✨Niên biểu quan hệ Đại Việt – Chăm Pa
Quan hệ Việt-Chăm xem như bắt đầu từ năm 968, khi Đinh Tiên Hoàng lập ra nước Đại Cồ Việt, với tư cách là quốc gia độc lập đến năm 1832, khi vua Minh Mạng xóa bỏ chế độ tự trị của người Chăm, đổi Thuận Thành trấn thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp.
Dưới thời nhà Đinh và Tiền Lê
- Năm 979, hạm đội Chiêm Thành hơn nghìn chiếc do vua Parameshvaravarman I (Bê Mi Thuế) chỉ huy, phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn đường theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang muốn vào đánh cướp Hoa Lư, nhưng gặp bão hầu hết các thuyền bị đắm, thuyền của vua Chiêm thoát chết trở về nước.
- Năm 982, vua Lê Đại Hành thân hành đi chinh phạt Chiêm Thành. Nguyên do trước đó vua sai Từ Mục, Ngô Tử Canh sang sứ Chiêm Thành, bị vua Chiêm bắt giam. Vua tức giận, sai đóng chiến thuyền sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh. Vua Chiêm Parameshvaravarman I (Bê Mi Thuế) bị chém chết tại trận, quân Việt bắt sống quân Chiêm nhiều vô kể, thu nhiều vàng bạc châu báu, san phẳng kinh đô Indrapura (làng Đồng Dương, Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay).
Dưới thời nhà Lý
- Năm 1020, vua Lý Thái Tổ sai Khai Thiên Vương Lý Phật Mã và Đào Thạc Phụ đem quân đi chinh phạt Chiêm Thành ở Bố Chính (nay thuộc các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình), chém được tướng của Chiêm Thành là Bố Linh tại trận, quân Chiêm chết đến quá nửa.
- Năm 1039, con vua Chiêm Thành là Địa Bà Lạt và Lạc Thuẫn, Sạ Đâu, La Kế, A Thát Lạt 50 người sang quy phục Đại Cồ Việt
- Năm 1040, quan giữ trại Bố Chính của nước Chiêm Thành là Bố Linh, Bố Kha, Lan Đà Tinh đem bộ thuộc hơn trăm người sang quy phục Đại Cồ Việt.
- Năm 1043, "giặc gió sóng" (nghĩa là nhân gió sóng mà đi cướp) Chiêm Thành cướp bóc dân ven biển. Vua Lý Thái Tông sai Đào Xử Trung đi đánh, dẹp yên.
- Năm 1044, với lý do "Tiên đế mất đi, đến nay đã 16 năm rồi, mà Chiêm Thành chưa từng sai một sứ giả nào sang", vua Lý Thái Tông thân chinh đi chinh phạt ra oai với Chiêm Thành. Binh lính chưa chạm mà quân Chiêm đã tan vỡ, quan quân đuổi chém được 30 vạn thủ cấp. Tướng Quách Gia Di chém được đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu tại trận. Đoạt được hơn 300 voi thuần, bắt sống hơn 50 nghìn quân Chiêm, số còn thì bị giết chết, xác chất đầy đồng. Vua tỏ ý cảm khái, xuống lệnh rằng: "Kẻ nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ giết không tha". Sau đó vua Lý Thái Tông đem quân vào thành Phật Thệ bắt vợ cả, vợ lẽ của Sạ Đẩu và các cung nữ giỏi hát múa đem về nước. Khi đến hành điện Ly Nhân (nay là huyện Ly Nhân, Nam Hà), vua sai nội nhân thị nữ gọi Mỵ Ê là phi của Sạ Đẩu sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê phẫn uất lấy chăn quấn vào mình nhảy xuống sông chết. Vua khen là trinh tiết, phong là Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân. Năm 1068, Chăm Pa quấy nhiễu biên giới Đại Việt. Năm 1069, Vua Lý Thánh tông thân chinh đánh Chăm Pa,, tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy hải quân tấn công đốt phá kinh đô Vijaya. Vua Rudravarman (Chế Củ) bị bắt làm tù binh và sau đó phải đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (3 châu này thuộc vùng Quàng Bình, Quảng Trị này nay) để lấy tự do
Dưới thời nhà Trần
Thời Đại Việt cường thịnh
- Các năm 1228, 1242 Chiêm Thành sang cống Đại Việt.
