✨Chiến tranh Đế quốc Khmer – Chăm Pa

Chiến tranh Đế quốc Khmer – Chăm Pa

phải|nhỏ|250x250px| Hình ảnh mô tả trận [[thủy chiến Tonlé Sap giữa người Chăm và người Khmer trên phù điêu Bayon]] Chiến tranh Đế quốc Khmer – Chăm Pa là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế quốc Khmer và Vương quốc Champa kéo dài từ giữa thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 13. Cuộc đụng độ đầu tiên bắt đầu vào năm 950 khi quân đội Khmer cướp phá tiểu quốc Kauthara của người Chăm. Căng thẳng giữa Đế quốc Khmer và Champa lên đến đỉnh điểm vào giữa thế kỷ thứ 12 khi cả hai đã triển khai quân đội dã chiến và tiến hành các cuộc chiến tranh tàn khốc. Đế quốc Khmer do dưới áp lực ngày càng gia tăng từ Champa đã rút lui khỏi việc chiếm đóng Champa vào năm 1220 và kể từ đây cuộc xung đột giữa đế quốc Khmer và vương quốc Champa mới chính thức kết thúc.

Các cuộc đụng độ trong lịch sử

Đế quốc Khmer xấm chiếm Kauthara (950)

Khoảng năm 950, quân đội Khmer dưới quyền quốc vương là Rajendravarman II đã từ Angkor băng qua rừng, cướp phá đền Po Nagar ở Kauthara (Nha Trang ngày nay) và mang đi bức tượng vàng Bhagavati trong đền. Dù vậy, kết quả của cuộc xâm lược này vẫn là một thất bại đẫm máu dành cho quân Khmer. Năm 965, Vua Chăm là Jaya Indravaman I đã khôi phục lại ngôi đền và xây dựng lại bức tượng nữ thần để thay thế bức tượng bị người Khmer đánh cắp.

Đế quốc Khmer xâm lược Bắc Chiêm Thành (1074-1080)

Năm 1074, Harivarman IV lên ngôi vua Champa. Ông có quan hệ chặt chẽ với nhà Tống của Trung Quốc và đã giảng hòa với Đại Việt, nhưng lại thể hiện sự thù địch với Đế chế Khmer. Năm 1080, quân đội Khmer đã tấn công tiểu quốc Vijaya và các tiểu quốc khác ở miền bắc Champa. Các đền thờ và tu viện đã bị cướp phá và các kho báu đã bị mang đi. Sau nhiều hỗn loạn, quân đội Chăm dưới quyền Vua Harivarman IV đã có thể đánh bại người Khmer và khôi phục lại kinh đô Vijaya và các ngôi đền. Sau đó, lực lượng đột kích của Vua Champa Harivarman IV đã phát động một cuộc phản công xâm nhập vào lãnh thổ đế quốc Khmer tới tận Sambor và sông Mekong và họ đã phá hủy tất cả các thánh địa tôn giáo nơi đó.

Các cuộc chiến tranh của vua Khmer Suryavarman II (1128–1150)

Sau một nỗ lực không thành công nhằm chiếm các cảng biển ở miền Nam Đại Việt, Vua Khmer Suryavarman quay sang xâm lược Champa vào năm 1145 và cướp phá Vijaya, chấm dứt triều đại của vua Chăm Jaya Indravarman III và phá hủy các đền thờ ở Mỹ Sơn. Vào năm 1147, khi một hoàng tử đến từ Panduranga tên là Sivänandana lên ngôi vua Champa với niên hiệu là Jaya Harivarman I, vua Khmer Suryavarman sau đó đã phái một đội quân gồm người Khmer và cả những người Chăm đào tẩu dưới sự chỉ huy của Sankara để tấn công chính quyền của vua Champa Jaya Harivarman I, nhưng kết quả là bị đánh bại trong trận Räjapura năm 1148. Một đội quân Khmer khác cũng phải chịu chung số phận khi thất bại trong các trận đánh ở Virapura (phía nam Phan Rang ngày nay).

