✨Chiến tranh Việt – Chiêm (1471)

Chiến tranh Việt – Chiêm (1471)

Chiến tranh Việt – Chiêm 1471 là cuộc chiến do vua Lê Thánh Tông của Đại Việt phát động vào năm 1471 nhằm chống lại vương quốc Chiêm Thành ở phương Nam. Quân đội Đại Việt thắng lớn, và Chiêm Thành suy yếu đến mức hầu như không còn được nhắc đến trong sử sách.

Bối cảnh

Từ thời Lê Thái Tông, nhà Hậu Lê đã rất quan tâm tới vùng Hóa châu - biên cương phía nam. Sang thời Lê Nhân Tông, do có sự xâm lấn của Chiêm Thành, triều đình nhiều lần phát binh đánh nước này vào các năm 1444, 1445, 1446. Cuộc tiến công năm 1446 giành thắng lợi lớn, đánh vào kinh thành Chà Bàn (Vijaya), bắt chúa Chiêm Thành là Bí Cai (Maha Vijaya). Tướng Chiêm là Ma Ha Quý Lai đầu hàng trước, được lập làm quốc vương Chiêm mới (gọi là Maha Kali).

Vào năm 1449, Ma Ha Quý Do bỏ tù Quý Lai và cướp lấy ngôi vua (gọi là Maha Kaya). Quý Do truyền lệnh cho Giáo Nhĩ Mỗ, Bàn Thoa sang triều cống cho triều đình Đại Việt. Hoàng đế Nhân Tông khi đọc tờ biểu thì phán: "Tội giết vua, em giết anh là tội đại ác xưa nay, Trẫm không nhận đồ dâng", do đó không nhận lễ vật. Vào năm 1452, Ma Ha Quý Do được Minh Cảnh đế phong làm chúa Chiêm Thành. Sau đó Quý Do bị Trà Duyệt (Maha Saya), người hầu Thi Nại giết chết và cướp ngôi. Trà Duyệt chết, truyền ngôi cho em là Trà Toàn (Maha Sayan). Trà Toàn được sử sách Việt Nam mô tả là "hung hãn, hoang dâm, bạo ngược".

Trà Toàn bỏ tiến cống nhà Lê, thường xâm lấn biên giới phía nam Đại Việt. Vào tháng 8 âm lịch năm 1470, Trà Toàn sai sứ thần sang cầu viện với nhà Minh, thân hành đem hơn mười vạn quân thủy, quân bộ cùng voi ngựa đến đánh úp Hóa Châu. Viên tướng giữ Hóa Châu là Phạm Văn Hiển đánh nhau với quân Chiêm, không địch nổi, phải đóng cửa thành chống giữ, cho người phi ngựa đem văn thư cáo cấp về kinh đô. Việc này được Đại Việt sử ký toàn thư chép: Tháng 8, quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn thân hành đem hơn 10 vạn quân thủy bộ cùng voi ngựa đánh úp châu Hóa. Tướng trấn giữ biên thuỳ ở châu Hoá là bọn Phạm Văn Hiển đánh không nổi, phải dồn cả dân vào thành, rồi cho chạy thư cáo cấp.

Lê Thánh Tông ra quân

Chuẩn bị

Trước khi đem đại quân đi đánh Chiêm Thành vua Lê Thánh Tông đã chuẩn bị rất kỹ về đối nội, đối ngoại, về lực lượng, về tinh thần quân dân Đại Việt.

Vào tháng 10 âm lịch (1470) ông sai Nguyễn Đình Mỹ và Quách Đình Bảo sang nhà Minh kể tội Chiêm Thành đánh úp biên giới, mò trộm trân châu và việc địa phương bị lấn cướp. Sau đó ông trưng thu lương thực ở phủ Thiên Trường, sắc dụ Thừa tuyên sứ phủ Thiên Trường rằng: Dẹp loạn thì trước hết phải dùng võ, quân mạnh vốn là ở đủ lương ăn. Lệnh tới nơi, bọn ngươi phải trưng thu ở các hạng quân sắc, lại viên, sinh đồ mỗi người 15 ống gạo, hạng hoàng đình và người già mỗi người 12 ống, bắt người bị trưng thu lại phải đồ lên thành gạo chín, không được để chậm ngày giờ, đem nộp lên sứ ty. Quan hạt đó đựng làm nhà kho, kiểm nghiệm thu vào rồi làm bản tâu lên. Kẻ nào trốn chạy thì xử tội chém đầu.