- Năm 1252, Vua Trần Thái Tông thân chính đánh Chiêm Thành, bắt được vợ của vua Chiêm Thành là Bố Da La và nhiều thần thiếp. Nguyên do: "Chiêm Thành từ khi nhà Lý suy yếu, thường đem thuyền nhẹ đến cướp bóc dân cư ven biển. Vua lên ngôi, lấy đức vỗ về, sai sứ sang dụ, tuy họ có thường sang cống, nhưng lại đòi xin lại đất cũ, và có ý dòm ngó (nước ta). Vua giận, nên có việc thân chinh này."
- Năm 1262, 1265, 1266, 1267, 1269, 1270, Chiêm Thành sang cống Đại Việt.
- Năm 1279, Chiêm Thành sai Chế Năng, Tra Diệp sang cống. Chế Năng, Tra Diệp xin ở lại làm nội thần, vua Trần Nhân Tông không nhận
- Năm 1282, Chiêm Thành cử Bố Bà Ma Các sang dâng voi trắng. Cũng trong năm này Toa Đô đem quân, loan tin sẽ mượn đường đi đánh Chiêm Thành, nhưng thực ra là sang xâm lược Đại Việt.
- Năm 1285, Toa Đô đem 50 vạn quân từ Vân Nam qua nước Lão Qua (tức Lào ngày nay), thẳng đến Chiêm Thành, hội với quân Nguyên ở Châu Ô, Châu Lý rôi cướp châu Hoan, châu Ái, tiến đóng ở Tây Kết (xã Đông Bình, huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng ngày nay), hẹn trong ba năm sẽ san phẳng Đại Việt.
- Năm 1293, 1301, Chiêm Thành sang cống Đại Việt. Cũng trong năm 1301, thượng hoàng Trần Nhân Tông vân du Chiêm Thành, hứa gả con gái là Huyền Trân công chúa cho Chế Mân, vua Champa.
- Năm 1305, Chiêm Thành cho Chế Bồ Đài sang Đại Việt dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn. Vua Anh Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân. Chế Mân đem 2 châu Ô, Lý làm quà sính lễ.
- Năm 1307, Chế Mân chết. Nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung sang Chiêm Thành lừa người Chiêm cứu công chúa Huyền Trân đem về để khỏi bị hỏa thiêu theo tục lệ Chiêm Thành nhưng theo tục lệ nước Chiêm thì chỉ có vương hậu trưởng là Tapasi mới có quyền lên giàn hỏa thiêu với vua, quan niệm của người Chiêm là chỉ vương hậu trưởng mới được lên giàn hỏa thiêu cùng với vua vì đó là một vinh dự.
- Năm 1311, vua Trần Anh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, vì cho rằng vua nước Chiêm là Chế Chí phản trắc. Năm sau thì bắt được Chế Chí đem về Đại Việt, phong Chế Đà A Bà Niêm (em Chế Chí) làm Á hầu trấn giữ đất Chiêm.
- Năm 1313, Chiêm Thành bị người Xiêm xâm lược, vua Đại Việt cho quân sang cứu.
- Năm 1318, vua Trần Minh Tông sai Huệ Vũ Đại Vương Trần Quốc Chẩn đi chinh phạt Chiêm Thành. Quân Chiêm thua trận tuy nhiên tộc tướng nhà Lý là Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến tử trận.
- Năm 1326, Trần Minh Tông sai Huệ Túc Vương Trần Đại Niên (1306-1360) đi đánh Chiêm Thành nhưng không thắng.
- Năm 1342, vua Chiêm thành là Chế A Nan chết. Con rể là Trà Hòa Bố Đề tự lập làm vua, cho người đến Đại Việt báo tin buồn.
- Năm 1345, Phạm Nguyên Hằng sang sứ Chiêm Thành, trách hỏi về việc thiếu lễ triều cống hàng năm. Sau đó thì Chiêm Thành sai sứ sang cống, nhưng lễ vật rất sơ sài.
- Năm 1352, Chế Mỗ (con Chế A Nan) người Chiêm Thành chạy sang Đại Việt, dâng voi trắng, ngựa trắng và các cống vật xin đánh Trà Hòa Bố Để (con rể Chế A Nan) mà lập Chế Mỗ làm vua Chiêm.
- Năm 1353, Đại Việt đem đại binh đi đánh Chiêm thành để đưa Chế Mỗ về nước, nhưng gặp trở ngại trong việc tiếp tế lương thực nên phải quay về.
