✨Nghệ thuật Chămpa

Nghệ thuật Chămpa

Champa có nền văn minh Ấn hóa ở khu vực duyên hải miền Trung Việt Nam ngày nay trong thời gian từ năm 192 đến 1832 sau Công nguyên. Người Chăm có lẽ là những người có gốc từ các đảo Indonesia đến xâm chiếm khu vực này và họ đã mang theo những ngành nghề, nghệ thuật của Indonesia vào vùng đất này. Họ đã xây dựng các hải cảng giao thương với Ấn Độ, Trung Quốc và Indonesia. Trong lịch sử của Champa, quốc gia này đã trải qua những xung đột với các dân tộc khác như Java, Khmer, Đại Việt và cuối cùng đã bị các triều đại của Việt Nam thôn tín và xóa sổ quốc gia này.

Di sản của nghệ thuật của Champa để lại ngày nay gồm điêu khắc đá Chăm Pa, kiến trúc Champa, hội họa Chăm Pa và âm nhạc Champa, trong đó nổi bật nhất là kiến trúc và điêu khắc trong các tháp Chăm Pa. Các hiện vật về điêu khắc của Champa hiện nay được trưng bày tại Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng ở quận Hải Châu, Đà Nẵng.

Kiến trúc Champa

Một phần quang cảnh nhóm tháp B, C và D tại Mỹ Sơn. Kiến trúc Champa nổi bật với các tháp Chàm được xây bằng loại gạch đặc biệt, không dùng vữa kết dính nhưng vẫn vững bền theo thời gian. Gạch Champa luôn có màu sắc đỏ au và không bị rêu mốc. Quần thể tháp Champa ở thánh địa Mỹ Sơn là một di sản thế giới được UNESCO công nhận.

Các khu vực tháp Chăm Pa nổi bật khác có Po Nagar ở Nha Trang, tháp đôi Chăm Pa ở Quy Nhơn và tháp ở Phan Rang-Tháp Chàm tỉnh Ninh Thuận.

Điêu khắc Champa

Tượng nữ thần thuộc điêu khắc Chăm pa

Hội họa Champa

Âm nhạc Champa

Âm nhạc Champa phát triển rực rỡ, có ảnh hưởng lớn đến âm nhạc Việt Nam sau này, đặc biệt là hò Huế, Nam Ai, Nam Bằng, các điệu lý Nam Trung Bộ và Nam Bộ và đặc biệt là nhã nhạc cung đình Huế, một kiệt tác truyền khẩu phi vật thể.

Các phong cách nghệ thuật Chăm Pa

Giai đoạn nghệ thuật miền bắc: Thế kỷ 7 – thế kỷ 11

Từ thế kỷ thứ 4, người Chăm pa đã xây dựng đền thờ tại Mỹ Sơn nhưng không còn tới ngày nay. Các di tích đền tháp còn lại được phát hiện có niên đại sớm nhất cũng là vào nửa sau của thế kỷ thứ 7. Các ngôi đền tháp này thuộc thời gian này cho đến năm 980 đều thuộc cùng một giai đoạn là giai đoạn nghệ thuật miền bắc. Các tháp thuộc giai đoạn này đều đơn giản, làm bằng gạch nung màu đỏ, có chân đế là một khối hình chữ nhật, các mặt tháp đều có bố trí mi cửa ẩn, trừ hướng có cửa chính, trên đó có nhiều hình điều khắc của các vị thần. Mi cửa được đỡ bằng bộ khung các trụ bổ tường cao và hẹp cùng các đầu cột xòe ngang. Cũng chính các trụ bổ tường này đỡ vòm cửa. Trên vòm và trên các trụ bổ tường có chạm khắc các phù điêu theo thần thoại Ấn Độ, với các chạm khắc tập trung chính ở đầu cột. Mái tháp thường gồm ba tầng, mỗi tầng đều có bao lơn nhỏ ở phía trên mi cửa. Bên trong tháp đều có bệ thờ với hình ảnh triều đình theo kiểu Ấn Độ.

