kent)

Đến tháng 6-1970, sau hai tháng ròng rã, theo báo cáo của phía Sài Gòn, đã có 7.450 lính Sài Gòn, và 2.765 lính Mỹ bị hạ. Cùng với du kích Campuchia, lực lượng vũ trang quân Giải phóng đã kiểm soát hoàn toàn năm tỉnh Đông Bắc Campuchia, chiếm 1/3 lãnh thổ nước này với hơn 4 triệu dân.

QGP sử dụng trung đoàn 207 và nhiều đơn vị khác để huấn luyện các tổ vũ trang Việt kiều Campuchia làm nòng cốt xây dựng lực lượng của Campuchia. Khi hoàn tất huấn luyện, quân Campuchia rút khỏi đơn vị QGP. Lực lượng vũ trang chống Mỹ ở Campuchia từ mười đội du kích buổi đầu, đến giữa năm 1970 đã lên tới 9 tiểu đoàn, 80 đại đội tập trung, hàng trăm trung đội du kích. Về phía QGP họ tiếp tục thành lập thêm trung đoàn 201 để bảo vệ căn cứ ở biên giới.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiếp tục chiến đấu ở Campuchia dưới sự hỗ trợ của Không lực Hoa Kỳ. Tuy vậy, thế đứng chân của họ không vững chắc. Quân giải phóng miền Nam được triển khai ở đây liên tục tăng cường sức mạnh. Phía Mỹ đề nghị ngừng bắn, bên nào ở yên chỗ nấy nhưng quân Giải phóng phản đối vì họ rất tự tin ở thế thắng của mình. Đến cuối năm 1970, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bị đánh bật khỏi các đồn bốt, phải rút trở lại bên kia biên giới.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Campuchia** (tài liệu đương thời gọi **Chiến dịch vượt biên Cao Miên** hoặc **Cuộc xâm nhập Campuchia**) là tên chiến dịch tấn công vào miền Đông Campuchia vào năm 1970 của quân đội
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Chiến dịch Eagle Pull** (tạm dịch: _Chiến dịch Đại Bàng Quắp_) là chiến dịch di tản trên không do Mỹ tiến hành ở thủ đô Phnôm Pênh, Campuchia vào ngày 12 tháng 4 năm 1975.
**Chiến dịch Chenla II** (nghĩa là _Chiến dịch Chân Lạp II_) là một chiến dịch quân sự lớn do Quân lực Quốc gia Khmer (về sau gọi là FANK) thực hiện trong cuộc nội chiến
**Chiến dịch Chenla I** (nghĩa là _Chiến dịch Chân Lạp I_) là một chiến dịch quân sự trong Chiến tranh Việt Nam ở Campuchia. Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) đã phát động chiến dịch
**Junction City** (thường phiên âm thành _Gian-xơn Xi-ty_) là một chiến dịch kéo dài 82 ngày của Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhắm vào các căn cứ của lực lượng
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
**Chiến dịch Đường 14 – Phước Long** là trận đụng độ quân sự lớn giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa diễn ra trên địa bàn tỉnh
**Chiến dịch Xuân – Hè 1972**, còn được biết đến với tên gọi **Mùa hè đỏ lửa** (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc **Easter Offensive** ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh";
**Chiến dịch Attleboro** là một chiến dịch của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam nhằm vào chiến khu Dương Minh Châu của Mặt trận Dân
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Chiến dịch Mãn Châu** hay _Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu_ (tiếng Nga: _Манчжурская стратегическая наступательная операция_), hay _Cuộc tấn công của Liên Xô vào Mãn Châu_ hay _Chiến tranh chống lại Nhật
**Chiến dịch Speedy Express** (tiếng Anh: **Operation Speedy Express**) là một chiến dịch quân sự do Quân đội Hoa Kỳ tiến hành trong thời gian Chiến tranh Việt Nam tại địa phận các tỉnh Định
**Chiến dịch Market Time** ( là một hoạt động tổng lực kéo dài từ tháng 3 năm 1965 đến tháng 12 năm 1972, chủ yếu của Hải quân Mỹ nhằm ngăn chặn binh lực và
**Chiến dịch Sa Thầy (1966)** là một chiến dịch của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam bao gồm 34 trận kéo dài từ 19/10 đến 06/12/1966 nhằm chống lại
**Nội chiến Campuchia** là cuộc chiến giữa lực lượng của Đảng Cộng sản Campuchia (được biết đến với tên gọi Khmer Đỏ) và đồng minh của họ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt
**Quan hệ Việt Nam - Campuchia** là mối quan hệ song phương giữa 2 nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Campuchia. Đây cũng đồng thời là mối quan hệ
nhỏ|Đền Angkor Wat tại Campuchia **Đảo chính Campuchia 1970** (Khmer: រដ្ឋប្រហារកម្ពុជាឆ្នាំ១៩៧០) là hành động quân sự của nhóm quan chức thân Mỹ nhằm lật đổ chính phủ của Hoàng thân Norodom Sihanouk, sau một cuộc
thumb|Bản đồ Quân đoàn III bao gồm Chiến khu C. **Chiến khu C** là khu vực ở Việt Nam Cộng hòa tập trung xung quanh thị trấn Katum bị bỏ hoang gần biên giới Campuchia,
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
Vào ngày 7 tháng 5 năm 2024, Bộ Quốc phòng Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức một chương trình kỷ niệm