Khi Đại Việt suy yếu
- Năm 1361, Vua Chiêm Chế Bồng Nga vượt biển đánh vào cửa biển Dĩ Lý (xã Lý Hoà, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình ngày nay), bị quân Đại Việt đánh tan.
- Các năm 1362, 1365 quân Chiêm tiếp tục tấn công Hóa Châu.
- Năm 1366, quân Chiêm cướp phủ Lâm Bình, bị quan phủ Phạm A Song đánh bại
- Năm 1367, vua Trần Dụ Tông sai Trần Thế Hưng, Đỗ Tử Bình cầm quân đánh Chiêm Thành.
- Năm 1368, Chế Bồng Nga sai Mục Bà Ma sang đòi lại đất biên giới Hóa Châu. Mùa hạ, Trần Thế Hưng đem quân đến Chiêm Động (các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Duy Xuyên, Quế Sơn tỉnh Quảng Nam ngày nay). Quân Chiêm phục binh đánh quân Đại Việt tan vỡ. Trần Thế Hưng bị bắt.
- Năm 1371, từ cửa biển Đại An (Nghĩa Hưng, Nam Định ngày nay) Chế Bồng Nga tập trung quân Chiêm tiến thẳng đến kinh Thăng Long như chỗ không người. Vua Trần Nghệ Tông phải đi thuyền sang Đông Ngàn lánh giặc. Quân Chiêm vào thành, đốt phá cung điện, nhà cửa, thư tịch, sổ sách, cướp phụ nữ, ngọc lụa đem về.
- Năm 1376, Chế Bồng Nga một lần nữa tấn công Hóa Châu. Tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1377) vua Trần Duệ Tông thân chinh đem 12 vạn quân đánh Chiêm bị tử trận cùng các đại tướng như Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, và Hành khiển Phạm Huyền Linh. Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân, không đến cứu vua nên thoát chết. Lê Quý Ly đang làm nhiệm vụ đốc quân chở lương, nghe tin vua băng, bỏ trốn về nước, nhưng Ngự Câu Vương Trần Húc lại đầu hàng quân Chiêm.
- Năm 1378, Chiêm Thành lại đưa Trần Húc, kẻ đầu hàng này, đến cướp phủ Nghệ An, tiếm xưng vị hiệu, chiêu dụ dân chúng. Quân Chiêm đánh vào sông Đại Hoàng, vua Trần Phế Đế sai Hành khiển Đỗ Tử Bình đi chống giữ. Quan quân Việt tan vỡ. Quân Chiêm liền đánh vào Thăng Long, bắt người cướp của rồi rút về. An phủ sứ Lê Giốc bị quân Chiêm bắt giết..
- Năm 1380, người Chiêm ra Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa cướp của bắt người. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông sai Lê Quý Ly chỉ huy quân thủy, Đỗ Tử Bình chỉ huy quân bộ đi chống trả. Vua Chiêm Chế Bồng Nga thua trận rút chạỵ
- Năm 1382, Chiêm Thành tấn công Thanh Hóa. Trần Phế Đế sai Quý Ly đem quân đi chống giữ. Quý Ly đóng quân ở núi Long Đại (tức núi Hàm Rồng ở Thanh Hóa). Cho tướng coi quân Thần Khôi là Nguyễn Đa Phương giữ hàng cọc đóng ở cửa biển Thần Đầu (đã bị lấp, nay thuộc Tam Điệp, Ninh Bình.) Quân Chiêm Thành thua to, chạy tán loạn vào rừng núi.
- Năm 1383, đầu năm, triều đình Đại Việt sai Lê Quý Ly thống lĩnh thủy quân đi đánh Chiêm Thành. Thủy quân tới vùng biển Lại Bộ Nương (nay là cửa biển Nương Loan, Kỳ Anh, Hà Tĩnh) và Ô Tôn (nay là vùng biển Vĩnh Sơn, Quảng Trạch, Quảng Bình) bị sóng gió đánh hư hỏng phải đem quân về. Mùa hạ, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga cùng với thủ tướng La Ngai dẫn quân đi bộ theo chân núi, từ trấn Quảng Oai (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội) đến đóng ở sách Khổng Mục. Kinh sư kinh động, Thượng hoàng sai tướng chỉ huy quân Hoa Ngạch là Lê Mật Ôn đem quân đi chống giữ. Mật Ôn đến Tam Kỳ (nay là Quảng Oai) định bày trận chống giữ. Nhưng quân Chiêm đã mai phục từ trước, quân voi đồng loạt xông ra, quan quân Đại Việt thua chạy, Mật Ôn bị bắt sống. Thượng hoàng phải sang sông Đông Ngàn để lánh giặc.