Tháng 11, hiệu định 52 điều lệnh về việc hành binh.

Trước khi xuất quân, để tăng thêm tinh thần cho binh lính, ông cho soạn tờ chiếu kể tội Trà Toàn và những việc làm sai trái của quân Chiêm đọc trước 26 vạn quân.

Hành quân

Ngày mồng 6 tháng 11 âm lịch năm Canh Dần (tức ngày 28 tháng 11 năm 1470) Vua Lê Thánh Tông hạ chiếu ban 24 điều quân lệnh cho các doanh các vệ, ra lệnh cho Thái sư Đinh Liệt và Thái bảo Lê Niệm làm Chinh Lỗ tướng quân, thống lĩnh quân thủy trong các vệ thuộc ba phủ Đông, Nam và Bắc 10 vạn quân xuất phát đi trước.

Ngày 16 vua Lê Thánh Tông thân hành đốc xuất 15 vạn thủy quân, hôm ấy trời mưa nhỏ, gió bấc. Tạ Khắc Hải có câu thơ rằng: :Bách vạn sư đồ viễn khai hành, :Xao bồng vũ tác nhuận quân thanh. :(Trăm vạn quân đi đánh cõi xa, :Mui thuyền mưa dội thấm quân ta.) Dọc đường, hễ qua đền thờ thần nào đều sai quan tới dâng lễ tế, để cầu cho quân đánh thắng trận. Bảo Nguyễn Như Đổ vào tế đền Đinh Tiên Hoàng.

Đầu tháng 12 âm lịch đại quân của Lê Thánh Tông đến núi Thiết Sơn Nghệ An.

Đến giữa tháng 12 âm lịch quân Đại Việt vào đến đất Chiêm Thành. Sau đó Lê Thánh Tông cho quân luyện tập thủy chiến, ông còn cho người vẽ lại bản đồ nước Chiêm.

Ngày mồng sáu tết âm lịch quân Đại Việt bắt sống được viên quan lại giữ cửa quan của Chiêm Thành tên là Bồng Nga Sa.

Lê Thánh Tông còn tự mình soạn ra cuốn Bình Chiêm sách sau đó cho dịch ra chữ Nôm rồi ban phát cho các doanh. Trong Bình Chiêm sách, nói có 10 lẽ tất thắng, có 3 việc đáng lo.

Diễn biến

Ngày mồng 5 tháng 2 âm lịch (1471) Trà Toàn sai em đem 6 viên tướng và 50.000 lính lẻn đến sát doanh trại quân Đại Việt.

Ngày mồng 6 tháng 2 âm lịch Lê Thánh Tông bí mật sai Tả du kích tướng quân Lê Hi Cát, Hoàng Nhân Thiêm và Tiền phong tướng quân Lê Thế, Trịnh Văn Sái đem hơn 500 chiếc thuyền và 30.000 lính vượt biển, lẻn vào cửa biển Sa Kỳ lập dinh lũy, đặt đồn ải, để chặn đường về của quân Chiêm. Nhà vua còn bí mật sai viên tướng giữ quân bộ là Nguyễn Đức Trung đem quân lẻn đi vào chân núi mai phục.

Vua Lê Thánh Tông thân hành đem hơn 1000 chiếc thuyền và hàng trăm ngàn quân ra hai cửa biển Tân Áp và Cựu Tọa dựng cờ thiên tử vừa đánh trống vừa hò reo tiến thẳng về đằng trước mặt.

