✨Đàn tranh
thumb thumb|Cổ tranh 21 dây của Trung Quốc thumb|Đàn zither phương Tây
thumb|Trình diễn đàn tranh tại Paris Đàn tranh (chữ Nôm: 彈箏, , Hán Việt: cổ tranh) còn được gọi là đàn thập lục hay đàn có trụ chắn, là nhạc cụ truyền thống của người phương Đông, có xuất xứ từ Trung Quốc. Đàn thuộc họ dây, chi gảy; ngoài ra họ đàn tranh có cả chi kéo và chi gõ. Loại 16 dây nên đàn còn có tên gọi là đàn Thập lục. Nay đã được tân tiến thành 21 - 25, 26 dây (cổ tranh của Trung Quốc).
Ngoài khả năng diễn tấu giai điệu, ngón chơi truyền thống của đàn tranh là những quãng tám rải hoặc chập và ngón đặc trưng nhất là vuốt trên các dây và gảy dây,ngoài ra có cả dạng dùng vĩ kéo hay dùng que gõ. Đàn tranh là nhạc khí dùng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho hát và được chơi trong nhiều thể loại âm nhạc như các dàn nhạc dân ca, kết hợp với những ca khúc của C-pop, nhạc Âu Mỹ,...
Trong khi các quốc gia phương Đông có những nhạc cụ nhiều dây như đàn tranh, đàn sắt thì với người phương Tây họ có đàn zither. Vậy nên đàn tranh phương Đông cũng có tầm sánh ngang zither phương Tây, tuy âm điệu của chúng hoàn toàn khác nhau.
Ngoài ra, những loại đàn thuộc họ đàn tranh ở hầu hết các nước trong khu vực châu Á luôn có một phiên bản mini cho trẻ em và người mới chơi học diễn tấu.
Nguồn gốc lịch sử
phải|thumb|Đàn sắt được trưng bày tại một bảo tàng ở Trung Quốc thumb|thumb|Đàn cổ sắt với bốn trục lớn buộc dây, có niên đại từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên làm bằng gỗ đàn hương, chạm trổ hoa văn trang trí. Các dây đàn và trụ chắn (nhạn đàn) đều bị mất
thumb|Đàn cổ tranh của Trung Quốc Lịch sử của đàn tranh kéo dài từ lịch sử Trung Quốc thời kỳ đầu. Đó là một trong những nhạc cụ có dây quan trọng nhất được tạo ra ở Trung Quốc, trước khi đàn cổ tranh ra đời, người Hoa đã chế tạo ra đàn sắt (sắt cầm hoặc cổ sắt) (瑟 hoặc 古瑟 hay 瑟琴 Bính âm: Sè, gǔ sè, Sè qín), có âm vực rộng tới 5 quãng tám.
Đàn sắt là một nhạc cụ rất phổ biến trong thời Tây Chu và thời Xuân Thu. Các mẫu vật còn sót lại đã được khai quật từ những nơi như tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam và khu vực Giang Nam của Trung Quốc. Những nơi khác bao gồm Giang Tô, An Huy, Sơn Đông và Liêu Ninh. Ở Hồ Bắc, lăng mộ của Tăng Hầu Ất (cuối thập niên 400 trước Công nguyên) là một kho báu của các nhạc cụ cổ xưa của Trung Quốc, bao gồm một bộ hoàn chỉnh của biên chung (chuông đồng), đàn sắt và đàn cổ cầm, chuông đá (biên khánh) và trống.
Đoàn tùy tùng âm nhạc của ông gồm 21 cô gái và phụ nữ cũng được chôn cất cùng ông. Vào thời Chiến Quốc, các loại cổ tranh ban đầu đã xuất hiện, được phát triển từ đàn sắt.
thumb|Niên đại về đàn cổ tranh Trung Quốc - có sự khác biệt rất rõ rệt ở phần đuôi đàn và hậu nhạc sơn theo từng thời kỳ Vì vậy, đôi khi người ta nói rằng cổ tranh về cơ bản là một phiên bản nhỏ hơn và đơn giản hơn đàn sắt rất nhiều. Đàn sắt cũng được trưng bày ở các bảo tàng lịch sử và dân tộc ở Trung Quốc, nhiều nghệ nhân cũng chơi loại đàn này và nếu như có bán ra thị trường thì giá của đàn sắt vô cùng đắt đỏ so với cổ tranh. Chính vì vậy đàn sắt vô cùng hiếm đưa vào sử dụng trong dàn nhạc dân tộc để hoà tấu nên đàn sắt luôn trở thành thứ bị quên lãng. Theo truyền thuyết, Phục Hy đã tạo ra đàn sắt. Và do đó, người ta tin rằng vào thời nhà Hạ, sắt cầm đã ra đời. Cũng có nhiều đề cập trong văn học Trung Quốc, như trong Kinh Thư (Cổ điển của thơ ca) và Luận ngữ của Khổng Tử. Sắt cầm luôn là một nhạc cụ cao cấp. Ngay từ thời nhà Chu, nó đã được sử dụng để chơi nhạc theo nghi thức để cúng tế.
Từ đó cổ tranh đã trải qua nhiều thay đổi trong lịch sử lâu dài của nó. Mẫu vật lâu đời nhất được phát hiện là đàn tranh 14 dây và có niên đại khoảng 500 năm TCN, có thể trong thời Chiến Quốc (475 năm trước Công nguyên). Cổ tranh trở nên nổi bật trong triều đại Tần (221 Tái 206 TCN). Vào thời nhà Đường (618 TCN), cổ tranh có thể là nhạc cụ được chơi phổ biến nhất ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Có nhiều tài liệu khác nhau về cách cổ tranh xuất hiện. Cổ tranh Trung Quốc được phát minh bởi Mông Điềm, một vị tướng của triều đại Tần (221-206 trước Công nguyên), chịu ảnh hưởng lớn từ đàn sắt. Do đàn sắt tuy có 50 dây nhưng trọng lượng của nó vô cùng nặng nên Mông Điềm mới nghĩ ra một loại nhạc cụ tương tự đàn sắt với kích thước nhỏ hơn đàn sắt, dễ di chuyển và không quá khó khăn khi mang vác, ông gọi thứ đàn đó là đàn tranh hay cổ tranh. Một số người tin rằng cổ tranh ban đầu được phát triển dưới dạng đàn tam giác bằng tre như được ghi lại trong thuyết văn giải tự, sau đó được thiết kế lại và làm từ những tấm gỗ cong lớn hơn và những con nhạn của đàn có thể di chuyển. Một truyền thuyết thứ ba nói rằng xuất hiện khi hai người song tấu với đàn cổ tranh loại 25 dây. Họ đã cải tiến nó thành 16, 17, 18 và 21 dây. Dây đã từng được làm bằng lụa, nhưng dây bằng lụa ngày nay chỉ có dòng đàn tranh của Triều Tiên mới sử dụng. Trong triều đại nhà Thanh (1644-1912 CE), các dây này chuyển sang dây đồng thau. Dây hiện đại hầu như luôn được bọc thép bằng nylon. Được giới thiệu lần đầu tiên vào những năm 1970, các dây đàn đa vật liệu này đã tăng âm lượng của nhạc cụ trong khi vẫn duy trì âm sắc chấp nhận được. Tại Trung Quốc, có ít nhất nửa tá phong cách chơi cổ tranh theo trường phái khu vực riêng biệt; niên đại ít nhất là từ thời nhà Đường, tức là hơn 1.000 năm trước, có hai phong cách chơi đàn tranh riêng biệt: đàn tranh (弹筝, tức gảy đàn tranh với móng giả) và sưu tranh (搊筝 - chơi đàn tranh bằng đầu ngón tay).
Các hoạ tiết trên cổ tranh bao gồm nghệ thuật chạm khắc, sơn mài chạm khắc, khảm xà cừ, tranh, thơ, thư pháp, chạm khắc vỏ (ngọc) và pháp lam.
Phong cách chơi trước tiên được phân chia giữa miền Bắc và miền Nam trước khi được chia nhỏ thành các trường khu vực cụ thể. Các trường phái trong khu vực là một phần của phong cách phương Bắc bao gồm Hà Nam, Thiểm Tây, Sơn Đông và Chiết Giang. Các trường phái trong khu vực được bao gồm trong phong cách miền Nam bao gồm Triều Châu, Phúc Kiến và Khách Gia.