Theo các tác giả Philippe Stern (Nghệ thuật Champa, 1942) and Jean Boisselier (Điêu khắc Champa, 1963) được nhà sử học Jean-François Hubert tổng hợp thì có thể phân chia giai đoạn này thành các phong cách sau:

Phong cách Mỹ Sơn E1: Thế kỷ 7 - thế kỷ 8

Phong cách được xác định sớm nhất là Mỹ Sơn E1. Phong cách thời kỳ này phản ánh ảnh hưởng từ bên ngoài của văn hóa tiền Angkor và cả nghệ thuật Dvaravati và miền Nam Ấn Độ.

Tiêu biểu cho phong cách Mỹ Sơn E 1 là ở bệ thờ bên trong tháp làm bằng đá sa thạch có hình dạng linga tượng trưng cho ngọn núi là nhà của thần Si-va, xung quanh có chạm các tu sĩ đang tu luyện trong rừng núi hay hang động, với các hình dạng như đang chơi các loại nhạc cụ khác nhau, đang giáo hóa cho các loài vật và cả đang thư giãn. Một công trình tiêu biểu nữa là phù điêu ở trên lối vào chính chạm khắc buổi bình minh thời đại theo thần thoại Ấn Độ. Thần Vishnu đang nằm ngủ ở dưới đáy biển, trên giường là rắn thần Sesha. Một bông hoa sen từ từ mọc lên từ rốn của thần. Thần Brahma từ từ đứng lên trong bông hoa sen đó để tạo ra cả vũ trụ này.

Tập tin:Vishnu Brahma My Son E1.jpg|Bệ thờ chạm hình Brahma sinh ra từ hoa sen trên rốn của Vishnu. Tập tin:Musician on pedestal MySonE1.jpg|Một chi tiết từ bệ thờ Mỹ Sơn E1 tạc cảnh người thổi sáo. Tập tin:Master and Disciple.jpg|Một chi tiết khác tạc cảnh một thầy pháp đang thuyết giảng cho học trò. Tập tin:Male dancer My Son E1 pedestal.jpg|Cảnh một vũ công nam trên bậc thang dẫn lên bệ thờ Mỹ Sơn E1.

Phong cách Đồng Dương: Thế kỷ 9 - thế kỷ 10

Phong cách Đồng Dương mở đầu bằng các tháp Hòa Lai (nửa đầu thế kỷ 9) với các vòm cửa nhiều mũi tròn với các trụ bổ tường hình bát giác làm bằng đá sa thạch với các trang trí hình lá uốn cong. Sang Đồng Dương (nửa sau thế kỷ thứ 9) các trang trí chuyển thành những hình hoa lá hướng ra ngoài. Các tháp thuộc phong cách Đồng Dương đều có những hàng trụ bổ tường và vòm cửa khỏe khắn và có góc cạnh. Đây cũng là điểm khác biệt giữa phong cách Đồng Dương và Mỹ Sơn. Đỉnh cao của phong cách là kiến trúc một tu viện Phật giáo vào cuối thế kỷ 9. Bức tường tu viện dài đến một cây số và có rất nhiều tượng Phật. Rất tiếc là di tích đã bị phá hủy nhưng nhiều học giả cho rằng khi còn nguyên vẹn, di tích này cũng giống như các tu viện Phật giáo ở miền Bắc Ấn Độ. Một số hiện vật thuộc di tích còn được giữ lại ở các bảo tàng cho thấy điêu khắc thời kỳ này có tính uyển chuyển, phong phú và thể hiện những hình khắc gần gũi với chính người Chăm hơn là những ảnh tượng của các vị thần. Các bức tượng có mũi và môi dày và không hề cười. Các đề tài là Đức Phật, các vị sư, các hộ pháp dvarapalas, bồ tát Avalokiteshvara (Quán Thế Âm) và nữ thần tình thương Tara, người được xem là vợ của Avalokiteshvara.