- Năm 1389, quân Chiêm tấn công Thanh Hóa. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông sai Lê Quý Ly đem quân đi chống giữ, Quý Ly thua trận, tướng chỉ huy quân Hữu Thánh Dực là Nguyễn Chí (có sách chép là Trần Đình Quý) bị giặc bắt sống, 70 tướng còn lại đều tử trận. Lê Quý Ly để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh, Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về.
- Năm 1390, đô tướng Trần Khát Chân đại thắng quân Chiêm Thành ở Hải Triều, giết vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga. Phó tướng La Ngai đem tàn quân về đến Chiêm Thành, chiếm nước, tự lập làm vua. Con của Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan và em là Chế Sơn Nô sợ bị giết, liền chạy sang Đại Việt. Triều đình Đại Việt phong Chế Ma Nô Đà Nan làm Hiệu chính hầu, Chế Sơn Nô làm Á hầu.
- Năm 1391, Lê Quý Ly sai viên tướng coi quân Tả Thánh Dực Hoàng Phụng Thế đem quân đi tuần đất Chiêm Thành. Người Chiêm Thành đặt mai phục. Quân của Đại Việt tan vỡ, Phụng Thế bị quân Chiêm bắt.
- Năm 1396, triều đình sai tướng chỉ huy quân Long Tiệp là Trần Tùng đi đánh Chiêm Thành, bắt được tướng nước ấy là Bố Đông đem về, ban cho họ tên là Kim Trung Liệt, chỉ huy quân Hổ Bôn.
- Năm 1397, tướng Chiêm Thành là Chế Đa Biệt cùng với em là Mộ Hoa Từ Ca Diệp sang hàng. Triều đình ban tên cho Đa Biệt là Đinh Đại Trung, phong là Kim Ngô vệ tướng quân, Ca Diệp làm Cấm vệ đô cho trấn thủ Hóa Châu để chống giữ Chiêm Thành.
Dưới thời nhà Hồ
- Năm 1400, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần. Ông lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu, đổi thành họ Hồ, đem 15 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Do bộ binh đi đường núi, tách xa hẳn thủy quân, gặp khi nước lũ, tướng sĩ ở giữa đường hết lương thực, phải nướng cả áo giáp bằng da để ăn.
- Năm 1402, vua Hồ Hán Thương đem đại quân đi đánh Chiêm Thành. Hai bên đụng trận, tướng Đại Ngu Đinh Đại Trung và tướng Chiêm Thành Chế Tra Nan đều tử trận. Vua Chiêm Ba Đích Lại (con La Ngai) hoảng sợ, sai cậu là Bố Điền dâng đất Chiêm Động (huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam), một voi trắng, một voi đen và các sản vật địa phương, để xin rút quân. Bố Điền tới, Quý Ly bắt ép phải dâng nộp thêm động Cổ Lũy (nay là các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ, Quảng Ngãi).
- Năm 1403, Hồ Hán Thương sai đại tướng quân Phạm Nguyên Khôi làm tiết chế, cùng các phó tướng Hồ Vấn, Đỗ Mãn đem 20 vạn quân thủy bộ đánh Chiêm Thành. Quân Đại Ngu bao vây thành Đồ Bàn 6 tháng, không hạ được thành phải lui về nước. Chiêm Thành cầu cứu Đại Minh, Minh Thành Tổ sai 9 chiến thuyền vượt biển sang cứu. Thủy quân Đại Ngu khi rút về có gặp quân Minh giữa biển, Phạm Nguyên không giao chiến mà về nước.
- Năm 1407, vua Chiêm Thành là Ba Đích Lại đem quân đánh Đại Ngu, đánh bại các tướng Chế Ma Nô Đà Nan và Hoàng Hối Khanh. Chiêm Thành thu hồi 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa.