Không thể khuất phục được người Chăm, vua Khmer Suryavarman đã bổ nhiệm Hoàng tử Harideva, một hoàng thân Chăm gốc Campuchia, làm vua bù nhìn của Champa tại Vijaya. Năm 1149, Jaya Harivarman I hành quân ra bắc đánh Vijaya, bao vây kinh đô Chà Bàn và đánh bại quân đội của vua bù nhìn là Harideva, sau đó xử tử Harideva cùng với quân đội Campuchia và tất cả các quan chức có liên quan, do đó chấm dứt sự chiếm đóng của vua Khmer Suryavarman ở miền bắc Champa. Sau đó vua Chăm Jaya Harivarman I đã thống nhất lại vương quốc Champa. Một người mạo danh vua tên là Vamsaraja đã tấn công Jaya Harivarman I bằng quân đội ở vùng cao (Tây Nguyên Việt Nam ngày nay) nhưng đã bại trận và phải chạy trốn sang Đại Việt. Sau đó, Vamsaraja tiếp tục bị Jaya Harivarman I đánh bại và bị giết chết trong trận chiến ở thành địa Mỹ Sơn năm 1150.

Người Chăm tiến đánh Angkor (1170, 1177–1181)

Sau khi giảng hòa với Đại Việt vào năm 1170, lực lượng Chăm dưới quyền vua Champa Jaya Indravarman IV đã xâm lược Đế chế Khmer trên bộ nhưng không rõ kết quả. Tiếp tục vào năm 1177, quân đội của vua Chăm Jaya Indravarman IV đã phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào kinh đô Yasodharapura (tức Angkor) của người Khmer thông qua các tàu chiến đã được bố trí dọc theo sông Mekong đến hồ lớn Tonlé Sap và giết chết vua Khmer Tribhuvanadityavarman. Nỏ và cung được du nhập vào Chăm Pa từ thời nhà Tống vào năm 1171, và được người Chăm sử dụng cùng với voi chiến. Những vũ khí này được người Chăm triển khai trong cuộc bao vây kinh thành Angkor và kết quả là người Chăm chiếm đóng Campuchia trong vòng bốn năm.

Đế chế Khmer đang trên bờ vực sụp đổ, vua Khmer là Jayavarman VII từ phía bắc đã tập hợp một đội quân để chiến đấu với quân xâm lược Champa. Quân đội của ông đã giành được một loạt chiến thắng chưa từng có trước người Chăm, và đến năm 1181 sau khi giành chiến thắng trong một trận hải chiến quyết định, Jayavarman đã giải cứu được đế quốc Khmer và tiến hành trục xuất người Chăm ra khỏi lãnh thổ.

Cuộc chinh phục Champa của vua Khmer Jayavarman VII (1190–1203)

Năm 1190, vua Khmer Jayavarman VII bổ nhiệm một hoàng tử Chăm tên là Vidyanandana, người đã đào tẩu sang phe Jayavarman vào năm 1182 và từng được đào tạo tại Angkor để lãnh đạo quân đội Khmer. Trong chiến dịch này, Vidyanandana đã đánh bại quân đội Chăm, tiến hành đánh chiếm Vijaya và bắt giữ vua Champa Jaya Indravarman IV, người mà sau đó bị ông ta gửi trở lại Angkor làm tù nhân. Lấy danh hiệu Shri Suryavarmadeva (hay Suryavarman), Vidyanandana tự xưng là vua của xứ Panduranga, nơi hiện đang là chư hầu của người Khmer. Ông phong Hoàng tử In, anh rể của vua Khmer Jayavarman VII, làm "Vua Suryajayavarmadeva ở xứ Vijaya" (hay Suryajayavarman). Năm 1191, một cuộc nổi dậy ở Vijaya đã khiến Suryajayavarman phải trở lại Campuchia. Sau đó, Vidyanandana, được hỗ trợ bởi vua Khmer Jayavarman VII, đã tái chiếm Vijaya, giết chết cả vua Champa Jaya Indravarman IV và Jaya Indravarman V, và trị vì mà không có bất kì sự phản kháng nào đến từ người dân vương quốc Champa. Tuy vậy, trong khoảng thời gian cai trị Champa của Vidyanandana, việc ông tuyên bố bản thân mình đã không còn chịu sự chi phối của quốc vương Khmer Jayavarman VII, cùng với đó là những hành động chống lại những nỗ lực của đế quốc Khmer nhằm lật đổ ông, đã khiến vua Khmer Jayavarman VII liên tục phát động nhiều cuộc xâm lược Champa nhằm đáp trả vào các năm 1192, 1195, 1198–1199, 1201–1203 và cuối cùng vua Chăm Vidyanandana đã bị đánh bại và bị trục xuất khỏi Champa, sau đó ông tìm nơi ẩn náu tại Cửa Lò, nhưng đã rời đi bằng đường biển và biến mất mà không để lại một dấu vết nào.