Cũng từ đàn sắt và đàn cổ tranh mà người Trung Quốc còn chế tạo ra hai loại đàn là đàn trúc (筑) do Cao Tiệm Ly chế tác, sử dụng một que để gõ vào dây đàn tương tự đàn tam thập lục, một tay dùng ngón để nhấn dây đàn (chi gõ). Đôi khi đàn trúc cũng được dùng 2 que gõ, ban đầu đàn trúc cũng chỉ vỏn vẹn 5 dây và không có con nhạn như cổ cầm, sau đó được mắc thêm con nhạn và kể từ đó đàn trúc có ba loại: 5 dây, 12 dây và 20 dây (phái trúc - 沛筑) ; ngưu cân cầm (牛筋琴) cũng thuộc đàn tranh chi gõ là loại đàn tranh kích thước từ nhỏ cho tới lớn như đàn sắt, sử dụng que tre để gõ tương tự đàn trúc. Thân đàn hình chữ nhật lớn và nó chuyên trị dòng nhạc dân ca ở Ôn Châu, Triết Giang và đàn yết tranh (轧筝) có từ thời nhà Đường, sử dụng cây vĩ để kéo (chi kéo) mà du nhập vào bán đảo Triều Tiên trở thành đàn ajaeng (hangul:아쟁, Hanja:牙; Hán Việt: nha tranh). Riêng với người Choang, yết tranh của họ được gọi là tranh ni (琤尼) hay toả cầm (挫琴), nhỏ hơn yết tranh và văn chẩm cầm (文枕琴) - yết tranh cỡ nhỏ chỉ vỏn vẹn 9 dây. Tuy nhiên thì văn chẩm cầm không dùng từng con nhạn rời rạc mà dây đàn của văn chẩm cầm được mắc bới một cầu đàn hình vòng cung. Nếu yết tranh Trung Quốc cũng như ajaeng Triều Tiên kéo theo phương nằm ngang khi đặt đàn thì văn chẩm cầm và tranh ni được đặt dọc để chơi, giống như kéo đàn cello. Cũng chính vì thế mà họ đàn tranh Châu Á ngày càng trở nên phong phú.
Ngưu cân cầm là đàn tranh dùng que gõ truyền thống ở tỉnh Chiết Giang, trong đó huyện Bình Dương là cái nôi ra đời của nhạc cụ này. Trước đây, dây đàn được làm từ gân bò, trải qua công đoạn rửa sạch, lấy gân từ xương bò, tách sợi, phơi khô nhưng ngày nay ngưu cân cầm hầu như sử dụng dây cước hay nhựa tổng hợp. Về giá trị bảo vệ, ngưu cân cầm có giá trị trong lịch sử, văn hóa, thực tiễn và sự khéo léo. Về mặt giá trị lịch sử, nó đã được phát triển thành công vào thời Quảng Đông kể từ thời nhà Thanh và có lịch sử hơn 100 năm.
Toả cầm - đàn tranh dùng vĩ, cùng họ với yết tranh và văn chẩm cầm trong họ đàn tranh, chi kéo. là một nhạc cụ cổ xưa và đặc biệt, chỉ được tìm thấy ở Thanh Châu. Nguồn gốc của nghệ thuật đàn tỏa cầm Thanh Châu liên quan đến nguồn gốc của âm nhạc dây Trung Quốc và thậm chí cả thế giới của âm nhạc có dây. Nó có giá trị lịch sử cao để nghiên cứu sự phát triển của âm nhạc cổ đại. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2008, hội nghị chuyên đề Thanh Châu tỏa cầm do Nhạc viện Trung Quốc tổ chức đã được tổ chức tại Bắc Kinh, đã thu hút sự chú ý mạnh mẽ từ ngành công nghiệp âm nhạc về một nhạc cụ đã biến mất trong lịch sử nhạc cụ Trung Quốc cổ đại. Tỏa cầm Thanh Châu đã được tái phát hiện và vẫn có một di sản kỹ năng sống động, làm cho lịch sử của các nhạc cụ dây Trung Quốc sớm hơn 1500 năm so với ở phương Tây. Đàn tranh này có thể nói là có nghĩa là "hóa thạch sống". Loại toả cầm được sử dụng phổ biến nhất ở Thanh Châu là toả cầm sử dụng dây kép.
Đàn tranh của người Triều Châu Trung Quốc gồm có hai loại: truyền thống (传统) và cách tân (革新); có ý kiến cho rằng nó được sản xuất năm 1800 tại Quảng Châu, Trung Quốc. Loại này được thiết kế theo phong cách thời nhà Tống. Đàn tranh Việt Nam cũng ảnh hưởng rất nặng từ loại đàn tranh Triều Châu truyền thống: có trục đàn và dây bằng thép mảnh, trong khi loại cách tân chốt dây được giấu trong hộp điều âm. Đàn tranh Triều Châu ảnh hưởng mạnh tới các trường phái lớn của hệ thống trường phái đàn tranh Trung Quốc. Âm nhạc Triều Châu là một trong những loại nhạc dân gian cổ xưa của Trung Quốc, chủ yếu lan rộng ở phía đông Quảng Đông, miền nam Phúc Kiến, Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao và những nơi người Triều Châu sống ở các nước Đông Nam Á. Nó có một lịch sử lâu dài, nền tảng đại chúng của nó là vững chắc và sâu sắc, và tiết mục của nó khá phong phú. Có hàng ngàn âm nhạc hiện có. Với sự thay đổi của lịch sử, âm nhạc Triều Châu đã hình thành những đặc trưng và phong cách nghệ thuật độc đáo. Đây là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn hóa nghệ thuật và là một di sản âm nhạc dân gian có giá trị. Nhạc phẩm Hàn nha hí thủy (寒鸦戏水) được cho là kinh điển khi chơi với đàn tranh Triều Châu dây thép.
Như vậy, niên đại về đàn tranh Trung Quốc cũng cho thấy qua từng thời kỳ và từng triều đại Trung Hoa mà hậu nhạc sơn (后岳山) và đuôi đàn (琴尾 cầm vĩ) của đàn tranh có sự biến đổi khác nhau theo thời gian. Loại cổ tranh ngày nay của Trung Quốc có tiền nhạc sơn dạng chữ S gợn sóng, hoặc chữ C,...
Đàn tranh cải tiến
Đàn tranh cánh bướm
Năm 1978, Hà Bảo Tuyền (何寶泉) và Nhạc viện Thượng Hải đã phát triển và phát minh ra đàn tranh cánh bướm, Hán Việt đọc là Điệp thức tranh (). Đàn tranh cánh bướm này có hai cột được sắp xếp theo thang ngũ âm và có 2 vùng biểu diễn (tức 2 bên mặt đàn có thể diễn tấu 2 tay). Nó có thể chơi tất cả các nửa cung của thang ngũ âm, thang thứ bảy hoặc mười hai nhịp bằng nhau, giữa các hợp âm nhất định của thang ngũ âm, và cũng được trang bị móc dây để thay đổi cao độ của một số dây cố định. Đàn tranh cánh bướm vốn có ngoại hình như một con bướm khổng lồ đang xòe cánh bay thì nó chuyên trị những bản nhạc giao hưởng phương Tây và chơi rất dễ dàng so với cổ tranh phải nhấn dây rất nhiều.