Dưới thời Hậu Lê
- Năm 1433, nhân cơ hội vua Lê Thái Tổ mất, vua Chiêm Thành là Bố Đề đưa quân vào đánh châu Hóa, bắt 6 người. Vua Lê Thái Tông sai Nhập nội tư mã Lê Liệt, Nhập nội thiếu úy Lê Khôi và Hành khiển tổng quản Lê Truất đem quân đi tuần Tân Bình, Thuận Hóa. Đại quân đến nơi thì người Chiêm đã rút.
- Năm 1434, sứ Chiêm Thành mang thư và lễ vật sang cống Đại Việt để cầu thân.
- Năm 1444, vua Chiêm Thành là Ma Ha Bí Cai lại đánh cướp châu Hóa. Thái hậu Nguyễn Thị Anh sai Nhập nội kiểm hiệu thái bảo Lê Bôi, Tổng quản Lê Khả mang 10 vạn quân đánh Chiêm Thành.
- Năm 1445, quân Chiêm Thành lại đánh châu Hó, vây thành An Dung; quân Đại Việt giữ được thành.
- Năm 1446, thái hậu Nguyễn Thị Anh sai Lê Thụ, Lê Khả, Lê Khắc Phục đem hơn 60 vạn quân đi chinh phạt Chiêm Thành. Quân Đại Việt chiếm thành Chà Bàn, bắt sống vua Chiêm là Bí Cai và các phi tần đem về nước.
- Năm 1469, Chiêm Thành vượt biển cướp phá, quấy nhiễu châu Hóa.
- Năm 1470, tháng 8, vua Chiêm Thành là Bàn La Trà Toàn đích thân đem hơn 10 vạn quân thủy bộ cùng voi ngựa đánh úp châu Hoá. Tướng trấn giữ biên thuỳ ở châu Hoá là Phạm Văn Hiển không chống cự lại, phải chạy thư cấp báo về kinh. Tháng 11, vua Lê Thánh Tông cùng thái sư Lân quận công Đinh Liệt, thái bảo Kỳ quận công Lê Niệm đem 26 vạn quân đánh Chiêm Thành. Đầu tháng 12, đại giá xuất phát từ Thiết Sơn (nay thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An), đến giữa tháng thủy quân vào đến đất Chiêm Thành, nhà vua cho dừng lại tập luyện.
- Đầu năm 1471, vua Chiêm Thành là Trà Toàn sai em là Thi Nại và 6 viên đại tướng đem 5000 quân và voi, đến quan sát trung quân nơi vua Đại Việt đóng quân. Lê Thánh Tông tự mình dẫn hơn 1.000 chiếc thuyền, hàng trăm ngàn quân ra tấn công, quân Chiêm tan vỡ, giày xéo lẫn nhau chạy về thành Chà Bàn. Đến ngày mồng 1 tháng 3 thì quân Việt hạ được thành Chà Bàn, bắt sống hơn 3 vạn người, chém hơn 4 vạn thủ cấp, bắt vua Chiêm là Trà Toàn đem về nước, thành Chà Bàn bị phá hủy hoàn toàn
- Cuối năm 1471, Lê Thánh Tông sai Lê Niệm đem 3 vạn quân đánh Chiêm Thành, bắt vua Chiêm là Trà Toại
Dưới thời Trịnh-Nguyễn
- Năm 1611, do người Chiêm Thành lấn chiếm biên ải, chúa Nguyễn Hoàng đã sai viên tướng gốc Chăm là Văn Phong đưa quân vào dẹp loạn và đặt ra phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, phong cho Văn Phong làm lưu thủ đất này.
- Năm 1631, vua Chiêm Thành Po Romê cưới Công nữ Ngọc Khoa, con gái thứ ba của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Nhờ có cuộc hôn phối này mà tình giao hảo giữa hai nước được tốt đẹp, chúa Nguyễn có thể dồn sức đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài
- Năm 1653, vua Chiêm là Bà Tranh xâm phạm biên cảnh, chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) sai người đánh dẹp, người Chiêm đầu hàng. Nhân đó lấy đất từ Phú Yên vào đến sông Phan Rang đặt làm 2 phủ Thái Khương, Diên Ninh và gồm 5 huyện: Quảng Phước, Tân Định (thuộc phủ Thái Khương), Phước Điền, Vinh Xương và Hoa Châu (thuộc phủ Diên Ninh). Vùng đất này nay tỉnh Khánh Hoà.