Hình:Dvarapala Dong Duong Style.jpg|Tượng thuộc phong cách Đồng Dương, làm bằng đá sa thạch, cao 2,18 m, tả cảnh hộ pháp dvarapala đang dẫm lên ác quỷ. Hình:DD Dvarapala 00.jpg|Một hộ pháp dvarapala đang dẫm lên con bò đang nuốt một chiến binh. Hình:Tara Dong Duong Style.jpg|Tượng sa thạch thế kỷ thứ 9 tả cảnh Tara với hình tượng Amitabha (A Di Đà) đang ngồi trên tóc phía trên trán. Hình:Shiva Dong Duong Style.jpg|Bức tượng có thể là Kim Cương dharmapala. Bệ bên dưới (không có trong hình) là hình ảnh đầu của nữ thần kala. Hình:Kneeling_fat_man_Dong_Duong.jpg|Người đàn ông quỳ, thế kỉ 9. Hình:Vihara_pedestal_Dong_Duong_9th_to_10th_c.jpg|Các cung nữ trong bệ đá đang cười, thế kỉ 9 - 10. File:Boddhisattva Tara, view 1, Dong Duong, late 9 to early 10th century, Quang Nam, bronze - Museum of Cham Sculpture - Danang, Vietnam - DSC01735.JPG

Phong cách Mỹ Sơn A1: Thế kỷ 10 - thế kỷ 11

phải|nhỏ|Tượng Siva thuộc Viện [[Bảo tàng Guimet]] Ở phong cách này các trụ bổ tường đứng thành đôi một với bức tường hình người ở giữa như trong tháp Mỹ Sơn A1. Các vòm cửa có hình dáng phức tạp nhưng không chạm khắc. Thân tháp cao vút với các tầng dần thu nhỏ lại. Đây là thời kỳ chịu ảnh hưởng của Java và cũng là thời hoàng kim của Chăm Pa. Phong cách này đặt tên theo tòa tháp có cùng ký hiệu nhưng do hậu quả của chiến tranh đến nay không còn. Các tháp thuộc nhóm B, C và D trong khu di tích thánh địa Mỹ Sơn cũng thuộc phong cách này. Đến thời kỳ này, đối ngược với vẻ khỏe khoắn và có phần dữ tợn của phong cách Đồng dương, phong cách Mỹ Sơn A 1 có tính động, dường như đang nhảy múa, với vẻ đẹp duyên dáng. Các vũ công là các họa tiết được ưa chuộng của các nhà điêu khắc Chăm thời kỳ này. Bên cạnh đó các linh vật cả trong cuộc sống thực lẫn từ thần thoại cũng là một chủ đề được ưa thích như voi, hổ, garuda: :Thần Indra: Thường được thể hiện ở tư thế ngồi trên bệ với tay cầm lưỡi tầm sét, chân xếp bằng và một con voi là vật cưỡi của thần đang phủ phục. :Bò Nan-din: Là vật cưỡi của thần Si-va thường thẻ hiện dưới tư thế nằm và thuộc dạng tượng tròn. :Ga-ru-da: Là linh vật mà thần Vis-nu thường cưỡi và là kẻ thù của rắn thần Naga. Các phù điêu do vậy thường chạm hình chim thần Ga-ru-da đang nuốt hoặc dẫm lên hoặc đạp rắn thần Naga. :Sư tử: Thường là sư tử đực ở tư thế ngồi với hai chân trước đứng. :Thần Si-va: Thường được thờ dưới hình tượng linga, hay với kiểu tóc búi (jatanlinga) hoặc trang trí mặt người (kosa). Cũng thuộc phong cách Mỹ Sơn A 1 này còn có cả các nhóm tháp ở Khương Mỹ và các di vật ở Trà Kiệu. Các công trình Khương Mỹ nằm trong giai đoạn chuyển tiếp giữa Đồng Dương và Mỹ Sơn A1. Đồng thời chịu ảnh hưởng của Khmer và Java. Nhiều di vật điêu khắc của Trà Kiệu vẫn được lưu giữ ở các viện bảo tàng đặc biệt là bệ thờ Trà Kiệu. Bệ thờ làm gồm bệ đá với phù điêu và một khối ligam. Các phù điêu chạm các giai đoạn khác nhau của cuộc đời Krisna. Ở mỗi góc của bệ thờ có hình sư tử nâng đỡ cả khối kiến trúc nặng bên trên. Cũng thuộc phong cách Trà Kiệu còn có bệ đá chạm vũ công có hình vuông mà mỗi mặt đều có chạm hình vũ nữ apsara đang nhảy múa và các nhạc công gandharva đang chơi nhạc. Bệ đặt trên nền có chạm hình đầu sư tử và hình con makara.