Tân tranh
Hiện nay, ở Đài Loan đang có loại đàn tranh độc lạ, có tên là chuyển điều tranh () hay tân tranh (). . Theo như hợp âm, hai mươi bốn hợp âm chính và phụ chỉ là "135" và "613" trong cổ tranh truyền thống. Ngoài ra, cổ tranh truyền thống rất khó điều chỉnh, thiếu âm thanh và thiếu nhịp điệu, điều này hạn chế sự sáng tạo của nhà soạn nhạc và hạn chế nghiêm trọng phạm vi sử dụng của nó. Để thay đổi tình trạng này, nhiều nghệ sĩ biểu diễn và chuyên gia sản xuất nhạc cụ trong và ngoài nước đã tiếp tục phát triển và cải cách cổ tranh. Họ đã đề xuất nhiều chương trình và phát triển nhiều "chuyển điều tranh". Sự cải tiến mang tính cách mạng nhất đối với đàn tranh nên là sự phát triển thành công của đàn tranh, đây là một bước đột phá lớn khác trong lịch sử của đàn tranh. Cải cách ban đầu của cổ tranh được phản ánh nhiều hơn ở sự gia tăng số lượng dây, và cải cách đàn tranh mới đã phá vỡ ranh giới này. Cải tiến cổ tranh từ một góc độ khác thậm chí còn quan trọng hơn so với loạt cải cách ban đầu. Đàn tranh cải biên đã phá vỡ hoàn toàn phương pháp hiệu suất ngũ giác ban đầu, và phá vỡ hoàn toàn giới hạn của thang âm ngũ cung đối với sức mạnh biểu cảm của đàn sắt và cổ tranh trong hàng trăm năm, giúp cổ tranh dễ dàng điều chỉnh và sở hữu mười hai luật bằng nhau. Về lý thuyết, chức năng hòa âm của nó gần như tương đương với đàn piano, đây là một bước nhảy vọt khác trong lịch sử của cổ tranh Trung Hoa. Đàn tranh mới giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển và kế thừa, và hoàn toàn tương thích với đàn tranh truyền thống. Chơi đàn chuyển điều tranh này về cơ bản không cần thay đổi phương pháp chơi hay huấn luyện đặc biệt, cho phép cải biên lối chơi của cổ tranh. Kinh nghiệm vẫn có giá trị thực tế. Các chức năng khác của chuyển điều tranh là không thể đối với cổ tranh truyền thống. Chuyển điều tranh đã mở ra một thế giới rộng lớn cho việc tạo ra âm nhạc đàn tranh, sử dụng các kỹ năng chơi và sử dụng rộng rãi cổ tranh. Sự xuất hiện của đàn tranh thế hệ mới đã giải quyết được nhiều vấn đề. Nó không chỉ có thể được chuyển đổi, nó còn có thang đo bảy âm với tiền đề đảm bảo thang đo âm giai ngũ cung, và thậm chí nó có thể được điều chỉnh theo đầy đủ theo mười hai luật trung bình. Chuyển điều tranh đã khéo léo sử dụng các phương pháp như con nhạn gắn ở trung tâm và kết hợp hữu cơ của hai khu vực chơi trên cùng một đàn tranh để giải quyết vấn đề thiếu âm thanh. Con nhạn của đàn tranh kiểu mới nằm ở trung tâm của mặt đàn so với con nhạn cổ tranh được xếp chéo. Khu vực chơi bên trái được sắp xếp theo thứ tự bảy âm thanh và khu vực chơi bên phải được sắp xếp theo thứ tự năm âm thanh. Điều này giải quyết mâu thuẫn giữa kế thừa và phát triển. Tân tranh có thể sử dụng vùng biểu diễn bên phải để hoàn thành bất kỳ bản nhạc nào thuộc hệ thống ngũ cung hoặc chúng ta có thể sử dụng vùng biểu diễn bên trái để thực hiện các tác phẩm dựa trên hệ thống bảy thang âm. Nếu các vùng biểu diễn bên trái và bên phải được sử dụng kết hợp, các đặc điểm của cách sắp xếp nhạn kiểu ngũ cung và heptad có thể được sử dụng đầy đủ để phát các bản nhạc phức tạp khác nhau. Nếu chuỗi tỷ lệ của các vùng biểu diễn bên trái và bên phải được điều chỉnh một chút, nó sẽ có tất cả các nốt trong mười hai nhịp bằng nhau và về mặt lý thuyết có chức năng tương tự như piano. Theo cách này, nó có thể được điều chỉnh phù hợp với bất kỳ âm nhạc nào dựa trên mười hai mức trung bình. Điều đáng khen ngợi hơn nữa là, với mười hai âm điệu, mối quan hệ tương đối giữa âm thanh trong vùng biểu diễn phù hợp và âm thanh vẫn giữ nguyên, và sự sắp xếp âm vị vẫn là một sự sắp xếp ngũ cung. Mặc dù đó là sự sắp xếp ngũ cung, hoàn toàn có thể. Đáp ứng nhu cầu biểu diễn âm nhạc ngũ cung nói chung. Có thể nói rằng đàn tranh tân tiến được trang bị đầy đủ các chức năng của cổ tranh truyền thống; đàn tranh tân tiến có thể dễ dàng giải quyết các bài nhạc diễn tấu cấp độ khó mà cổ tranh truyền thống không thể diễn tấu được. Tân tranh gồm có 25 dây và 25 con nhạn mắc thẳng tắp mặt đàn, chia khoảng cách của tiền nhạc sơn và hậu nhạc sơn bằng nhau. Bên cạnh đó, có những con nhạn nhỏ phụ trợ thay cho việc nhấn dây. Sự quyến rũ trong âm sắc cổ tranh là đặc trưng của cổ tranh. Vị trí thích hợp của tay trái để nhấn dây đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện kỹ năng. Vị trí hợp âm lý tưởng là khoảng 16 cm từ phía bên trái của đàn tam thập lục, được xác định bởi độ căng của dây đàn tân tranh và phần mở rộng vừa phải của bàn tay trái. Vị trí không phù hợp phổ biến thường là hơn 20 cm. Bởi vì càng gần nhạn đàn tranh, độ căng của dây càng lớn và dây không thể được ép chặt, càng xa nhạn đàn tranh, dây càng mềm và độ căng của dây càng thấp. Một số người chơi diều có bàn tay trái của họ mở rộng ra để làm cho việc nhấn dây dễ dàng hơn, do đó vị trí của dây được thay đổi. Tay trái bị căng quá mức, làm tăng gánh nặng cho cánh tay, hình thức chơi trở nên không tự nhiên và ngón tay thường chạm vào mặt đàn. Có nhiều bản in móng trên mặt đàn bên trái của một số đàn tranh, nguyên nhân là do vị trí dây không đúng. Trong đào tạo cơ bản, chú ý đến tính chính xác của vị trí hợp âm tay trái, để các kỹ năng tay trái có thể được thể hiện đầy đủ.
Có hai phương pháp chơi dây cơ bản: phương pháp gảy và phương pháp lướt dây. Phương pháp gảy: Hướng của ngón tay chơi dây là từ phía trên xiên sang bên dưới xiên, góc nghiêng 45 độ, dây trung âm dày và xanh, âm thanh đầy đặn. Khi chơi, ngón áp út có xu hướng nghỉ ngơi trên dây zheng một cách tự nhiên, để hỗ trợ bàn tay và giữ cho bàn tay thư giãn tự nhiên. Phương pháp clip là phương pháp cơ bản cho người mới bắt đầu chơi diều, và nó cũng là phương pháp cơ bản cho các kỹ thuật truyền thống. Phương pháp lướt dây: Hướng của các ngón tay chơi dây là từ xiên bên dưới đến xiên ở trên, góc nghiêng 45 độ, phát âm rõ nét và chất lượng âm thanh rõ ràng. Khi chơi, họ thường chơi mà không cần hỗ trợ. Trong quá trình huấn luyện cơ bản, thủ hình bàn tay không nên căng thẳng, và sự thư giãn tự nhiên của nửa nắm tay vẫn nên được duy trì. Nâng cao là một kỹ thuật quan trọng để thực hành nhanh chóng. Ngoài hai phương pháp cơ bản này, độ sâu của cảm ứng, sự điều chỉnh góc của cảm ứng, tốc độ và sức mạnh của cảm ứng đều mang lại những thay đổi lớn cho cách phát âm của cổ tranh. Trong đào tạo cơ bản, bạn phải học cách làm chủ các dây khác nhau, học cách điều chỉnh góc, độ mạnh và tốc độ của dây và áp dụng chúng vào hiệu suất của âm nhạc một cách tự do.
Các phiên bản khác của đàn tranh
Cổ tranh 9 dây
Cổ tranh 9 dây () là phiên bản cổ tranh nhỏ gồm 9 dây đàn và chín con nhạn dành cho người tập chơi, đặc biệt là trẻ em. Ngoài ra còn có Cổ tranh liên chỉ khí () cũng dành cho người mới chơi. Cấu tạo của nó mô phỏng cổ tranh, thay thế con nhạn bằng 1 thanh gỗ dài mắc chéo dưới dây trên mặt đàn.
Cổ tranh điện
Cổ tranh điện là loại đàn tranh Trung Quốc được gắn thêm những pickup nam châm để khuếch đại âm thanh thông qua một amplifier hay PA system (hệ thống phân bố và khuếch đại âm thanh điện tử thông qua microphone, amplifier và loa).
Cổ tranh 27, 36 và 39 dây
Cổ tranh 36 dây () được tạo ra vào năm 1972 bởi Trương Chí Nhạc thuộc Nhà máy Nhạc cụ Tô Châu của tỉnh Giang Tô, những chiếc cổ tranh được kích hoạt bằng bàn đạp pedal đã xuất hiện để giải quyết những vấn đề tương tự như cổ tranh 21 dây hay đàn sắt đã điều chế trước đó - và có một số hạn chế tương tự.
Đây là một loại cổ tranh với 36 dây đi kèm với 36 con nhạn được thực hiện trong khoảng thời gian đó, nó được điều chỉnh theo thang độ diatonic phương Tây. Biến thể của nó bổ sung thêm 3 dây & 3 con nhạn gọi là cổ tranh 39 dây (39弦筝). Loại 27 dây âm trầm được gọi là nhị thập thất huyền đê âm tranh (27弦低音箏).