nhỏ|Các hành khách bước xuống một chuyến bay "giải cứu" được khai thác bởi [[Vietnam Airlines.]] **Vụ chuyến bay "giải cứu" công dân trở về nước** là bê bối nhận hối lộ để xét duyệt
**Lực lượng Dã chiến II, Việt Nam**, còn gọi là **Quân đoàn II Dã chiến, Việt Nam** (tiếng Anh: _II Field Force, Vietnam_ - **II.FFV**) là lực lượng cấp quân đoàn của lực lượng Quân
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
Giai đoạn này của **lịch sử Campuchia** bắt đầu từ ngày 7 tháng 1 năm 1979, khi chính quyền Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ bị lật đổ do Chiến dịch phản công biên giới
**Xung đột biên giới Campuchia-Thái Lan** **năm 2025** là một chuỗi các sự kiện quân sự, ngoại giao và kinh tế leo thang căng thẳng giữa Campuchia và Thái Lan, bắt đầu từ một cuộc
**Campuchia** là một đất nước ở bán đảo Đông Dương, có lịch sử lâu đời và ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ. ## Các vương quốc đầu tiên Người ta biết về nước Phù
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
**Chiến cục Đông Xuân 1953-1954** là tên gọi để chỉ một chuỗi các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương của lực lượng vũ trang Quân đội Nhân dân Việt Nam
**Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba** là một loạt các cuộc xung đột và chiến tranh giữa các lực lượng cộng sản của Việt Nam, Campuchia và Trung Quốc từ năm 1975 tới năm
**Campuchia Dân chủ** (, ; còn gọi là **Kampuchea**, , _Kămpŭchéa_) là tên chính thức của nhà nước Campuchia từ năm 1976 đến năm 1979, dưới sự cai trị của Pol Pot và Đảng Cộng
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Chiến tranh Việt – Xiêm (1841–1845)** là cuộc chiến giữa hai nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển
**Quân Cách mạng Campuchia** (, _Yangtorp Devotta Kampuchea_) là danh xưng chính thức của lực lượng vũ trang thuộc nhà nước Campuchia Dân chủ hay chính thể Khmer Đỏ. ## Lịch sử ### Thành lập
**Quân đội Hoàng gia Campuchia** (; , **RCAF**) là lực lượng quân sự quốc gia của Campuchia, gồm có Lục quân, Hải quân, Không quân và Lực lượng Hiến binh. Về danh nghĩa, Quốc vương
**Vương quốc Campuchia**, dưới thời Norodom Sihanouk từ năm 1953 đến năm 1970, là một giai đoạn đặc biệt quan trọng trong lịch sử đất nước. Sihanouk tiếp tục là một trong những nhân vật
nhỏ|Cảnh sát Quốc gia Campuchia **Cảnh sát Quốc gia Campuchia** hay **Công an Quốc gia Campuchia** (tiếng Anh: _Cambodian National Police_), gọi tắt là **Công an Campuchia**, là lực lượng cảnh sát trực thuộc Bộ
**Biệt đội Hải cẩu Campuchia** hay còn gọi là **Lực lượng đột kích SEAL Campuchia** (tiếng Anh: _Cambodian Navy SEALs_) là lực lượng đặc nhiệm hải quân chính của Hải quân Quốc gia Khmer (tiếng
Bản đồ thế giới năm 1980 với các liên minh Bài **Chiến tranh Lạnh (1962-1979)** nói về một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ sau cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba cuối tháng
**Thủy quân lục chiến Campuchia** (tiếng Pháp: _Corps de Fusiliers-Marins Khmères_ – CFMK) là binh chủng lính thủy đánh bộ của Hải quân Quốc gia Khmer (tiếng Pháp: _Marine National Khmère_ – MNK) trong cuộc
**Chính phủ Hoàng gia Liên minh các Dân tộc Campuchia** (, **GRUNK**; ) là một chính phủ lưu vong của Campuchia, có trụ sở tại Bắc Kinh, tồn tại từ năm 1970 đến năm 1976,
Bùng phát đại dịch COVID-19 bắt đầu tại châu Á, có nguồn gốc từ Vũ Hán, Hồ Bắc, Trung Quốc, và đã lan rộng ra khắp lục địa. Tính đến ngày 12 tháng 5 năm
**Cộng hòa Nhân dân Campuchia** là một chính thể của Campuchia được thành lập tháng 1 năm 1979 trong chương trình cách mạng của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia (tiếng Anh:
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
Đây là danh sách **các cuộc chiến tranh liên quan Việt Nam** bao gồm có sự tham gia của Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trong danh sách này, ngoài những
thumb|Một máy bay của [[Không quân Mỹ đang phun thuốc diệt cỏ ở Việt Nam.]] Chiến tranh Việt Nam đã có tác động lớn và lâu dài đến môi trường của những quốc gia bị
phải|nhỏ|250x250px| Hình ảnh mô tả trận [[thủy chiến Tonlé Sap giữa người Chăm và người Khmer trên phù điêu Bayon]] **Chiến tranh Đế quốc Khmer – Chăm Pa** là một loạt các cuộc xung đột
Vào ngày 18 tháng 8 năm 2024, một nỗ lực biểu tình đã được diễn ra tại Phnôm Pênh, Campuchia nhằm phản đối sáng kiến Tam giác Phát triển giữa ba quốc gia Campuchia, Lào
**Bầu cử quốc hội Campuchia, 1955** là cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên tại Campuchia được tổ chức vào năm 1955. Cuộc bầu cử được tổ chức sau khi hòa bình lập lại tại