Hình:Dancing Shiva 10th c.jpg|Điệu nhảy của Siva, khoảng thế kỷ 10, chuyển đổi từ phong cách Đồng Dương sang Khương Mỹ. Hình:Elephant on bas relief.jpg|Hình voi tạc trên bệ đá thuộc phong cách Mỹ Sơn A 1. Hình:Tra Kieu Pedestal.jpg|Bệ thờ Trà Kiệu khoảng thế kỷ 10 đỡ một khối lingam. Hình:Apsaras on Tra Kieu Pedestal.jpg|Hàng vũ nữ apsaras trên Bệ đá Trà Kiệu. Hình:Tra Kieu Pedestal Corner.jpg|Cột đỡ hình sư tử ở góc của Bệ đá Trà Kiệu, bên phải là các giai đoạn trong cuộc đời của Krishna. Hình:Apsara Gandharva Dancer Pedestal Tra Kieu.jpg|Bệ đá Vũ công có nét đặc điểm của phong cách Trà Kiệu trong đó các apsara và gandharva đang nhảy múa và chơi đàn. Hình:Champa-remains.jpg|Phong cách Chánh Lộ, bệ ở phía trước là hình về cuộc đời Đức Phật thuộc phong cách Đồng Dương.

Giai đoạn miền Nam: Sau thế kỷ 11 đến thế kỷ 15

Giai đoạn này còn được gọi là phong cách Bình Định hay Tháp Mẫm. Khởi đầu bằng các tháp ở Chánh Lộ có phong cách chuyển tiếp từ Mỹ sơn A1 sang Tháp Mẫm. Một số hiện vật ở Tháp Mẫm vẫn còn dáng dấp cân đối, nhẹ nhàng nhưng phần lớn các điêu khắc đã trở nên thô với hình khối tròn mang tính bản địa dần dần chiếm lĩnh khắp các hình tượng Ấn giáo ở miền Nam. Các thiết kế kiến trúc với các đường nét sắc sảo nhất là các đường tròn uốn lượn dần dần chuyển sang phong cách mạnh mẽ với các hình khối ít chạm trổ cho thấy ấn tượng mạnh mẽ nhưng dường như không còn nét tinh tế nếu so sánh với phong cách Mỹ Sơn A1. Ở đây các vòm cửa thu lại và vút lên thành hình mũi giáo. Các tháp nhỏ trên các tầng bên trên cuộn tròn lại thành các khối đậm nhưng khỏe. Các trụ bổ tường thu hẳn vào trong tường thành một khối phẳng. Bề mặt tháp là các bức tường với những đường gân sống. Chỉ có các hình linh vật là có thể so sánh được với phong cách trước. Chạm khắc trong phong cách này đi vào chi tiết trang trí hơn là nhìn vào tổng thể vẻ đẹp và tính động của hình tượng. Một trong các họa tiết của phong cách Tháp Mẫm là chạm trên đá một hàng các bộ ngực phụ nữ xung quanh chân đế của một bệ thờ. Họa tiết này đã thấy ở Trà Kiệu nhưng trở thành điển hình cho phong cách Tháp Mẫm và là một họa tiết độc đáo trong nền nghệ thuật Đông Nam Á.