Cổ tranh 44 dây
Một loại cổ tranh năm 1972 được tạo bởi Trương Chí Nhạc của Nhà máy nhạc cụ Tô Châu của tỉnh Giang Tô. Nó có 44 dây được điều chỉnh theo thang độ diatonic
Đàn tranh đa âm
Đàn tranh đa âm () hay gọi tắt là Đa thanh tranh (多声筝) được phát triển vào năm 2011 bởi giáo sư Lý Manh (李萌). Nó thực sự là hai chiếc đàn tranh kết hợp với nhau; có 21 dây được điều chỉnh theo thang âm cho phía bên phải, với 16 dây bổ sung được điều chỉnh theo âm giai ngũ cung ở phía bên trái. Có biểu đồ điều chỉnh bên dưới. Phạm vi của hai bên gần giống nhau, với bên 21 dây có tone A sâu hơn và dây 16 có tone D cao hơn
Du nhập vào các quốc gia khác của châu Á
Mông Cổ
phải|thumb|Đàn tranh yatga của Mông Cổ với hộp điều âm được mở ra bên cạnh chiếc cờ lê
Yatga yatug-a, tiếng Mông Cổ: ятга yatga; ; tiếng Trung: 雅托葛) là loại đàn tranh của người Mông Cổ. Yatga có thể khác nhau về kích thước, điều chỉnh số lượng ngựa đàn và dây; Thân đàn là một hộp gỗ dài, một đầu của nó được đặt nghiêng xuống. Người biểu diễn gảy đàn bằng phần thịt đầu ngón của bàn tay phải; tay trái được sử dụng để nhấn lên dây đàn, thay đổi nốt nhạc. Tay trái cũng có thể được sử dụng để chơi các dải bass mà không cần plectrum (picks). Tùy thuộc vào kiểu dáng, các dây có âm sắc cao hơn được chọn bằng ngón tay hoặc bằng cách chọn. Loại yatga phổ biến nhất trong sử dụng đương đại là phiên bản 21 dây. Loại yatga này còn được gọi là "Master Yatga." Chiều dài của một nhạc cụ kích thước đầy đủ là 1,62m hoặc 63 inch. Các phiên bản ngắn hơn được lên nốt cao hơn. Một phiên bản 13 dây được gọi là "Gariin Yatga" (Hand Yatga).
Các yatga có nguồn gốc từ cổ tranh Trung Quốc. Có một giả thuyết cho rằng, đàn sắt Trung Quốc loại 24 dây có phần đuôi đàn bẻ quặt xuống được du nhập vào Mông Cổ thời nhà Nguyên năm 1800 với chiều dài 223,8 cm hoặc 88 inch, người Mông Cổ gọi nó là yatga. Trong lịch sử Mông Cổ, do 24 dây của đàn sắt diễn tấu khó nên họ nghĩ ra phiên bản 12 dây được sử dụng tại triều đình vì lý do tượng trưng; 12 dây tương ứng với 12 cấp bậc của cung điện. Những người bình dân đã phải chơi trên một yatga 10 dây. Việc sử dụng phiên bản 12 dây trở lên được dành riêng cho triều đình và tu viện.
Sử thi truyền thống của người Mông Cổ, Janggar kể về câu chuyện của một nàng công chúa trẻ đã từng chơi trên một chiếc yatga 800 dây với 82 con nhạn; cô ấy được cho là chỉ chơi ở 7 ngựa đàn thấp hơn.
Nhật Bản
Koto (tiếng Nhật: 箏), đôi khi gọi là Sō (tranh) là loại đàn tranh phổ biến nhất của xứ sở mặt trời mọc. Một nghệ sĩ đang chơi đàn tranh koto Những phát hiện khảo cổ học cho thấy từ thời Yayoi hoặc Nara ở Nhật Bản đã có loại đàn 6 dây hoặc 5 dây được người Nhật gọi là Wagon hoặc Yamatogoto (đều viết là 和琴) giống với đàn koto ngày nay. Dân tộc Ainu ở Nhật Bản có đàn truyền thống giống đàn koto. Có thuyết cho rằng đàn này có nguồn gốc từ cây đàn do Mông Điềm, người nước Tần, sáng chế (xem đàn koto phần history). Từ thời cổ, Koto được gọi là "Wagon" (Hòa cầm) hay "Yamato goto" (Đại Hòa cầm) và là một loại nhạc cụ trong Nhã nhạc.
Trong kho báu của vương triều Nhật Bản có một nhạc cụ tên là Sinlageum (Kanji: 新羅琴, Hiragana: しらぎ ごと, Hangul: 신라금), tương truyền có nguồn gốc từ Tân La, Triều Tiên du nhập sang. Cây đàn tranh Sillageum trông giống đàn tranh Jeongak Gayageum Hàn Quốc hiện nay, nhưng kích cỡ nhỏ gọn hơn và có dây đeo. Do đó, có phỏng đoán rằng người xưa quàng dây đeo cây đàn này lên người để diễn tấu.
Triều Tiên và Hàn Quốc
Gayageum
thumb|Một nghệ sỹ chơi đàn tranh gayageum loại 12 dây Gayageum (hangul: 가야금, Hán Việt: Già da cầm) là đàn tranh của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Đại Hàn Dân quốc. Theo Tam quốc sử ký (hangul: 삼국사기) của Đại Hàn ghi lại về xuất xứ của đàn tranh 12 dây Gayageum. Trước khi có đàn tranh gayageum, người Triều Tiên có loại đàn gọi là Đại tranh (Daejaeng 대쟁; Hanja: 大箏). Trong thời đại Cao Ly, nó được sử dụng hoà tấu trong dàn nhạc nhã nhạc Gugak. Sau đó, ở Cao Ly, chủ yếu:
- Chỉ được sử dụng cho nhạc Munmyo jeryeak (Văn miếu tế lễ nhạc). Kích thước đàn chơi cho nhã nhạc và chính thống hiện tại.
- Nó dường như lớn hơn một chút so với gayageum. Mặt đàn được làm bằng gỗ cây ngô đồng và đáy đàn được làm bằng gỗ hạt dẻ. Độ dày của dây lớn hơn gayageum, dày nhất và dần dần mỏng hơn, đạt 15 dây. Sự xuất hiện của nó tương đương đàn tranh dùng vĩ kéo Ajaeng, mặt uốn cong được uốn cong xuống phía dưới giữa đuôi đàn với giá đỡ.
- Với gỗ đen ở bốn góc và không có hình ở giữa. Một số điều chỉnh và chuyển ngữ có các dây tạo ra hai âm sắc trong một bản nhạc, như cách thể hiện trong dàn nhạc chính thống gugak.
- Trong triều đại Joseon, nó chỉ được sử dụng ở Dangak. Họ đã sử dụng các sợi tơ đầy màu sắc hoặc sợi bông màu xanh lam.
Trước khi có đàn tranh gayageum, một mảnh tàn tích của cây đàn tranh 10 dây được khai quật từ tàn tích của Thời đại đồ sắt ở Sinchang-dong, Gwangju vào năm 1997. Khám phá này đã gây ra sự quan tâm mới trong sự ra đời và phát triển của các nhạc cụ có dây cổ xưa. Các tấm gỗ của nhạc cụ dây này, được cho là đã được thực hiện trong thế kỷ đầu tiên trước Công nguyên. Hình dạng cơ bản của cây đàn tranh là làm từ gỗ và mặt đàn thuôn tròn giống chiếc chai, với một lỗ nhỏ ở đầu cố định một dây, và một hình chữ U ở đầu kia. Phần hình chữ U được nối với phần nhô ra hình tam giác ngược với hai lỗ vuông nhỏ. Lỗ nhỏ hình vuông ở một đầu của phần nhô ra được cho là được sử dụng để ghép chặt một thiết bị cố định dây riêng biệt. 2 trục lớn phần đuôi đàn đóng vai trò buộc dây bằng cách chèn nó vào cầu đàn. Kích thước của lỗ khớp là 2,3 cm x 1,8 đến 1,9 cm, độ sâu là 6,4 cm và khoảng cách giữa hai lỗ khoảng 2,4 cm. Chiều rộng tối đa còn lại của ống cộng hưởng là 15,9 cm (chiều rộng tối đa của phục hồi là 28,4 cm) và độ dày của phần hình chữ U là 5,7 cm. Phần trung tâm của tấm gỗ có hình chữ U, và bên trong được đào để lại chu vi. Một phần của phần dưới được đào thành hình chữ V, và sau đó một lỗ được khoan bên trong. Đó là một vòng tròn nhỏ có đường kính khoảng 0,3 cm và khoảng cách giữa các đường là khoảng 2,3 cm. Có sáu lỗ còn lại. Do đó, mặc dù người ta ước tính rằng 10 đến 12 chuỗi đã được phát trên thông cáo báo chí lần đầu tiên giới thiệu việc khai quật cổ vật, sự phục hồi đã xác nhận rằng đàn tranh này có 10 dây và 10 con nhạn hình chữ A.