Sau khi cuộc chinh phục Champa của quân đội Khmer thành công vào năm 1203,họ đã biến Champa trở thành một chư hầu của đế quốc Khmer. Từ năm 1203 đến 1220, Champa bị cai trị bởi một chính quyền bù nhìn do ong Dhanapatigräma đứng đầu và sau này là hoàng tử Angsaräja, cháu trai của vua Chăm Jaya Harivarman I. Sau khi quân đội Khmer suy yếu và do áp lực đến từ người Chăm, người Khmer đã rút quân khỏi Champa vào năm 1220, Angsaräja đã nắm quyền điều hành chính phủ Champa một cách hòa bình, tự xưng là Jaya Paramesvaravarman II và khôi phục nền độc lập của Champa.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ|250x250px| Hình ảnh mô tả trận [[thủy chiến Tonlé Sap giữa người Chăm và người Khmer trên phù điêu Bayon]] **Chiến tranh Đế quốc Khmer – Chăm Pa** là một loạt các cuộc xung đột
**Đế quốc Khmer** hay **Đế quốc Angkor** (tiếng Khmer cổ: ; chuyển tự Latinh: **Kambuja**) là một cựu đế quốc rộng lớn nhất Đông Nam Á với diện tích lên đến 1 triệu km², từ
**Chiến tranh Đại Việt – Đế quốc Khmer** hay **Chiến tranh Đại Việt – Chân Lạp** là một loạt các xung đột và tranh chấp quân sự xảy ra trong khoảng thời gian từ năm
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Champa** (tiếng Phạn: चम्पा, Tiếng Trung: 占婆 _Chiêm Bà_, tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) hay **Chiêm Thành** (占城) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192
Đây là danh sách **các cuộc chiến tranh liên quan Việt Nam** bao gồm có sự tham gia của Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trong danh sách này, ngoài những
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1367–1396)** là một cuộc chiến giữa nước Đại Việt thời hậu kỳ nhà Trần và nước Chiêm Thành do Chế Bồng Nga (Po Binasour) (1360–1390) lãnh đạo. Vào những năm
**Chiến tranh Việt – Chiêm 1471** là cuộc chiến do vua Lê Thánh Tông của Đại Việt phát động vào năm 1471 nhằm chống lại vương quốc Chiêm Thành ở phương Nam. Quân đội Đại
**Chăm Pa** độc lập được từ năm 192, phát triển cho đến thế kỷ thứ 10 thì bắt đầu suy yếu, đến năm 1832 thì hoàn toàn mất nước. ## Thất thủ và bỏ kinh
Chiến tranh đổ bộ là một khái niệm trong lĩnh vực quân sự, chỉ loại hoạt động quân sự sử dụng các tàu thuyền đi biển để tấn công và đổ quân. Hoạt động này
**Thủy chiến Tonlé Sap** hay **Chiến tranh Khmer – Panduranga** (, ) là một biến cố ngắn diễn ra trong năm 1177, được ký ức hóa ở di tích Angkor Wat và nhiều văn bia
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
**Vương quốc Ayutthaya** (tiếng Thái: อยุธยา; phiên âm tiếng Việt: _A-dút-tha-da_; Hán-Việt: **A Du Đà Da** 阿瑜陀耶 hay **Đại Thành** 大城) là một vương quốc của người Thái tồn tại từ năm 1351 đến 1767.
thumb|Đại Nam dưới thời [[Minh Mạng, bao gồm cả các trấn ở Lào. Vùng thuộc phần đất Campuchia ngày nay là lãnh thổ Trấn Tây Thành mà Nhà Nguyễn chiếm được trong 6 năm (1835