Quân Chiêm thấy thế quân Đại Việt lớn, lại trông thấy ngự doanh thì tan vỡ, giày xéo lẫn nhau bỏ chạy về thành Chà Bàn. Khi đến núi Mạc Nô, quân Chiêm gặp toán quân của Hy Cát đã đón sẵn ở đó. Quân Chiêm cuống cuồng sợ hãi, chạy rẽ ngang trèo qua chân núi cao, xác người, ngựa và đồ quân bỏ lại đầy núi đầy đường. Lê Niệm và Ngô Hồng tung quân ra đánh, chém được một đại tướng và thu được rất nhiều chiến lợi phẩm.

Vua Lê Thánh Tông đến cửa biển Thái Cân, tung quân ra đánh mạnh, chém được hơn 300 thủ cấp và bắt sống được hơn 60 người.

Trà Toàn sợ hãi, bèn dâng biểu xin hàng. Ngày 27 vua Lê Thánh Tông đem đại quân đánh phá thành Thi Nại, chém được hơn 100 thủ cấp. Ngày 28, 29 vua tới vây thành Chà Bàn, bao vây nhiều vòng. Ông sai các doanh chế tạo phi thê chuẩn bị đánh thành. Trà Toàn trong tình thế cùng quẫn, hằng ngày đệ nộp tờ cam kết đầu hàng. Vua Thánh Tông triệu Lê Viết Trung đến nói:

Rồi ông bí mật hẹn cho các doanh phải tức tốc trèo thành mà vào; lại dụ bảo các tướng sĩ:

Một lúc sau, đứng xa trông thấy toán quân đi trước đã trèo lên được chỗ tường thấp trên mặt thành, bèn bắn luôn ba tiếng pháo để tiếp ứng, lại hạ lệnh cho vệ quân thần võ phá cửa đông thành tới vào. Thành Chà Bàn bị phá vỡ. Quân Đại Việt bắt được hơn ba mươi ngàn tù binh và chém được hơn bốn mươi ngàn thủ cấp. Ngô Nhạn dẫn tướng đầu hàng là bác ruột Trà Toàn tên là Bô Sản Ha Ma. Lê Thánh Tông sai trưng bày những thứ người Chiêm dùng làm lễ vật đem đến xin hàng mà ở Đại Việt không có, sai viên quan Đô úy Đỗ Hoàn chỉ tên từng thứ một. Có cái hộp bạc, hình như thanh kiếm, vua hỏi vật gì. Hoàn trả lời rằng đó là đồ của nước Chiêm từ xưa, người làm quốc vương phải có vật đó để truyền cho con cháu. Quân Thuận Hóa bắt sống Trà Toàn dẫn đến trước vua Lê Thánh Tông, nhà vua cho Trà Toàn được sống. Hôm ấy là ngày mồng 1 tháng 3 âm lịch (1471).

Ngày mồng 2 tháng 3 âm lịch (1471) vua Lê Thánh Tông hạ lệnh kéo quân về. Quân Đại Việt đã toàn thắng, Trà Toàn đã bị bắt. Nhưng một tướng của Trà Toàn tên là Bố Trì Trì chạy đến Phiên Lung, chiếm cứ vùng đất ấy, xưng là chúa Chiêm Thành (gọi là Jayavarman Mafoungnan); người này chiếm được một phần năm đất của nước Chiêm, sai sứ sang xưng thần, nộp cống, được Lê Thánh Tông phong làm vương. Ông lại phong vương cho cả Hoa Anh và Nam Bàn gồm 3 nước để dễ ràng buộc.

Hậu quả

Cuộc tấn công của Đại Việt đã gây ra cái chết cho 60.000 quân và dân Chiêm Thành và khoảng 30.000 người bị bắt làm nô lệ. Kinh đô Vijaya (Chà Bàn) của Chiêm Thành bị phá hủy. Do mất nước, rất nhiều người Chiêm đã phải di cư sang Khmer và bán đảo Malacca. Miền bắc của Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân - Đà Nẵng đến đèo Cù Mông - Phú Yên) được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Nhiều người Chăm bị ép làm nô lệ và bị buộc phải đồng hóa vào xã hội Đại Việt.