Gayageum được Gasilwang (가실왕 Gia Tất Vương) của vương quốc Gaya sáng chế. Trên thực tế, khi nhắc đến đàn tranh 12 dây Gayageum, thì người Hàn Quốc nhớ tới tên nhạc gia Wureuk (우륵 Vu Lặc), hơn là vua Gasil. Truyền rằng, Gaya là một vương quốc được hình thành từ 12 bộ tộc dùng các ngôn ngữ khác nhau. Lo ngại việc các bộ tộc không thể thông tin và hiểu nhau do khác biệt về ngôn ngữ, vua Gasil đã chế tác đàn tranh 12 dây Gayageum và ra lệnh cho nhạc gia Wureuk sáng tác nhạc phẩm, với niềm tin âm nhạc sẽ kết nối hiệu quả hơn ngôn ngữ. Hiểu ý nguyện của nhà vua, nhạc gia Wureuk đã sáng tác 12 nhạc phẩm. Đó là câu chuyện trong thế kỷ thứ VI. Tới nay, sau 1500 năm, đàn tranh 12 dây Gayageum vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Vua Gasil của vương quốc Gaya những mong dùng âm nhạc để đoàn kết lòng dân và dẫn dắt quốc gia, nhưng thời thế đã không thuận theo mong ước của Gaya. Trước sự lớn mạnh của vương triều Silla, trong lúc vận mệnh của Gaya như ngọn đèn dầu trước gió, nhạc gia Wureuk đã mang cây đàn tranh 12 dây Gayageum tới Silla tị nạn. Không có sử sách nào ghi lại lý do nhạc gia Wureuk đưa ra quyết định này. Nhưng có lẽ là một nhạc gia, ông đã lựa chọn cách này để bảo vệ âm nhạc trước nguy cơ biến mất của âm nhạc một nước bại trận. Vua Jinheung (진흥 Chân Hưng) của Silla (Tân La) đã nhiệt liệt chào đón nhạc gia Wureuk, nhưng các quần thần lại kịch liệt phản đối vì lo ngại quốc gia sẽ trở nên rối ren nếu đưa vào sử dụng âm nhạc của một vương quốc vong tàn. Là một vị vua có tầm nhìn xa và quyết đoán, mặc dù vấp phải sự phản đối của quần thần, nhưng vua Chân Hưng vẫn cử ba người theo học âm nhạc và vũ đạo của nhạc gia Vu Lặc. Sau khi kế tục hoàn thiện âm nhạc của nhạc gia, các nhạc công trẻ đã sáng tác mới và tóm tắt 5 nhạc phẩm tiêu biểu nhất dành cho đàn tranh 12 dây Gayageum. Nói một cách khác, là họ đã diễn tấu âm nhạc Gayageum theo lối Tân La. Ban đầu, nhạc gia Vu Lặc đã nổi giận do học trò của mình đơn phương cải biến nhạc phẩm chính ông sáng tác. Song nghe xong bản nhạc biến tấu của học trò, Vu Lặc đã có lời bình rằng "Bản nhạc nghe vui nhưng không quá mức, có đoạn buồn nhưng không cảm thấy bi ai. Có thể nói đây là một loại hình âm nhạc mẫu mực, các trò có thể trình diễn trước quân vương".
Các loại gayageum bao gồm: gaeryang gayageum (개량 가야금) có 17 dây, beopgeum (법금 Pháp cầm) 12 dây và nó còn gọi là pungyu gayageum (풍류 가야금), sanjo gayageum (산조 가야금), jeongak gayageum (정악 가야금) 18 dây, gayageum 25 dây (25 현 가야금).
Trong đó, lịch sử của loại gaeryang gayageum bao gồm các loại sau: 15 dây: Gayageum đã được mở rộng bằng cách tăng số dây đàn tranh gayageum hiện có từ 12 lên 15 dây. Năm 1967, Sung Geum Ryun, nổi tiếng với gayageum Sanjo, được diễn tấu nhiều.
17 dây: Gayageum được cải thiện bởi Giáo sư Hwang Byung-ju. Gayageum truyền thống là jeongak là Gayageum jeongak, Sanjo và dân gian âm nhạc, do sự phối hợp khác nhau cho Sanjo Gayageum 17 dây. Còn jeongak gayageum khi diễn tấu có nét tương đồng với âm sắc nhã nhạc cung đình Huế, nhất là khi diễn tấu bản nhạc Junggwangjigok Taryeong 중광지곡 타령.
18 dây: Gayageum nhằm mục đích mở rộng phạm vi bằng cách tăng số lượng dây lên 18. Nó được phát triển bởi Park Il-hoon vào năm 1988.
21 dây: Gayageum được cải thiện bởi Giáo sư Lee Sung-Chun. Số lượng dây gayageum đã được tăng lên rất nhiều, mở rộng phạm vi.
22 dây: Loại này tăng số dây gayageum lên 22. Park Bum-hoon được cải tạo vào năm 1995 để kỷ niệm buổi hòa nhạc thành lập Dàn nhạc truyền thống Quốc gia Hàn Quốc.
23 dây: Dahyun gayageum được phát triển bởi người chơi gayageum Cheon Ik-chang. Gayageum được sử dụng bởi Cheon Ikchang, con trai của Cheon Ik-chang, là 23 và 25 dây. Dây đàn cũng được cải tiến từ chất liệu tơ lụa thành dây kim loại, nên loại đàn này được gọi là Cheolgayageum (đàn tranh dây sắt). Dần dần xuất hiện các loại đàn 13 dây, 15 dây, 17 dây, 21 dây, đến giờ có cả đàn tranh 25 dây sắt.
Geomungo
thumb|Đàn tranh geomungo truyền thống 6 dây left|thumbnail|Đàn tranh geomungo loại 11 dây Geomungo (거문고): Theo sự tích về cây đàn tranh 6 dây Geomungo của Hàn Quốc được ghi trong sử sách, xưa kia dưới thời Cao Câu Ly ở Hàn Quốc, có một cây đàn được gửi sang từ cổ cầm Trung Quốc nhưng người Cao Câu Ly khi đó không biết đây là loại nhạc cụ gì và cách tấu ra sao. Thấy vậy, tể tướng Vương Sơn Nhạc (왕산악) liền cải tiến cây đàn và sáng tác một thể loại âm nhạc mới có thể tấu với cây đàn. Khi âm thanh của cây đàn vang lên trầm bổng, du dương thì một chú hạc đen từ đâu bay tới nhún nhảy trên nền âm điệu mới mẻ này. Điểm nhấn trong sự tích về cây đàn tranh 6 dây Geomungo không phải là sự xuất hiện của loài hạc đen trên thế gian này, mà ở chỗ đến hạc cũng phải cao hứng nhảy múa khi nghe tiếng đàn tranh 6 dây geomungo do tể tướng Vương Sơn Nhạc diễn tấu. Ở phương Đông, hạc là loài vật tượng trưng cho sự thái bình, thịnh vượng. Âm nhạc giao hòa cùng thiên nhiên, tạo nên khung cảnh thái bình, yên vui, nơi con người và loài vật cùng chung sống trong hòa bình và yêu thương chính là niềm mong ước của người xưa gửi gắm qua cây đàn tranh 6 dây Geomungo (hay còn được gọi là huyền cầm - tức hyeongeum).
Dodeuri (도드리) là thể loại âm nhạc thường được chơi bằng đàn tranh 6 dây geomungo. Âm nhạc Dodeuri có sáu phách trong một nhịp, tốc độ vừa phải, không nhanh cũng không chậm. Mỗi phách mang một âm và các âm sắc cũng hết sức chân phương, có thể sẽ khiến những người sống trong xã hội hiện đại đã quen với những âm điệu nhanh và hào nhoáng, cảm thấy nhàm chán. Nhưng những điều phức tạp, hào nhoáng, cũng giống như những món ăn có gia vị mạnh thì thi thoảng chúng ta mới thưởng thức, còn những món có vị thuần và nhạt như cơm hay nước thì ngày nào, bữa nào chúng ta cũng cần tới. Những điều giản dị, không tô vẽ, thêm thắt mà chỉ thuần túy như bản chất vốn có, sẽ mang lại sự bình an trong tâm hồn của mỗi con người, và đây chính là lối sống mà giới học giả xưa ở Hàn Quốc hướng tới. Thứ âm nhạc giúp con người ta có thể cảm nhận được thế giới tâm hồn này chính là âm nhạc được tấu bằng cây đàn tranh 6 dây Geomungo. Giới khoa học ngày nay đã phát hiện ra hình khắc vẽ một loại nhạc cụ trông gần giống với cây đàn tranh 6 dây Geomungo được vẽ trên bức tường mộ thời Goguryeo, trước cả thời của tể tướng Wang San-ak. Việc cải tiến nhạc cụ được mang tới từ Trung Quốc trở thành nhạc cụ của Goguryeo thể hiện quá trình dịch chuyển, biến đổi và phát triển của "văn hóa".
"Geomungo Byeongchang (거문고 병창)" - Thể loại âm nhạc vừa hát ả đào vừa tấu đàn tranh 6 dây geomungo trong âm nhạc truyền thống của Hàn Quốc, thể loại âm nhạc vừa tấu đàn vừa hát được gọi là byeongchang. Người nghệ sĩ theo đuổi thể loại âm nhạc này sẽ vừa phải hát hay lại vừa phải đàn giỏi. Người khởi xướng dòng nhạc vừa tấu đàn tranh 6 dây Geomungo vừa hát "Geomungo Byeongchang" chính là nghệ nhân Shin Kwae-dong. Giờ đây, chỉ còn một học trò duy nhất của nghệ nhân Shin Kwae-dong có thể trình diễn hoàn hảo lối âm nhạc vừa tấu đàn tranh 6 dây Geomungo vừa hát ả đào byeongchang này. Trong một thời gian dài, đàn tranh 6 dây Geomungo đã từng là loại nhạc cụ ưa thích của giới học giả ở Hàn Quốc. Ở cuối thời đại Joseon, cây đàn tranh 6 dây Geomungo được dùng để chơi các thể loại âm nhạc dân gian, thể hiện mọi cung bậc cảm xúc tâm hồn của con người như niềm vui, nỗi buồn, niềm hạnh phúc, sự tức giận, khiến giới học giả bất bình và tặc lưỡi cho rằng đàn tranh 6 dây Geomungo đã hết thời.
Trong khi đó, các học giả Nhật Bản cho rằng tiền thân của geomungo là Ngọa không hầu (卧箜篌), một loại đàn tranh có phím tre đỡ dây đàn được sử dụng ở Trung Quốc ít nhất là từ thời Tây Hán tới thời Đường rồi bị thất truyền từ thời nhà Minh, có nhiều ý kiến và giả thiết gây tranh cãi về tiền thân của Geomungo vẫn còn được thảo luận ở Đông Á (không nên nhầm lẫn giữa Ngọa không hầu với 2 loại không hầu Trung Quốc có cấu tạo tương đồng đàn hạc phương Tây). Nguyên mẫu của loại đàn tranh này được vẽ trong lăng mộ Goguryeo. Chúng được tìm thấy trong lăng mộ Muyongchong và lăng mộ Anak số 3. Ngọa không hầu Trung Quốc có 7 dây trong khi geomungo truyền thống chỉ có 6 dây.
Ajaeng
thumb|Đàn tranh Ajaeng dòng [[Jeongak]] Đàn tranh Ajaeng (아쟁) du nhập vào Hàn Quốc từ thời Cao Ly (thế kỷ X – XIV). Tới thời Joseon, nhạc cụ này chủ yếu chỉ được dùng để tấu nhạc cung đình. Trọng tâm của âm nhạc cung đình Hàn Quốc là sự hài hòa với vũ trụ, thế gian, chứ không mang mục đích lay động lòng người nên có nhịp điệu chậm, hùng tráng. Bởi vậy, âm thanh trầm và sâu lắng của đàn tranh Ajaeng rất phù hợp với âm nhạc cung đình.
Truyền rằng, đàn tranh Ajaeng có nguồn gốc từ đàn yết tranh Trung Quốc và xuất hiện ở Hàn Quốc từ thời Cao Ly (thế kỷ 10-14). Lúc đầu người ta thường dùng đàn Ajaeng để chơi nhạc Trung Quốc, dần dà Ajaeng đã trở thành nhạc khí không thể thiếu trong dàn hòa tấu âm nhạc truyền thống Hàn Quốc. Âm thanh đàn tranh Ajaeng trầm, thường làm nền trắc cho âm điệu của dàn nhạc. Nhưng khi độc tấu, thì âm thanh trầm có phần hơi thô của đàn Ajaeng như muốn khơi dậy cảm giác não nùng từ tâm can mỗi con người.
Thời Joseon, một nhà quý tộc có tên là Kim Un-ran, ông bị bệnh về mắt và mất thị lực từ khi còn rất trẻ. Thời bấy giờ, những người mù thường làm thầy bói là công việc của tầng lớp dân hạ đẳng nhất trong xã hội. Nhà quí tộc Kim Un-ran thường mượn tiếng đàn tranh Ajaeng thổ lộ nỗi hận và tâm cảm buồn rầu của mình. Truyện kể rằng, có lần nhà quí tộc Kim Un-ran dừng bước và ngồi kéo đàn tranh Ajaeng bên ngoài hàng rào một ngôi đền. Tiếng đàn nghe da diết não nùng buồn thảm. Bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc vọng ra từ trong đền. Tiếng đàn Ajaeng của Kim Un-ran đã làm các hồn ma trong đền chùa thức tỉnh. Ông hoảng hốt cầm đàn bỏ chạy, còn các hồn ma chắc cũng thán phục khả năng chơi đàn Ajaeng xuất chúng của ông.
Việt Nam
Nghệ sĩ chơi đàn tranh trong đờn ca tài tử
Nguồn gốc đàn tranh Việt Nam là đàn tranh giống như đàn sắt và đàn cổ tranh nhưng vì loại đàn tranh truyền thống của Việt Nam là 16 dây nên xuất xứ của nó chính là đàn thập lục cương huyền tranh () từ Triều Châu,Trung Quốc và Đài Loan truyền sang nước Việt có thể từ đời nhà Trần hay trước nữa, dùng trong dân gian dưới dạng 15 dây,16, 17, 19 dây và 22, 24 và hiện đại hơn là 26 dây; từ xưa đến giờ thay đổi số dây từ dây tơ tổng hợp sang dây cước, dây đồng đến dây thép và cải biên thêm trục đàn để mắc dây. Đây là điểm đặc biệt của đàn tranh Việt Nam và Triều Châu, Đài Loan có được mà các loại đàn tranh Á Đông khác không hề có. Riêng loại 16 dây tại Triều Châu có trước tiên. Qua 7, 8 thế kỷ, người nước Việt dùng và bản địa hóa nó, tạo cho nó phong cách đặc thù trong thủ pháp, ngón đàn, tay nhấn nhá, trong thang âm điệu thức, biến nó trở thành một loại nhạc cụ bản địa mang tính dân tộc, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Việt, và nói rõ ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam.
Cấu tạo
Trung Quốc và Việt Nam
Đàn tranh và cổ tranh Trung Quốc (kể cả đàn sắt của Trung Quốc) đều có dạng hình hộp dài. Khung đàn hình thang có chiều dài 110–120 cm. Đầu lớn rộng khoảng 25–30 cm là đầu có lỗ và con nhạn để mắc dây (trán đàn), khoảng cách giữa cầu đàn và trán đàn của đàn tranh Việt Nam và Triều Châu (Trung Quốc) người ta thay thế lỗ xỏ dây đàn bằng cách lắp đinh vít (thường là vít đồng) để buộc cố định dây. Đầu nhỏ rộng khoảng 15–20 cm gắn 16 tới 25 khóa lên dây chéo qua mặt đàn (đàn sắt lên tới 50 khoá). Mặt đàn làm bằng ván gỗ ngô đồng dày khoảng 0,05 cm uốn hình vòm. Ngựa đàn (còn gọi là con nhạn- 雁柱) nằm ở khoảng giữa để gác dây và có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh. Riêng cấu tạo đàn sắt gồm 25-50 ngựa đàn mắc với 25-50 dây. Dây đàn sắt được túm gọn và cuộn chặt cố định bằng 4 trục đàn lớn. Riêng với đàn sắt của Triều Tiên (Hangul: 슬, seul) thì thiết kế của nó tương tự như cổ tranh Trung Quốc, yatga Mông Cổ và mặt đàn được vẽ lên những chi tiết hoa lá chim muông tinh xảo, còn cổ tranh của Đài Loan sử dụng dây kép.
Dây đàn làm bằng kim loại với các cỡ dây khác nhau. Ngày xưa cổ tranh Trung Quốc dùng dây tơ. Khi biểu diễn nghệ nhân thường đeo ba móng gẩy vào ngón cái, trỏ và ngón giữa của tay phải để gẩy. Móng gẩy làm bằng các chất liệu khác nhau như kim loại, sừng hoặc đồi mồi . Cổ tranh Trung Quốc thông thường khi diễn tấu phải đeo tất cả tám móng giả; đeo vào ngón cái, ngón trỏ, ngón áp út và ngón út. Riêng móng của ngón cái là cong hơn so với 3 ngón còn lại. Thứ tự dây cổ tranh tương đương với 5 thang âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ và 21 dây của cổ tranh phân theo 5 âm khu: bội âm trầm, âm trầm, âm trung, âm cao và bội âm cao. thumb|Móng gảy đàn cổ tranh Trung Quốc Chỉ có đàn tranh Việt Nam và Đài Loan mới có trục đàn để lên dây, trục đàn đặt trên mặt đàn còn để giữ một đầu dây xếp hàng chéo do độ ngắn dài của dây, tạo âm thanh cao thấp, trục đàn tốt thường được làm bằng gỗ Trắc, gỗ cẩm lai hoặc gỗ gụ vì những loại đàn tranh còn lại là koto (Nhật), gayageum (Hàn Quốc), yatga (Mông Cổ) và cổ tranh (Trung Quốc) không hề có trục đàn thì phần chỉnh dây đàn được giấu trong hộp điều âm ở cầu đàn bên trái. Khi mở hộp ra phần chỉnh dây đàn gọi là chốt dây, và người ta sử dụng cờ lê chuyên dụng cho việc lên dây đàn để lên dây sau đó vặn chốt ngược chiều kim đồng hồ trước khi xếp ngựa đàn (con nhạn) để mắc dây; khi mắc ngựa đàn vào dây sẽ dùng cờ lê vặn chiều xuôi chốt lại để giữ chặt.