**Lâm Ấp** (Chữ Hán: 林邑; Bính âm: _Lin Yi_) là một vương quốc cổ tồn tại từ khoảng năm 192 đến năm 605, với lãnh thổ ban đầu bao gồm vùng đất từ Quảng Bình
**Chiêm Thành** () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: _Campanagara_) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu
Tiến trình _Nam tiến_ của dân tộc Việt.|thế= **Nam tiến** (Chữ Nho: 南進) là quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương nam trong lịch sử Việt Nam. _Nam tiến_ là một
**Người Êđê** (tiếng Êđê: **Anak Rađê** hay được dùng phổ biến theo cộng đồng là **Anak Đê** hay **Đê-Ga**) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là miền trung Việt Nam và
Dòng sông Mê kông Sông **Mê Kông** là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng nơi sông bắt nguồn thuộc tỉnh Thanh Hải, chảy qua
[[Tháp Po Nagar (Yanpunagara) - trung tâm tôn giáo của Kauthara]] **Kauthara** (chữ Phạn: कौठर / _Kauṭharā_; chữ Hán: 華英 / **Hoa-anh**, 慶和 / **Khánh-hòa**, 古笪羅 / **Cổ-đát-la**) là một địa khu Champa phân bố
**Champa** có nền văn minh Ấn hóa ở khu vực duyên hải miền Trung Việt Nam ngày nay trong thời gian từ năm 192 đến 1832 sau Công nguyên. Người Chăm có lẽ là những
**Việt Nam hóa** hay **Việt hóa** là một quá trình mang tính chất đồng hóa, bao gồm tự nguyện và cưỡng ép, vào nền văn hóa Việt Nam, ngôn ngữ Việt Nam, và trang phục
**Thành Đồ Bàn** hay **Vijaya** (tiếng Phạn विजया, nghĩa Việt: Thắng lợi), còn gọi là **thành cổ Chà Bàn (Trà Bàn)** là kinh đô của người Degar thuộc Chăm Pa, nay thuộc địa phận xã
**Ksor Ní** (1925–2019), tên thường gọi là **Ama H'Nhan**, là nhà cách mạng Việt Nam, từng đảm nhiệm chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai
**Con Đường Tơ Lụa** (, ) là một hệ thống các con đường buôn bán nổi tiếng đã từ hàng nghìn năm nối châu Á với châu Âu (cách hay nói là giữa phương Đông
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
Bằng chứng về sự hiện diện của con người ở các vùng cao nguyên phía bắc và trung tâm bán đảo Đông Dương đã tạo nên lãnh thổ của dân tộc Lào hiện đại từ
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
## Dân tộc lớn nhất ở Campuchia là người Khmer chiếm khoảng 90% tổng dân số, họ chủ yếu sinh sống ở tiểu vùng đất thấp sông Mekong và đồng bằng trung tâm. Trong lịch
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
Thành phố mà ngày nay được gọi là Thành phố Hồ Chí Minh () đã được gọi bằng một số tên khác nhau xuyên suốt lịch sử của nó, phản ánh sự định cư của
**Panduranga** (tiếng Chăm cổ: _Paṅrauṅ_ / _Panrāṅ_; tiếng Phạn: पाण्डुरङ्ग / _Pāṇḍuraṅga_; chữ Hán: 潘朧 / **Phan-lung**, 潘郎 / **Phan-lang**) là một tiểu quốc của Champa tồn tại trong giai đoạn 757 - 1832. Lãnh
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