Hình:Garuda_Thap_Mam_13th_c.jpg|Thế kỷ 13, điêu khắc ở Bình Định tả cảnh Garuda đang nuốt rắn thần. Hình:Lion Atlas Thap Mam2.jpg|Khoảng thế kỷ 12, cột đỡ hình sư tử thuộc phong cách Tháp Mẫm. Hình:Pedestal Thap Mam.jpg|Cột đỡ hình sư tử ở bệ đá hình vuông có hàng ngực phụ nữ. Hình:Ornate Garuda Thap Mam.jpg|Điêu khắc thế kỷ 12 thuộc phong cách Thám Mẫm có hình Garuda đang đỡ bệ thờ. Hình:Thap Mam Shiva 12th c.jpg|Cuối thế kỷ 11 và 12, điêu khắc phù điêu hình thần Shiva thuộc phong cách Tháp Mẫm.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Champa** có nền văn minh Ấn hóa ở khu vực duyên hải miền Trung Việt Nam ngày nay trong thời gian từ năm 192 đến 1832 sau Công nguyên. Người Chăm có lẽ là những
**Nghệ thuật Đại Việt thời Lý** phản ánh thành tựu các loại hình nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời nhà Lý, chủ yếu trên lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc và âm nhạc.
nhỏ|phải|Thai tạng giới [[Mạn-đà-la ()]] nhỏ|phải|Vòng Pháp luân **Nghệ thuật Phật giáo** là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau – nhất là các lĩnh
Thân chim thần Garuda, Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam Sư tử, trang trí tại chân [[Tháp Mẫm, An Nhơn, Bình Định]] Linga, thờ bên trong tháp Chàm **Điêu khắc đá Chămpa** là một loại
Với những giá trị đặc biệt về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, cùng những giá trị lịch sử văn hoá điển hình của dân tộc Chăm trong lịch sử, năm 1999, Khu di
Với những giá trị đặc biệt về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, cùng những giá trị lịch sử văn hoá điển hình của dân tộc Chăm trong lịch sử, năm 1999, Khu di
**Khổng tước công chúa** hay **Chàng Sisouthone và nàng Manola** () là những nhan đề phi chính thức một huyền thoại Thái tộc thịnh hành từ trung đại trung kì tới nay, có ảnh hưởng
Tháp Mỹ Sơn B4 Thần Shiva làm bằng đá cát, cuối thế kỷ 12. Tháp Mẫm. An Nhơn. Bình Định. Hình trang trí trên cửa chính. Hiện vật tại Viện bảo tàng lịch sử Việt
**Ngô Văn Doanh** là một nhà khảo cổ học, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, đã có nhiều công trình về văn hóa Việt Nam, đặc biệt là các tác phẩm về văn hóa
Nhà thơ **Inrasara** tên thật là **Phú Trạm** (sinh ngày 20 tháng 9 năm 1957 tại làng Chakleng - Mỹ Nghiệp, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam), ông là
phải|Phù điêu thủy quái Makara, phát hiện tại tháp Mắm phải|Phù điêu chim thần Garuda, phát hiện tại tháp Mắm **Tháp Mắm** là tên gọi quần thể và phong cách kiến trúc Chăm ở xã
**Thành Đồ Bàn** hay **Vijaya** (tiếng Phạn विजया, nghĩa Việt: Thắng lợi), còn gọi là **thành cổ Chà Bàn (Trà Bàn)** là kinh đô của người Degar thuộc Chăm Pa, nay thuộc địa phận xã
**Po Klong Garai** (tiếng Chăm: _Po Klaung Yăgrai_, 1151 - 1205) là vua của tiểu quốc Panduranga trong 38 năm. Ông đã lãnh đạo người Chăm đương cự thành công ách đô hộ của triều
nhỏ|Bìa [[Weekly Shōnen Jump ngày 3 tháng 12 năm 1984 với chương đầu tiên của bộ truyện.]] là bộ truyện tranh nhiều tập được viết và vẽ minh họa bởi Toriyama Akira. Loạt truyện tranh