Con nhạn đàn tranh Việt Nam có một lỗ xâu dây cước hay dây tơ tổng hợp nhỏ. Đây là lý do khiến các dòng đàn tranh Á Đông không có, vì ngựa đàn tranh khi mua về đã được lắp đặt cố định, còn những đàn tranh kia thì phải lắp con nhạn trước khi gảy. Con nhạn cổ tranh song song với hộp điều âm và khoảng cách giữa con nhạn và hộp điều âm là tiền nhạc sơn (bên phải), hậu nhạc sơn là bên tay trái của con nhạn. Con nhạn của đàn sắt, đàn cổ tranh Trung Quốc, yatga Mông Cổ hay đàn tranh Việt Nam đều sử dụng con nhạn hình chiếc kìm chữ A mỏ vuông. Đàn cổ tranh Trung Quốc gồm hai loại chính là 整挖筝 (chính oát tranh) và 拼面筝 (bính diện tranh).
Mông Cổ
thumb|left|Ảnh chụp một phần của đàn tranh yatga Mông Cổ.
Đàn được thiết kế như một hộp với bề mặt lồi và uốn cong về phía cuối. Các dây được gảy và tạo âm thanh khá mềm mại. Ở Mông Cổ, đây là nhạc cụ được coi là bất khả xâm phạm và được chơi trong nghi lễ, ràng buộc với những điều cấm kị. Yatga được sử dụng chủ yếu tại triều đình và trong các tu viện từ khi các dây tượng trưng cho mười hai cấp độ của hệ thống phân cấp cung điện.
Mục đồng bị cấm chơi đàn tranh yatga 13 dây, nhưng họ được phép chơi đàn tranh yatga mười dây, cũng được sử dụng cho thời gian giải lao trong lần trì tụng sử thi. Loại yatga 13 dây có ngoại hình tương tự đàn tranh sanjo gayageum 12 dây của Hàn Quốc.
Người Mông Cổ truyền thống chơi ba loại đàn tranh yatga, phân biệt bằng hộp cộng hưởng hoặc thân đàn rỗng mà âm thanh được khuếch đại.
Nhật Bản
thumb|Cấu tạo đàn tranh koto của Nhật Để làm ra đàn koto, trước tiên người thợ xẻ đốn gỗ từ cây Hông. Quy trình đó dùng để làm mặt đàn. Kích thước gần đúng của một cây koto là: :Chiều dài 164,5 cm (64 3/4 in.) :Chiều rộng 32,4 cm (12 3/4 in.) :Chiều cao 24,1 cm (9,5 in. Bao gồm cả cầu đàn)
Gỗ được chuẩn bị để sản xuất đàn koto thường là những khối lớn và cần được xẻ ra thành các tấm gỗ có kích thước khác nhau dựa theo yêu cầu thiết kế và uốn cong tấm gỗ thành mặt đàn. Người thợ tiến hành bước này phải có sự tính toán tỉ mỉ để lượng gỗ đã được chuẩn bị từ trước được xẻ ra không bị thiếu hay thừa, đảm bảo sản phẩm được hoàn thiện tốt. Sau khi xẻ gỗ xong, thành phẩm sẽ được ngâm qua các hóa chất chống mối mọt và mặt sau của ván gỗ uốn cong thành mặt đàn người thợ khắc hình zigzag đều nhau thẳng hàng; kế tiếp, người thợ nung nóng một thanh sắt để đốt cháy mặt đàn. Biện pháp này giúp cho đàn làm ra bền hơn, khó bị các loại côn trùng mối mọt tấn công.
Sau đó, lấy một tấm gỗ nhẵn khác ốp lên mặt sau của mặt đàn. Tiếp theo, lấy nẹp gỗ và dây thừng để cố định đàn và dùng giấy ráp để làm nhẵn mặt đàn và phết nước sơn làm bóng mặt đàn. Sau đó, lấy một tấm gỗ nhẵn khác ốp lên mặt sau của mặt đàn. Tiếp theo, lấy nẹp gỗ và dây thừng để cố định đàn và dùng giấy ráp để làm nhẵn mặt đàn và phết nước sơn làm bóng mặt đàn.
Thông thường, đàn koto có 13 dây. Từ thời Nara, số lượng dây đã như vậy, mặc dù vào thời Edo có một số cây đàn koto có hơn 13 dây. Từ thời Meiji thì đàn koto nhiều dây, nhất là loại đàn 17 dây, xuất hiện nhiều hơn. Có nhiều loại dây to hay mảnh khác nhau, thường là màu vàng mặc dù màu đỏ hay xanh lá cây cũng nhiều. Dây đàn truyền thống làm từ tơ tằm bện thành dây thừng sợi nhỏ và giống như nhiều đàn dây của Nhật Bản khác được bện từ 4 sợi tơ thành 1 dây đàn. Dây đàn ngày nay hầu hết làm từ chất liệu polyester. Dây đàn bằng polyester có độ căng tốt hơn nên âm dài hơn và tốt hơn, lại không lo bị đứt khi đang diễn tấu, giá thành chế tạo lại thấp hơn nhiều. Vì thế, đàn với dây bằng polyester ngày nay trở nên phổ biến. Ngày nay, phiên bản hiện đại của đàn koto với 25 dây thường sử dụng nylon bọc thép dây. Dây nylon cũng đã được giới thiệu để sản xuất một âm thanh to hơn, được ưa thích cho đi kèm vũ đạo. Để chơi âm nhạc hiện đại, koto với một số lượng lớn dây đàn đã được phát triển, tăng phạm vi của dây đàn. Koto có sẵn với 13, 17, 18, 21, 22, hoặc 25 dây, mặc dù các công cụ có dây khác đang có sẵn theo yêu cầu. Nhạn đàn và cầu đàn koto xưa làm bằng ngà voi. Tuy nhiên ngày nay do ngà voi đắt tiền, nên cầu đàn và nhạn đàn bằng chất liệu tổng hợp khá phổ biến, nhất là nhựa PVC. Có cây đàn koto mà cầu đàn và nhạn đàn làm bằng xương cá voi. Koto 80 dây, được gọi là hachijugen (kanji: 八十絃; hiragana: はちじゅげん) trong tiếng Nhật, là một phát minh của nhà soạn nhạc Nhật Bản Michio Miyagi, xuất hiện vào năm 1923. Ông đã thêm 67 dây vào thiết kế 13 dây truyền thống, âm sắc koto 80 dây trong trẻo giống như đàn hạc phương tây. Cùng với koto thông thường, 80 dây cung cấp một phạm vi cao hơn nhiều so với koto tiêu chuẩn. Nó được xem rộng rãi như một công cụ thử nghiệm ngắn.