Sau khi Trà Toàn đã bị bắt, tướng nước Chiêm là Bố Trì Trì chạy đến Phan Lung, chiếm giữ đất Chiêm, xưng là chúa Chiêm Thành (gọi là Jayavarman Mafoungnan). Trì Trì chiếm giữ được một phần năm đất đai trong nước, sai sứ sang xưng thần và xin vào cống nạp. Lê Thánh Tông phong cho Trì Trì làm vương, lại phong hai tước vương nữa ở Hoa Anh (còn gọi là Kauthara) và Nam Bàn (còn gọi là Tiểu quốc J'rai), gồm ba nước, để làm kế ràng buộc họ. Vùng đất từ đèo Cù Mông đến núi Đá Bia (thuộc tỉnh Phú Yên ngày nay) là nước Hoa Anh. Nam Bàn ở vùng núi phía tây nước Hoa Anh. Nước Chiêm Thành từ đây chính thức bị chia làm ba.

Phần đất Đại Chiêm và Cổ Lũy, vua Thánh Tông dùng người đầu hàng là Ba Thái làm Đồng tri phủ ở Đại Chiêm và dùng Đa Thủy làm Thiêm tri châu. Sau đó ông lệnh cho Đỗ Tử Quy làm Đồng tri châu giữ việc quân và dân ở Đại Chiêm; Lê Ỷ Đà làm Tri châu Cổ Lũy, giữ việc quân và dân ở Cổ Lũy, để đề phòng người Chiêm Thành làm phản.

Phản ứng của các nước láng giềng

Nhà Minh Trung Quốc đã cử một phái đoàn đi tìm hiểu nguồn cội của sự việc vong quốc này của người Chăm, và những người Chăm tị nạn thuật rằng họ vẫn còn tiếp tục chiến đấu chống người Việt, sau khi đất nước của họ bị sáp nhập vào Đại Việt.

Trần Tuấn (陳峻), trưởng đoàn Trung Quốc năm 1474, sau khi tìm hiểu tại sao lại xảy ra sự vụ này, đã tìm cách tái đưa vua Chiêm Thành lên ngôi vương, song lại bị cản trở bởi người Việt và ông phải xuống Vương quốc Malacca để lập vua thay thế. Thế nhưng, phái đoàn Mã Lai năm 1481 kêu rằng người Việt đã tấn công bọn họ, song không dám phản kháng do không có ủng hộ của nhà Minh. Minh Hiến Tông đã đề nghị người Mã Lai nên trang bị và tìm cách đánh trả nếu bị người Việt tấn công, đồng thời cũng gửi sứ sang Đại Việt yêu cầu Đại Việt chấm dứt hoạt động tấn công cướp bóc người Mã Lai và người Chăm hoặc phải đối mặt với nguy cơ chiến tranh.

Các quốc gia khác như Lan Xang, Ayutthaya, Campuchia, Lan Na và Ava đã bị báo động về việc này, và vô cùng sợ hãi trước nguy cơ chiến tranh với Đại Việt. Sau đó, Đại Việt dưới thời Lê Thánh Tông đã tấn công Lan Xang nhằm chấm dứt sự quấy nhiễu của quân Lan Xang tại biên giới phía tây của Đại Việt, và bình định đất Bồn Man, trước đó đã xin nội thuộc vào Đại Việt từ năm 1448 dưới thời vua Lê Nhân Tông và được nhập vào châu Quy Hợp thuộc xứ Nghệ An.