- Năm 1692, vua Chăm tên Bà Tranh đã tấn công vào phủ Diên Ninh và dinh Bình Khang tức vùng Diên Khánh ngày nay. Chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh đánh đuổi. Quân Chiêm và Việt đã giao tranh ác liệt tại Sông Lũy, quân Chiêm Thành bại trận, vua Chiêm và hoàng gia bị bắt.
- Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu cho thành lập khu tự trị Thuận Thành Trấn tại vùng đất của Chiêm Thành, chúa Chăm được gọi là Trấn Vương, là thần hạ của chúa Nguyễn.
Chấm dứt quan hệ Đại Việt-Chăm Pa
- Năm 1832, khi Lê Văn Duyệt từ trần, vua Minh Mệnh đem quân chiếm khu tự trị Thuận Thành Trấn, trừng phạt những quan chức Champa đã phục tùng Lê Văn Duyệt, xóa bỏ chế độ tự trị lập ra Ninh Thuận phủ. Quan hệ Đại Việt-Chăm Pa tới đây xem như chấm dứt.
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quan hệ Việt-Chăm** xem như bắt đầu từ năm 968, khi Đinh Tiên Hoàng lập ra nước Đại Cồ Việt, với tư cách là quốc gia độc lập đến năm 1832, khi vua Minh Mạng
**Champa** (tiếng Phạn: चम्पा, Tiếng Trung: 占婆 _Chiêm Bà_, tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) hay **Chiêm Thành** (占城) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1367–1396)** là một cuộc chiến giữa nước Đại Việt thời hậu kỳ nhà Trần và nước Chiêm Thành do Chế Bồng Nga (Po Binasour) (1360–1390) lãnh đạo. Vào những năm
**Tháp Chăm** (còn gọi là **tháp Champa** hay **tháp Chàm**), là tên gọi thông dụng trong tiếng Việt để chỉ kiến trúc đền tháp Chăm Pa, những quần thể thuộc kiến trúc tôn giáo tín
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
Vua Việt Nam là các quân chủ của nước Việt Nam độc lập tự chủ từ thời dựng nước đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử mà vua
Tiến trình _Nam tiến_ của dân tộc Việt.|thế= **Nam tiến** (Chữ Nho: 南進) là quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương nam trong lịch sử Việt Nam. _Nam tiến_ là một
Biểu trưng và khẩu hiệu của ngành Du lịch Việt Nam giai đoạn 2012-2015 do Tổng cục Du lịch Việt Nam đưa ra. [[Vịnh Hạ Long]] nhỏ|Du khách thăm [[Đền Ngọc Sơn và cầu Thê
nhỏ|phải|Tháp Phước Duyên ở [[chùa Thiên Mụ đã trở thành một trong những công trình biểu tượng của thành phố Huế]] **Tháp chùa Việt Nam** là những công trình tháp được đặt tại các ngôi
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Krông Pa** là một huyện thuộc tỉnh Gia Lai, Việt Nam. ## Địa lý Tên huyện được đặt theo tên 2 con sông: sông Krông Năng và sông Pa (một trong những con sông lớn
**Tên người Việt Nam** được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế kỷ 2 TCN và càng ngày càng đa dạng hơn, trong khi có ý kiến khác cho rằng: "sớm
Một đòn đá trong làng võ Tân Khánh Bà Trà. **Võ thuật Việt Nam** là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sư khai sinh và phát triển
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
**Âm nhạc Việt Nam** là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc
**Thánh địa Mỹ Sơn** thuộc xã Duy Phú, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung
[[Phở - món ăn mang tính biểu tượng quốc tế của ẩm thực Việt Nam]] **Ẩm thực Việt Nam** là cách gọi của phương thức chế biến món ăn, nguyên lý pha trộn gia vị
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Chữ viết Chăm** là hệ thống chữ viết để thể hiện tiếng Chăm, một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Cộng đồng người nói tiếng Chăm phân bố chủ yếu ở Việt Nam và