Triều Tiên và Hàn Quốc
Gayageum
thumb|Đàn tranh gayageum được chơi cho dòng nhạc cung đình (jeongak) thumb|Phần chốt dây và búi dây trang trí của đàn tranh sanjo gayageum
thumb|right|Cấu tạo đàn tranh gayageum của Hàn Quốc cũng như Triều Tiên thumb|Đàn tranh Gayageum 15 dây
Dây đàn gayageum khá dày và được bện từ lụa tơ tằm. Âm nhạc Gayageum truyền thống có hai loại. Một loại là Gayageum tấu chính nhạc, hay còn gọi là Gayageum Beopgeum hoặc Gayageum phong lưu có lịch sử hình thành phát triển hơn 1500 năm. Nhưng khoảng cách giữa các dây đàn của nhạc cụ này xa nhau, nên khó có thể chơi được các bản nhạc có tiết tấu nhanh. Tới cuối thời Joseon, để có thể diễn tấu đa dạng âm nhạc, người ta đã cải tiến cây đàn tranh 12 dây Gayageum theo hướng nhỏ gọn hơn và có các dây đàn được mắc gần nhau hơn. Đàn tranh 12 dây Gayageum cải tiến thường được dùng để tấu nhạc dòng Sanjo hoặc đệm cho dân ca Minyo. Các ca nương thường dùng gayageum thường dùng để đệm hát những bài ả đào, gọi là hình thức gayageum byeongchang (강야금 병창). Sau này, khi âm nhạc châu Âu du nhập vào Hàn Quốc, đàn tranh Gayageum đã được cách tân một cách quả cảm mang sắc thái khác biệt hoàn toàn với Gayageum truyền thống và thời kỳ này bắt đầu xuất hiện đàn tranh Gayageum 13 dây, 15 dây, 18 dây... Gần đây, còn có cả đàn tranh Gayageum 25 dây diễn tấu âm nhạc sáng tác mới. Dây đàn cũng được sử dụng bằng chất liệu tơ lụa tổng hợp và người nghệ sĩ còn dùng cả hai tay để nhấn nhá búng gẩy dây đàn tạo âm thanh. Ngựa đàn (con nhạn) của gayageum rất đặc biệt, không như đàn sắt hay cổ tranh của Trung Quốc, ngựa đàn (con nhạn) gayageum có đầu tròn, cổ nhạn dài và đuôi nhạn cong 2 bên như chữ 人 (nhân) làm từ gỗ. Cụm từ 안족 (anjok - con nhạn) cũng ám chỉ chân con ngỗng trời. Đuôi đàn (yangidu) trông giống hai chiếc sừng cừu choãi sang hai bên. Cây đàn tranh 12 dây Gayageum trong những bức tượng đất nung thời Silla cũng có Yangidu. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng sau hàng nghìn năm, Gayageum vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Gayageum Jeongak là loại Gayageum cơ bản, nền tảng của đàn tranh 12 dây Gayageum, nên còn được gọi là Beopgeum, tức "pháp cầm", và Pungryu Gayageum, do thường được dùng để tấu nhạc phong lưu Pungryu của giới quý tộc
Trên mặt đàn, anjok (con nhạn) hỗ trợ cố định dây. Những con nhạn di chuyển để điều chỉnh thang âm trên dây đàn và ngữ điệu. Các dây nối liền vào đầu của thân đàn từ tolgwae (chốt dây) bên dưới. Ở đầu bên kia, dây quấn quanh các vòng ở đầu dây dày, đi qua đai ốc sau đó luồn qua các lỗ ở dưới cùng của đàn và được bảo đảm, sau đó tất cả các dây được buộc trong một cuộn dây trang trí. Loại này chỉ có ở gayageum 12 dây. Loại Gaeryang gayageum luôn có hộp điều âm, trong hộp có chứa phần chốt xỏ dây bằng kim loại và gần đây dòng đàn sanjo gayageum hay jeongak gayageum có gắn thêm bộ gắn thêm những pickup nam châm kiểu giống guitar điện để khuếch đại âm thanh thông qua một amplifier hay PA system (hệ thống phân bố và khuếch đại âm thanh điện tử thông qua microphone, amplifier và loa) gọi là Jeonja gayageum (전자 가야금). Ari gayageum (아리 가야금) có con nhạn hình chữ A tương tự đàn tranh dùng vĩ kéo jeongak ajaeng, nó có hộp điều âm chứa chốt chỉnh dây thay thế cho loại đàn tranh gayageum truyền thống.
Geomungo
Geomungo dài khoảng 162 cm và rộng 23 cm (dài 63,75 inch, rộng 9 inch) và có những con nhạn có thể di chuyển được gọi là anjok (안족) và 16 phím hình chữ nhật lớn nhỏ bằng tre xếp gần nhau để mắc dây (giống phím đàn đáy Việt Nam). Nó có một thân rỗng, nơi tấm trước của nhạc cụ được làm bằng gỗ cây hông và tấm phía sau được làm bằng gỗ hạt dẻ cứng. Sáu dây của nó, được làm bằng dây thừng bện từ lụa xoắn đi qua thân của nó. Que gảy geomungo được làm từ tre tương đương kích thước của chiếc bút chì. Ba dây đàn trực tiếp trên các phím có thể dừng lại trong khi ba dây còn lại là các dây mở. Chỉ có 3 dây đàn ở giữa của geomungo 6 dây mới có ngựa đàn mắc dây. Các dây còn lại được mắc bởi con nhạn anjok hình chữ "nhân" (人), geomungo 11 dây cũng vậy. Đầu đàn gọi là Jwadan (좌단), phím cố định nhỏ gọi là gwae, daemo là phần khoảng cách giữa phím nhỏ (괘 gwae) nhỏ nhất và cầu đàn (현침 hyeonchim). Gwiru (귀루) là phím lớn nhất mắc 3 dây giữa; các dây của geomungo 6 dây gồm có: munhyeon (무현 dây 1), yunhyeon (유현 dây 2), daehyeon (대현 dây 3), gwaesangcheon (괘상천 dây 4), gwaehacheon (괘하천 dây 5) và muhyeon (무현 dây 6). Ngoài ra còn có hakseul (학슬 nút thắt dây), budeul (부들 dây trang trí được tết thành búi giữ cho dây đàn tránh bị trùng và tuột), unjok (운족) là chân đàn, đuôi đàn là bongmi (봉미). Dưới đáy đàn gồm phần cộng hưởng (울림구맹 ulrimgumeong), que gảy (술대 suldae) và chốt dây (돌괘 tolgwe). Riêng dây thứ tư khi dùng que gảy, que sẽ chạm vào mặt đàn lẫn dây và sẽ có tiếng đàn lẫn tiếng đập que vào mặt đàn khi gảy mạnh.
Geomungo hiện đại hóa tăng lên 11 dây, được làm bằng nylon. Như với phiên bản truyền thống, ba dây vượt qua các phím đàn và các dây khác đều mở. Nhưng phiên bản truyền thống của geomungo có 6 dây, với ba phím đàn. Một loại geomungo cổ để tấu chính nhạc có tên hoehyeongeum (회현금) và các geomungo còn lại gồm sanjo geomungo (산조 거문고) và jeongak geomungo (정악 거문고). Một loại đàn tranh geomungo khác gọi là jayanggeum (자양금) chỉ có phím mà không cần những con nhạn anjok căng dây, do nghệ nhân Yu Jung-gyo (1821-1893) chế tác. Jayanggeum có 7 dây và nó được coi là phiên bản hoàn chỉnh của cổ cầm Trung Quốc (được đưa vào dàn nhạc tế lễ Văn miếu - Munmyo jeryeak 문묘제례).
Gần đây, geomungo 6 dây đã được cải tiến khá nhiều, với sự xuất hiện của geomungo điện tử (천차 거문고). Geomungo chơi với cung Hwaldae (활대 거문고) (giống như chơi ajaeng và có loại chỉ vỏn vẹn 3 dây thì dây giữa mắc bởi hàng phím đỡ bên dưới mà khi kéo phải để dọc đàn), hoặc loại geomungo có nhiều dây hơn, được thu thập; thu hút sự chú ý của các nghệ sĩ trẻ. Khi kéo đàn geomungo bằng vĩ, âm thanh của nó trầm hơn ajaeng rất nhiều.
Trong sự phát triển của văn hóa, bên cạnh những nghệ sĩ bảo tồn, kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc, có những nghệ sĩ thay đổi và hiện đại hóa văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ajaeng
Đàn tranh Ajaeng có thân đàn lớn làm bằng thân cây ngô đồng, cao hơn cả chiều cao của một người bình thường và có nhiều dây đàn được mắc ngang trên mặt bầu đàn (từ 8-12 dây). Dây đàn khá dày và được bện từ lụa tơ tằm. Gayageum, nhạc công có thể đặt lên đùi để diễn tấu, nhưng đối với đàn tranh Ajaeng họ phải kê lên kệ vì đàn to và nặng. Cung vĩ của đàn tranh Ajaeng được vót bằng cành cây hoa vàng mùa xuân Gaenari nên tốc độ biến âm chậm, không phù hợp để hòa âm cùng các nhạc cụ khác. Đàn tranh Ajaeng có âm thanh trầm nhất trong số các nhạc cụ truyền thống của Hàn Quốc. Giá đỡ đàn tranh ajaeng là chosang, cấu tạo của đàn tranh ajaeng gồm: đuôi đàn uốn cong xuống (미단 midan), cầu đàn (현침 hyeonchim), hakseul (학슬 nút thắt dây đàn), budeul (부들 búi dây trang trí, cố định để dây không bị tuột), ullimtong (울림통 đáy đàn chứa phần cộng hưởng), con nhạn (안족 anjok), đầu đàn (좌단 jwadan), dưới đáy đàn là tolgwe (돌괘 chốt dây) và cung vĩ để kéo (활 hwal). Cung vĩ thông thường chỉ là cành cây gaenari thì