Minh thực lục ghi lại như sau:

Ngày 25 tháng 8 âm lịch năm Thành Hóa thứ 11 (成化十一年), tức ngày 13 tháng 9 năm 1476 dương lịch, vua nước An Nam (安南) là Lê Hạo (黎灝) dâng biểu tâu rằng: Trước kia, vua nước Chiêm Thành (占城) là Bàn La Trà Toàn (槃羅茶全) do xâm phạm đạo Hóa Châu nên bị em là Bàn La Trà Duyệt (槃羅茶悅) giết. Sau đó, Trà Duyệt tự lập làm vua, chuẩn bị xin phong, thì con Trà Duyệt là Trà Chất Đài (茶質苔) đến, lại giết Trà Duyệt. Từ đó, nước ấy loạn lạc liên miên, không có ngày yên ổn, chẳng phải lỗi của nước thần. Nay thần kính tuân thánh dụ, ngưng binh hòa hiếu, số nam nữ bắt được hơn 740 người đều đã cho về nước.

Việc được giao cho Bộ Binh xử lý. Bộ Binh tâu rằng lời vua Lê Hạo không nhắc đến việc xâm chiếm Chiêm Thành, khác với lời của Hữu cấp sự trung Trần Tuấn (陳峻) và các sứ thần, thật giả khó phân. Vua nhân việc các sứ thần như Lê Hoằng Dục (黎弘毓) trở về, ban chiếu dụ Lê Hạo rằng: Trước kia, Bàn La Trà Duyệt tâu vua Bàn La Trà Toàn bị nước ngươi bắt, Chiêm Thành không còn chủ, xin phong vương. Trẫm theo đức trời đất yêu sinh, thuận lời xin, sai sứ đi phong. Sau đó, sứ về tâu rằng đất Chiêm Thành quả bị nước ngươi chiếm, đổi thành châu huyện. Trẫm còn nghi mà chưa tin. Nay nhận được biểu vua, nói rõ Chiêm Thành gây chiến, tạo oán, xâm phạm biên giới, dẫn đến mất nước, đều là tự chuốc lấy. Việc tuy chưa rõ, nhưng lý có thể có. Huống chi lời vua chân thành, chắc không phải ngụy biện. Chiêm Thành là một nước, truyền nối đã lâu, trước đây chẳng phải không có kẻ mạnh muốn thôn tính, nhưng sử sách chưa từng ghi được hay mất, đủ thấy nay nếu một sớm diệt tuyệt, chẳng những trái ý chỉ triều đình, mà còn khiến các nước ngoài sinh nghi, cùng nhau khởi tranh, thì có lợi gì cho nước ngươi? Chiếu dụ đến, vua nên xét lại, trả lại tông tộc, dân chúng, phục hồi đất đai, để không đến nỗi tuyệt tự. Như vậy, vua sẽ trọn được nghĩa hưng vong nối dõi, lòng kính trời phụng đại triều, cả hai đều vẹn. Vua nên cố gắng thực hiện.