**Tháp Đôi** hay còn có tên là **Tháp Hưng Thạnh** còn trong tiếng J'rai gọi là SRI BANOI là khu tháp của Chăm Pa gồm có hai tháp là tháp phía bắc và tháp phía
**Tara** (zh. 多羅, sa. _tārā_, Tara, Drolma, bo. _sgrol-ma_ སྒྲོལ་མ་) từ tiếng Phạn T_ārā_, là tên của một vị nữ Bồ Tát thường gặp trong Phật giáo Tây Tạng. Tên này dịch ý là **Độ
**Tuy Hòa** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Phú Yên, Việt Nam. Là đô thị trù phú nằm ở hạ nguồn Sông Ba, dòng sông lớn nhất miền Trung. Đây là trung tâm
**Tháp Phú Diên** hay còn gọi là **tháp Mỹ Khánh** là một cụm tháp Chăm cổ nằm ở thôn Mỹ Khánh, xã Phú Diên, huyện Phú Vang, thành phố Huế, có niên đại vào thế
**Tháp Phú Lốc** còn có tên gọi là **tháp Thốc Lốc**, **tháp Phốc Lốc**, hay _tháp Vàng_ (Tour d'Or) như những nhà nghiên cứu người Pháp đã gọi là một ngôi tháp Chăm Pa cổ
**Champa** (tiếng Phạn: चम्पा, Tiếng Trung: 占婆 _Chiêm Bà_, tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) hay **Chiêm Thành** (占城) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
: _Đối với cầu thủ cricket người Ireland cùng tên, xem John Crawfurd (cricketer)_ **John Crawfurd** FRS (13 tháng 8 năm 1783 - 11 tháng 5 năm 1868) là một bác sĩ người Scotland, nhà
**Bò thần Nandi** (tiếng Sanskrit: नन्दि, tiếng Tamil: நந்தி, tiếng Kannada: ನಂದಿ, tiếng Telugu: న౦ది) hay còn gọi là **Nandin** hoặc **Nandil**, còn có tên khác là **Kapin** hoặc **Kapil**, cũng còn gọi là **Nendi**
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
Bình Định là quê hương của các loại hình nghệ thuật như tuồng, bài chòi... với bờ biển dài, nhiều vũng vịnh với những bãi tắm đẹp và danh lam thắng cảnh như:Quy Nhơn, Tam
phải|Đền sư tử Kampong Thom **Sambor Prei Kuk** (, _Prasat Sambor Prei Kuk_) là một địa điểm khảo cổ nằm ở Kompung Thom, Campuchia. Nó nằm cách thành phố thủ phủ Kampong Thom về phía
**Krông Pa** là một huyện thuộc tỉnh Gia Lai, Việt Nam. ## Địa lý Tên huyện được đặt theo tên 2 con sông: sông Krông Năng và sông Pa (một trong những con sông lớn
**Đế quốc Khmer** hay **Đế quốc Angkor** (tiếng Khmer cổ: ; chuyển tự Latinh: **Kambuja**) là một cựu đế quốc rộng lớn nhất Đông Nam Á với diện tích lên đến 1 triệu km², từ
**Huyền Trân Công chúa ** (chữ Hán: 玄珍公主; sinh năm 1287, mất ngày 9 tháng 1 năm 1340), là công chúa đời nhà Trần, Hòa thân công chúa, là con gái của Trần Nhân Tông,
nhỏ|phải| [[Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên]]**Trung Bộ** (hay còn gọi là **miền Trung**) là khu vực địa lý nằm ở phần giữa đất liền của Việt Nam, nối Bắc Bộ