**Phân biệt dân tộc ở Việt Nam** là thái độ phân biệt của người Kinh chiếm đa số đối với các dân tộc thiểu số như người Thượng, người Chăm, người Khmer Krom và người
**Người Lào** (tiếng Lào: ລາວ, tiếng Isan: ลาว, IPA: láːw) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là một phần bắc bán đảo Đông Dương. Họ là một phân nhóm của các
**Lịch sử Myanmar** (còn được gọi là Miến Điện;) bao gồm giai đoạn từ khi có những cư dân đầu tiên được biết đến cách đây 13.000 năm cho đến ngày nay. Những cư dân
**Biên giới Việt Nam-Campuchia** là biên giới phân định chủ quyền quốc gia, trên đất liền và trên biển, giữa hai quốc gia láng giềng trên bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam
thumb|Khẩu hiệu được giăng tại Hà Nội hậu [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Đệ nhị Thế Chiến. "Việt dân chủ Việt quốc" (_Nước Việt-Nam của người Việt-Nam)_]]**Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam**, là một hình
**Hoàn Vương** (tiếng Hán: 環王國; Phạn ngữ: पाण्डुरङ्ग / _Pāṇḍuraṅga_; tiếng Chăm cổ: _Panduranga_ / _Paṅrauṅ_) là tên ghi trong lịch sử Trung Hoa gọi vương quốc của người Chăm trong thời kỳ từ 757
thumb|right|Các vùng của Việt Nam, không bao gồm [[Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của miền Trung Việt Nam.|411x411px]]thumb|Bản đồ [[Nam Tiến của người Việt để xâm chiếm nước Chăm-pa và Khmer (Campuchia)|343x343px]] **Miền
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
**Người Mã Lai** hay **Người Malay** (; chữ Jawi: ملايو) là một dân tộc Nam Đảo nói Tiếng Mã Lai chủ yếu sinh sống trên bán đảo Mã Lai cùng các khu vực ven biển
|- | colspan="2" style="padding-bottom: 4px; font-size: 90%; text-align: center;" | Tập tin:EFEO Paris 1.jpg
Trụ sở chính của EFEO tại Paris |- | style="background: #C5D2AA;"|   | style="background: #DEE5D1;"|   |- |valign="top" style="text-align: left;"|****||École française
Trong lịch sử từ lâu đời, Thái Lan và Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ song phương cùng phát triển. Thái Lan có đại sứ quán tại thủ đô Hà Nội, tương tự,
Biểu trưng và khẩu hiệu của ngành Du lịch Việt Nam giai đoạn 2012-2015 do Tổng cục Du lịch Việt Nam đưa ra. [[Vịnh Hạ Long]] nhỏ|Du khách thăm [[Đền Ngọc Sơn và cầu Thê
**Tháp Đôi** hay còn có tên là **Tháp Hưng Thạnh** còn trong tiếng J'rai gọi là SRI BANOI là khu tháp của Chăm Pa gồm có hai tháp là tháp phía bắc và tháp phía
**Phra Bat Somdet Phra Phutthayotfa Chulalok Maharat** (, 20 tháng 3 năm 1736 – 7 tháng 9 năm 1809), tên khai sinh là **Thongduang** (), còn được gọi là **Rama I**, thụy hiệu đầy đủ
**Khánh Hòa** là một tỉnh ven biển thuộc duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Khánh Hòa có diện tích: 8.556 km², xếp thứ 17;
nhỏ|Tượng minh hoạ [[Đức Phật Chuyển Pháp Luân tại Bảo tàng khảo cổ học Sarnath của Ấn Độ vào thế kỷ 3-5]] **Phật giáo** (tiếng Hán: 佛教 - tiếng Phạn: बुद्ध धर्म - IAST: _Buddha