Sách Thù vực chu tư lục ghi tương tự Minh thực lục nhưng có bổ sung thêm nhiều chi tiết, nhất là lời tranh biện của vua Lê Hạo.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Việt – Chiêm 1471** là cuộc chiến do vua Lê Thánh Tông của Đại Việt phát động vào năm 1471 nhằm chống lại vương quốc Chiêm Thành ở phương Nam. Quân đội Đại
**Chiến tranh Việt – Chiêm** là một loạt những cuộc chiến tranh giữa Đại Việt, chính quyền Đàng Trong của người Việt ở phía Bắc và vương quốc Chiêm Thành (Chăm Pa) của người Chăm
**Chiến tranh Đại Việt – Lan Xang** là cuộc chiến giữa nhà Hậu Lê nước Đại Việt với Lan Xang (Lào). Mục đích phát động của Đại Việt là bình định vương quốc Bồn Man
Chiến tranh đổ bộ là một khái niệm trong lĩnh vực quân sự, chỉ loại hoạt động quân sự sử dụng các tàu thuyền đi biển để tấn công và đổ quân. Hoạt động này
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
Những cư dân bản địa của khu vực Tây Nguyên Việt Nam là người Thượng (Đêga). Người Việt (Kinh) đã chinh phục Tây Nguyên trong quá trình Nam tiến. Hiện nay, dân số người Việt
**Ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ** phản ánh quan hệ ngoại giao của chính quyền nhà Lê sơ với các nước lân bang trong giai đoạn từ năm 1428 đến năm 1527 trong lịch
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Niên biểu lịch sử Việt Nam** là hệ thống các sự kiện lịch sử Việt Nam nổi bật theo thời gian từ các thời tiền sử, huyền sử, cổ đại, trung đại, cận đại cho
**Di cư của người Việt Nam** là nói đến di cư của người Việt Nam trong nước và ra nước ngoài trong lịch sử tới nay. Người Việt Nam do tác động của chiến tranh,
**Năm 1471** là một năm trong lịch Julius. ## Sự kiện * Chiến tranh Việt–Chiêm, Đại Việt chiến thắng, Chiêm Thành bị chia làm 3 nước và 1 phần sáp nhập vào lãnh thổ Đại
thumb|Đại Nam dưới thời [[Minh Mạng, bao gồm cả các trấn ở Lào. Vùng thuộc phần đất Campuchia ngày nay là lãnh thổ Trấn Tây Thành mà Nhà Nguyễn chiếm được trong 6 năm (1835
**Văn học đời Lê sơ** là một giai đoạn văn học Việt Nam dưới thời kỳ đầu nhà Hậu Lê nước Đại Việt từ năm 1428 đến năm 1527. ## Khái quát Các thể loại
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Chiêm Thành** () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: _Campanagara_) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu
**Quan hệ Việt-Chăm** xem như bắt đầu từ năm 968, khi Đinh Tiên Hoàng lập ra nước Đại Cồ Việt, với tư cách là quốc gia độc lập đến năm 1832, khi vua Minh Mạng
**Henry VII** (tiếng Wales: _Harri Tudur_; tiếng Anh: _Henry VII of England_; 28 tháng 1, 1457 - 21 tháng 4, 1509) là Quốc vương của nước Anh và là Lãnh chúa của Ireland, lên ngôi
Vị trí vùng Tây Nguyên trên bản đồ Việt Nam [[Lâm Đồng]] [[Đắk Lắk]] **Tây Nguyên** hay **vùng cao nguyên Nam Trung Bộ** là khu vực địa lý với địa hình cao nguyên thuộc miền
**Trần Duệ Tông** (chữ Hán: 陳睿宗, 30 tháng 6 năm 1337 – 4 tháng 3 năm 1377) tên thật là **Trần Kính** là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch
phải|nhỏ|Cửa biển Sa Huỳnh nhìn từ Quốc lộ 1 vào năm 2016 **Sa Huỳnh** là một cửa biển ở phía nam tỉnh Quảng Ngãi, nơi đầm Nước Mặn thông ra Biển Đông và cũng là
**Champa** (tiếng Phạn: चम्पा, Tiếng Trung: 占婆 _Chiêm Bà_, tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) hay **Chiêm Thành** (占城) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192
Tiến trình _Nam tiến_ của dân tộc Việt.|thế= **Nam tiến** (Chữ Nho: 南進) là quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương nam trong lịch sử Việt Nam. _Nam tiến_ là một
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Ninh Thuận** là một tỉnh cũ ven biển gần cực nam vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm
[[Tháp Po Nagar (Yanpunagara) - trung tâm tôn giáo của Kauthara]] **Kauthara** (chữ Phạn: कौठर / _Kauṭharā_; chữ Hán: 華英 / **Hoa-anh**, 慶和 / **Khánh-hòa**, 古笪羅 / **Cổ-đát-la**) là một địa khu Champa phân bố
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
: _Đối với cầu thủ cricket người Ireland cùng tên, xem John Crawfurd (cricketer)_ **John Crawfurd** FRS (13 tháng 8 năm 1783 - 11 tháng 5 năm 1868) là một bác sĩ người Scotland, nhà
nhỏ|Phân bố quân lực thời Hồng Đức (1471) **Quân đội nhà Lê Sơ** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Thái Tổ đến hết
**Lịch sử hành chính Kon Tum** có thể xem mốc khởi đầu từ năm 1904 với sự kiện thành lập tỉnh Plei Ku Der. Đến này 16 tháng 7 năm 2019, tỉnh Kon Tum có
**Amaravati** (Phạn ngữ: अमरावती / _Amarāvati_) là một tiểu quốc Champa tồn tại trong giai đoạn 657 - 1471, địa bàn tương ứng với vùng Quảng Nam - Đà Nẵng hiện nay. Từ _Amarāvati_ có
**Phước Tích** thuộc tổ dân phố Phước Phú, phường Phong Hòa, thị xã Phong Điền, thành phố Huế, Việt Nam. Phước Tích được nhà nước công nhận và trao bằng xếp hạng _"Di tích quốc
**Điện Bàn** là một thị xã đồng bằng ven biển nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. ## Địa lý Thị xã Điện Bàn nằm ở phía bắc của tỉnh Quảng Nam, cách
**Hoàn Vương** (tiếng Hán: 環王國; Phạn ngữ: पाण्डुरङ्ग / _Pāṇḍuraṅga_; tiếng Chăm cổ: _Panduranga_ / _Paṅrauṅ_) là tên ghi trong lịch sử Trung Hoa gọi vương quốc của người Chăm trong thời kỳ từ 757
**Tổng thống Ukraina** () là nguyên thủ quốc gia của Ukraina. Tổng thống thay mặt cho Ukraina về đối ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại của nhà nước và tiến hành đàm phán, ký
**Maha Sajai** (chữ Hán: 槃羅茶遂 / **Bàn-la Trà-toại**, ? - 1474) là quân chủ cuối cùng của liên minh Champa. ## Tiểu sử Chiến tranh Việt-Chiêm năm 1471 kết thúc với việc liên minh Champa
**Người Êđê** (tiếng Êđê: **Anak Rađê** hay được dùng phổ biến theo cộng đồng là **Anak Đê** hay **Đê-Ga**) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là miền trung Việt Nam và
**Chăm Pa** độc lập được từ năm 192, phát triển cho đến thế kỷ thứ 10 thì bắt đầu suy yếu, đến năm 1832 thì hoàn toàn mất nước. ## Thất thủ và bỏ kinh
**Panduranga** (tiếng Chăm cổ: _Paṅrauṅ_ / _Panrāṅ_; tiếng Phạn: पाण्डुरङ्ग / _Pāṇḍuraṅga_; chữ Hán: 潘朧 / **Phan-lung**, 潘郎 / **Phan-lang**) là một tiểu quốc của Champa tồn tại trong giai đoạn 757 - 1832. Lãnh
**Vương tộc Plantagenet** (phát âm: ) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn
**Thành Đồ Bàn** hay **Vijaya** (tiếng Phạn विजया, nghĩa Việt: Thắng lợi), còn gọi là **thành cổ Chà Bàn (Trà Bàn)** là kinh đô của người Degar thuộc Chăm Pa, nay thuộc địa phận xã
**Maha Saya** (Hindi: महा शय, chữ Hán: 槃羅茶悦 / **Bàn-la Trà-duyệt**, ? - 1460) là vua của vương triều thứ 14 của Chăm Pa. ## Tiểu sử Trà Duyệt được biết đến qua Minh sử
**Edward của Westminster**, hay còn gọi là **Edward của Lancaster** (13 tháng 10 năm 1453 – 4 tháng 5 năm 1471) là Thân vương xứ Wales, Công tước xứ Cornwall. Ông là người con đầu
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
Tiểu quốc **J'rai** (_Ala Car P'tao Degar_, _Dhung Vijaya_, **Nam Bàn**) là một tiểu quốc cổ của các bộ tộc Nam Đảo ở Tây Nguyên, Việt Nam với bộ tộc nòng cốt là người Gia
nhỏ|phải|Thai tạng giới [[Mạn-đà-la ()]] nhỏ|phải|Vòng Pháp luân **Nghệ thuật Phật giáo** là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau – nhất là các lĩnh
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
**Lịch sử Phú Yên** kéo dài hơn 500 năm, kể từ cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông. ## Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII ### Giai đoạn tranh chấp Năm 1471,