**Po Binasuor** hay còn được biết đến rộng rãi hơn với tên gọi **Chế Bồng Nga** (Hán-Việt: 制蓬峩, ? - 23 tháng 1 năm 1390 ÂL), theo cách gọi của người Ê Đê và Giarai
**Huế** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương và là thành phố di sản của Việt Nam. Thành phố là một trong các trung tâm văn hóa, y tế và giáo dục
nhỏ|Hình tượng Khẩn Na La nguyên thủy, sinh vật huyền thoại này có hình dạng ban đầu trong hình hài tổng thể của một con ngựa nhỏ|Khẩn Na La nguyên thủy có hình dạng của
**Phan Rang – Tháp Chàm **(thường được gọi tắt là **Phan Rang**) là thành phố tỉnh lỵ cũ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật của tỉnh Ninh Thuận,
nhỏ|phải|Khu du lịch Evason Hideaway ở [[Ninh Hòa.]] Khánh Hòa có bờ biển dài hơn 200 km và gần 200 hòn đảo lớn nhỏ cùng nhiều vịnh biển đẹp như Vân Phong, Nha Trang (một trong
**Thánh địa Mỹ Sơn** thuộc xã Duy Phú, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung
**Văn hóa Sa Huỳnh** là một nền văn hóa khảo cổ được xác định ở vào khoảng năm 1000 TCN đến cuối thế kỷ thứ 2. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba
Dưới đây là danh sách chi tiết các nhân vật nổi bật trong bộ truyện tranh Thần đồng Đất Việt: ## Nhân vật chính ### Trạng Tí - Lê Tí - Tí sún Cậu là
nhỏ|phải|Tượng thủy quái Ma Kiệt ngư ở Thái Lan nhỏ|phải|Ở Indonesia Thủy quái **Makara** (tiếng Phạn: मकर; tiếng Hán: **Ma Yết** hay **Ma Kiệt ngư**, _Ma Ca La_, _Ma Già La_ hay Ma rà) là
**Phù Nam** (chữ Hán: 夫南, , ) là tên gọi được đặt cho một quốc gia cổ theo mô hình Mandala trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện khoảng thế kỉ 1 trước Công
**Du lịch Quảng Ngãi** gồm có các khu du lịch Mỹ Khê, Sa Huỳnh, khu du lịch văn hoá Thiên Ấn, khu du lịch sinh thái núi Cà Đam, khu du lịch Thác Trắng, khu
**Kottinagar** (tiếng Phạn: कोटिनगर) là tên gọi kinh đô của vương quốc Phù Nam, tồn tại từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 7. Đô thị này được giới khảo cổ xác định tọa lạc
Tiến trình _Nam tiến_ của dân tộc Việt.|thế= **Nam tiến** (Chữ Nho: 南進) là quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương nam trong lịch sử Việt Nam. _Nam tiến_ là một
**Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2009** (, translit. Kila phoumipak asi taven oak siang tai 2009), tên gọi chính thức là Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 25, là sự
Nữ thần Po Nagar hay theo cách gọi của người Việt là Thánh Mẫu Thiên Y A Na Đức bà **Thiên Y A Na** (Chữ Hán: 天依阿那) hay **Bà Chúa Ngọc** (婆主玉), **Bà Hồng** (婆紅),
**Thành cổ Châu Sa** hay **Amaravati** là thủ đô của Vương quốc Amaravati, được người Chăm Pa xây dựng bằng đất vào thế kỷ thứ 9 tại xã Tịnh Châu, TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi,
là loạt manga và anime truyền hình của Nhật Bản. Đây là phần tiếp theo của bộ truyện tranh _Dragon Ball_ gốc và loạt phim hoạt hình _Dragon Ball Z_. Phác thảo cốt truyện tổng
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
thumb|Một nhà thờ Hồi giáo ở [[thành phố Hồ Chí Minh]] Tuy là một tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, cộng đồng Hồi giáo chỉ chiếm một tỷ lệ thấp so