**Bánh mì** là một loại baguette của Việt Nam với lớp vỏ ngoài giòn tan, ruột mềm, còn bên trong là phần nhân. Tùy theo văn hóa vùng miền hoặc sở thích cá nhân mà
**Chiêm Thành** () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: _Campanagara_) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu
**Lâm Ấp** (Chữ Hán: 林邑; Bính âm: _Lin Yi_) là một vương quốc cổ tồn tại từ khoảng năm 192 đến năm 605, với lãnh thổ ban đầu bao gồm vùng đất từ Quảng Bình
**Po Binasuor** hay còn được biết đến rộng rãi hơn với tên gọi **Chế Bồng Nga** (Hán-Việt: 制蓬峩, ? - 23 tháng 1 năm 1390 ÂL), theo cách gọi của người Ê Đê và Giarai
**Phra Bat Somdet Phra Phutthayotfa Chulalok Maharat** (, 20 tháng 3 năm 1736 – 7 tháng 9 năm 1809), tên khai sinh là **Thongduang** (), còn được gọi là **Rama I**, thụy hiệu đầy đủ
**Văn hóa Sa Huỳnh** là một nền văn hóa khảo cổ được xác định ở vào khoảng năm 1000 TCN đến cuối thế kỷ thứ 2. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba
**Chúa Trịnh** (chữ Nôm: 主鄭, chữ Hán: 鄭王 / **Trịnh vương**; 1545 – 1787) là một vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng. Về danh
**Champa** có nền văn minh Ấn hóa ở khu vực duyên hải miền Trung Việt Nam ngày nay trong thời gian từ năm 192 đến 1832 sau Công nguyên. Người Chăm có lẽ là những
Các hệ điều hành máy tính cung cấp một tập chức năng cần thiết và được dùng ở hầu hết các chương trình trên máy tính, và các liên kết cần để kiểm soát và
**Năng lượng ở Việt Nam** là một khái niệm đề cập đến việc nghiên cứu, sản xuất, tiêu thụ các nguồn năng lượng ở Việt Nam. ## Lịch sử Ngày 21-12-1954, Bác Hồ đã đến
Nhà thơ **Inrasara** tên thật là **Phú Trạm** (sinh ngày 20 tháng 9 năm 1957 tại làng Chakleng - Mỹ Nghiệp, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam), ông là
nhỏ|Giống [[gà tây nhà thường được nuôi ở huyện An Phú tỉnh An Giang]] **Giống vật nuôi ngoại nhập** hay **giống vật nuôi nhập nội** hay **giống vật nuôi nhập khẩu** hay còn gọi là
**Trịnh Căn** (chữ Hán: 鄭根, 18 tháng 7 năm 1633 Lúc nhỏ, Trịnh Căn chưa được xem là một ứng cử viên cho việc kế thừa ngôi Chúa, bởi bác cả của ông là Sùng
**Indravarman VI** (Phạn văn: इन्द्रवर्मन्, chữ Hán: 巴的吏 / **Ba Đích Lại**, 占巴的賴 / **Chiêm Ba Đích Lại**, phiên âm Zhan-ba Di-lai, Champathirat;? - 1441) là quốc vương Champa, trị vì trong giai đoạn 1400
Việt Nam có tiềm năng ở việc khai thác các nguồn năng lượng tái tạo như: thủy điện, điện gió, điện Mặt Trời, địa nhiệt, điện sinh khối. Trong đó, thủy điện được tập trung
thumb thumb|Cổ tranh 21 dây của Trung Quốc thumb|Đàn zither phương Tây thumb|Trình diễn đàn tranh tại Paris **Đàn tranh** (chữ Nôm: 彈箏, , Hán Việt: cổ tranh) còn được gọi là **đàn thập lục**
**Phố cổ Hội An** là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển thành phố Đà Nẵng, Việt Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 30 km
**Người Hmông** hay **Mông** (RPA: _Hmoob/Moob,_ Chữ Hmông Việt: _Hmôngz/Môngz)_; ), là một nhóm dân tộc có địa bàn cư trú truyền thống là Trung Quốc và các nước lân cận thuộc tiểu vùng Đông
**Huế** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương và là thành phố di sản của Việt Nam. Thành phố là một trong các trung tâm văn hóa, y tế và giáo dục
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
Thực hiện Chương trình công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi năm 2025, Ban Bí thư Trung ương Đoàn triển khai Kế hoạch Tháng Thanh niên năm 2025 thông qua việc ban hành
Thực hiện Chương trình công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi năm 2025, Ban Bí thư Trung ương Đoàn triển khai Kế hoạch Tháng Thanh niên năm 2025 thông qua việc ban hành
Thực hiện Chương trình công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi năm 2025, Ban Bí thư Trung ương Đoàn triển khai Kế hoạch Tháng Thanh niên năm 2025 thông qua việc ban hành
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Ninh Thuận** là một tỉnh cũ ven biển gần cực nam vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm