✨Indravarman VI

Indravarman VI

Indravarman VI (Phạn văn: इन्द्रवर्मन्, chữ Hán: 巴的吏 / Ba Đích Lại, 占巴的賴 / Chiêm Ba Đích Lại, phiên âm Zhan-ba Di-lai, Champathirat;? - 1441) là quốc vương Champa, trị vì trong giai đoạn 1400 - 1441.

Tiểu sử

Indravarman VI vốn là trưởng nam của tiên vương Simhavarman VI. Ông có tước hiệu trước khi đăng cơ là Virabhadravarman.

Chiến tranh với nhà Hồ

Bài chi tiết: Chiến tranh Việt – Chiêm (1400–1407)

Ngay năm trị vì đầu tiên của Indravarman VI, hoàng đế Bắc triều Hồ Quý Ly đã phái quân chinh phạt Champa nhằm trả thù cho những cuộc chiến trước đó. Các lãnh thổ Chiêm Động (nay là Thăng Bình, Quảng Nam, hay bắc Amavarati), Cổ Lũy (nay là Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch (nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định) và Sa Lý Nha (tức Sa Huỳnh) lần lượt bị sáp nhập từ 1400 đến 1403. Toàn bộ đất đai tại Indrapura và Amaravati (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi) cũng rơi vào tay Đại Ngu.

Thần phục với nhà Minh

Ngày 22 tháng 7 năm Vĩnh Lạc nguyên niên (ngày 1 tháng 9 năm 1403 dương lịch), sứ đoàn của vua Chiêm Thành là Chiêm Ba Đích Lại (占巴的賴) sang nhà Minh triều cống và tố cáo rằng nước mình giáp ranh với nước An Nam (安南). Nhiều lần bị xâm lược, xin ban chiếu chỉ răn bảo.

Ngày 25-2-1404, nhà Minh truyền chiếu sang cho Chiêm Thành biết đã răn đe An Nam. Ngày 5 tháng 9, sứ đoàn Chiêm Thành lại tâu với nhà Minh việc bị Hồ Nguyên Trừng dùng thủy binh tấn công, bắt giao vương miện và thần phục An Nam, chiếm xứ Sa Ly Nha (沙離牙). Vua Chu Đệ nổi giận, lệnh cho bộ Lễ gửi thư khiển trách An Nam.

Ngày 25-9-1406, Chiêm Thành lại tố cáo lên nhà Minh việc bọn Lê tặc (黎賊 tức nhà Hồ) chiếm đất bắt người, cầu xin nhà Minh mang quân đánh An Nam. Thời gian này xảy ra sự kiện nhà Hồ bắt và giết Trần Thiên Bình. Nhà Minh vô cùng tức giận, hạ chiếu tiến đánh An Nam và báo cho Chiêm Thành phối hợp:

Sai nội quan Mã Bân (馬彬) cùng đoàn mang chiếu dụ phong vương nước Chiêm Thành là Chiêm Ba Địch Lại (占巴的賴) rằng:

“Ngươi sai cháu là Bộ Pha Lượng (部坡亮), Vi Giao Lan (微郊蘭), Đắc Thắng (得勝), Na Mạt (那抹) v.v. đến triều cống sản vật, lại tâu rằng giặc Lê nước An Nam xâm chiếm biên giới, bắt người cướp súc vật, tàn bạo không ngừng, xin binh đánh dẹp.

Trẫm xét giặc Lê nhiều lần giết vua, cướp ngôi, xưng đế, đổi niên hiệu, làm hại dân chúng, cả nước oán hận. Cháu của cựu vương là Trần Thiên Bình (陳天平) bị chúng bức hại, phải chạy về triều đình xin thần phục. Giặc Lê lại xin đón về nước, nói sẽ phụng sự như quân vương. Trẫm lấy lòng thành không nghi ngờ, sai người đưa về, nhưng giữa đường lại phục kích giết chết, chống lại mệnh trời, tội ác ngập trời, không thể dung tha.

Nay đã lệnh cho Tổng binh, Chinh Di tướng quân, Thành Quốc công Chu Năng (朱能) đem đại quân đi đánh, quyết tiêu diệt để yên lòng dân Lê. Ngươi nên chỉnh đốn binh mã nơi biên giới, canh giữ các yếu lộ. Những người An Nam trước kia đã ở Chiêm Thành thì không truy xét, nhưng từ nay ai trốn đến thì không được che giấu. Nếu bắt được cha con giặc Lê cùng bè đảng, lập tức giải về kinh sư, sẽ được trọng thưởng.

Ban cho ngươi ấn bạc mạ vàng, mũ sa, đai vàng, 100 lượng vàng, 500 lượng bạc trắng, hai bộ áo gấm dệt kim, cùng các vật phẩm như gấm vóc, lụa là.”

Chỉ khi nhà Hồ bị dẹp và nước Đại Ngu bị nhà Minh đô hộ, từ 1407 đến 1427, Chiêm Thành mới phục hồi lại sức mạnh quân sự và lấy lại được những vùng đất đã mất dưới tay nhà Hồ.

Ngày 19-9-1407, Chiêm Thành báo với nhà Minh việc đã chiếm lại đất đai từ An Nam và bắt các tù binh nhà Hồ là Hồ Liệt (胡烈) và Phan Ma Na (潘麻那). Sau đó, Chiêm Ba Đích Lại còn sai cháu là Xá Dương Cai (舍楊該) đi sứ nhà Minh và được hậu đãi do đã tiếp tay quân Minh đánh An Nam.

Theo sách Thù vực chu tư lục:

Năm thứ 7 (1409), triều đình sai nội quan Trịnh Hòa (鄭和) cùng đoàn đến ban thưởng cho nước này. Trịnh Hòa chỉ huy hơn 27.000 binh lính, đi trên 48 chiếc thuyền biển. Mùa thu tháng 9 năm ấy, xuất phát từ cảng Lưu Gia, Thái Thương, đến tháng 10 thì dừng tại cảng Thái Bình, Trường Lạc, Phúc Kiến. Tháng 12, ra khơi từ Ngũ Hổ. Giương 12 cánh buồm, thuận gió đi suốt 10 ngày đêm, đến nước Chiêm Thành. Nước này nằm ven biển, có cảng gọi là Tân Châu, phía tây giáp Giao Chỉ (交趾), phía bắc nối đất Trung Quốc. Khi thuyền đến nơi, thủ lĩnh đội mũ vàng ba tầng, mặc khăn hoa gấm, tay chân đeo vòng vàng, đi giày đồi mồi, thắt lưng bằng đai tám bảo, dáng như tượng Kim Cương. Cưỡi voi, trước sau có hơn 500 binh lính hộ tống. Người thì cầm giáo ngắn, người thì múa khiên da, đánh trống, thổi ống dừa. Các viên chỉ huy đều cưỡi ngựa, ra ngoại thành nghênh tiếp chiếu thư. Xuống voi, quỳ gối bò lạy tỏ lòng cảm ơn. Năm thứ 8 (1410), vua Chiêm Thành (占城) lại sai sứ là Tế Tiêu (濟標) cùng đoàn mang voi và các đồ vật bằng vàng bạc sang triều cống. Triều đình ban chiếu cho Mã Tân (馬彬) cùng đoàn đưa Tế Tiêu về nước, đồng thời mang chiếu thư và tiền giấy văn tệ ban thưởng.

Mở rộng ảnh hưởng trong khu vực

Sau khi thần phục nhà Minh ở phía Bắc (tức Giao Chỉ đô chỉ huy sứ ty), Indravarman VI mang quân xuống tấn công vương quốc Chân Lạp phía nam. Quân Chăm chiếm được nhiều vùng đất lớn dọc sông Đồng Nai và trên đồng bằng sông Cửu Long. Vua Chau Ponea Yat của Chân Lạp phải cầu cứu nhà Minh và quân Minh đã hai lần tiến vào Chiêm Thành (1408 và 1414) làm áp lực Chiêm Thành mới chịu rút quân. Mặc dầu vậy, quân Champa cũng chiếm được thị trấn Nagara Brah Kanda (thị xã Biên Hòa ngày nay).

Vào năm 1413 nhà Minh khiển trách Chiêm Ba Đích Lại vì hợp tác 2 mặt:

Năm thứ 11 (1413), vua lại sai cháu là Xá A Na Sa (舍阿那沙) vào cống. Binh bộ thượng thư Trần Hiệp (陳洽) tâu rằng: “Khi khởi binh đánh giặc họ Lê (Quý Lý) và Trần Quý Khoách (陳季擴 Trùng Quang Đế), vua Chiêm Thành tuy nghe lệnh xuất binh, nhưng thực lòng hai mặt, muốn giữ quan hệ môi răng, do dự quan sát, chậm trễ không tiến. Đến khi tiến đến Hóa Châu thì cướp bóc dữ dội, lại đem vàng bạc, voi chiến giúp Trần Quý Khoách. Quý Khoách đáp lại bằng mỹ nữ, lại hẹn với cậu là Trần Ông Đĩnh (陳翁挺) cùng hơn 30.000 người làm bè đảng, xâm chiếm 4 châu 12 huyện thuộc phủ Thăng Hoa. Tội ấy ngang với Giao Chỉ, xin phát binh đánh.”

Hoàng thượng cho rằng đường xuất binh phải qua Giao Chỉ, mà dân Giao đang yên ổn làm ăn, không nỡ dùng binh khiến họ vất vả cung ứng. Chỉ sai sứ mang chiếu thư đến dụ Chiêm Ba Đích Lại (占巴的賴) mà thôi.

Ngày 1-4-1414, nhà Minh phải cử sứ giả hộ tống sứ đoàn Chân Lạp của vua Can-lie Zhao Ping-ya về nước vì họ bị Chiêm Thành tấn công. Nhà Minh gửi chiếu răn đê Chiêm Ba Đích Lại. 3-11-1416, Chiêm Thành sai sứ sang tạ tội.

Năm 1428, Lê Lợi đuổi được quân Minh ra khỏi lãnh thổ và lên ngôi vua. Trước thế lực của nhà Lê, Indravarman VI đành trả lại những vùng đất đã chiếm dưới thời nhà Minh.

Cuối đời

Năm 1441 khi Indravarman VI băng hà, triều thần quyết định không tấn tôn con ông là Ngauk Klaung Vijaya, mà đưa người cháu thúc bá của vua Trà Hòa là Maha Kali lên thay nhằm phục hồi dòng chính thống của Vijaya. Theo Minh thực lục:

Ngày 2-7-1441, vua nước Chiêm Thành (占城) là Chiêm Ba Địch Lại (占巴的賴) băng hà, cháu là Ma Ha Bí Cai (摩訶賁該) theo di chiếu của vua, sai cháu nội là Thuật Đề Khôn (述提昆) dâng biểu vào triều, cống nạp vật phẩm và xin ân chuẩn nối ngôi.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Indravarman VI** (Phạn văn: इन्द्रवर्मन्, chữ Hán: 巴的吏 / **Ba Đích Lại**, 占巴的賴 / **Chiêm Ba Đích Lại**, phiên âm Zhan-ba Di-lai, Champathirat;? - 1441) là quốc vương Champa, trị vì trong giai đoạn 1400
**Jaya Indravarman VI** là vị vua của Chăm Pa từ 1254 đến 1257. "Ông ấy là một người rất có uy quyền một cách yên bình, về mọi mặt kiến thức và thành thạo trong
**Indravarman V**, hay còn gọi **Jaya Simhavarman** (? - 1288), là một vị vua của Chiêm Thành. Triều đại của ông bắt đầu từ năm 1257, khi ông ám sát cậu của mình là Quốc
**Jaya Indravarman II** (Phạn văn: जय इंद्रवर्मन, chữ Hán: 釋利因陀羅跋摩 / **Dịch-lợi Nhân-đà-la-bạt-ma**, trị vì 854 - 898) là người sáng lập triều đại thứ sáu của liên bang Champa. Hành trạng của ông được
**Jaya Indravarman IV** (tiếng Phạn: जय इन्द्रवर्मन् ८) là một vị vua Champa của triều đại thứ 11, cai trị từ năm 1167 đến năm 1192. ## Tiểu sử Ông và Po Klong Garai (vua
**Indravarman I** là vua của Đế quốc Khmer (khu vực Angkor ở Campuchia) từ năm 877 đến 890 sau Công nguyên. Indravarman I đã thay thế cháu mình là Jayavarman III. Ông đã mở rộng
**Indravarman III** (; also titled **Srindravarman**) là vua của Đế quốc Khmer từ 1295 tới 1308. Ông đã lấy người con gái đầu của Jayavarman VIII, Srindrabhupesvarachuda. Ông ta lên ngôi vua sau khi cha
**Indravarman II** () là vua của Đế quốc Khmer, con trai của Jayavarman VII. Có sự tranh cãi về thời gian ông ta cai trị, vì người kế vì ông ta, Jayavarman VIII, có lẽ
**Chiêm Thành** () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: _Campanagara_) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu
**Người Êđê** (tiếng Êđê: **Anak Rađê** hay được dùng phổ biến theo cộng đồng là **Anak Đê** hay **Đê-Ga**) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là miền trung Việt Nam và
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Maha Kali** (Phạn văn: महा काली, chữ Hán: 摩訶貴來 / **Ma-kha Quý-lai**, ? - 1452) là tước hiệu của một quốc vương Champa, trị vì trong các giai đoạn 1441 - 1442 và 1446 -
**Phan Rí** là một địa danh trước đây dùng để chỉ một vùng đất nằm giữa hai con sông Lòng Sông (thuộc địa bàn huyện Tuy Phong) và sông Phố Hài (thuộc địa bàn thành
phải|Hoa văn trên tháp Đồng Dương phải|Đài thờ Phật, phát hiện tại Đồng Dương **Tháp Đồng Dương** là một di tích quan trọng vào bậc nhất của Chăm Pa, gồm có hệ thống các tháp
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Hoàn Vương** (tiếng Hán: 環王國; Phạn ngữ: पाण्डुरङ्ग / _Pāṇḍuraṅga_; tiếng Chăm cổ: _Panduranga_ / _Paṅrauṅ_) là tên ghi trong lịch sử Trung Hoa gọi vương quốc của người Chăm trong thời kỳ từ 757
**Đế quốc Khmer** hay **Đế quốc Angkor** (tiếng Khmer cổ: ; chuyển tự Latinh: **Kambuja**) là một cựu đế quốc rộng lớn nhất Đông Nam Á với diện tích lên đến 1 triệu km², từ
**Campuchia** là một đất nước ở bán đảo Đông Dương, có lịch sử lâu đời và ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ. ## Các vương quốc đầu tiên Người ta biết về nước Phù
phải|nhỏ|250x250px| Hình ảnh mô tả trận [[thủy chiến Tonlé Sap giữa người Chăm và người Khmer trên phù điêu Bayon]] **Chiến tranh Đế quốc Khmer – Chăm Pa** là một loạt các cuộc xung đột
**Yang Po Inư Nagar** hay **Yang Pô Ana Gar** (Inư, Ana trong tiếng Chăm, Eđê, Jarai theo âm cổ gốc có nghĩa là Mẹ) (tên đầy đủ là **Po Inư Nagar**, hay còn gọi là
**Champa** (tiếng Phạn: चम्पा, Tiếng Trung: 占婆 _Chiêm Bà_, tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) hay **Chiêm Thành** (占城) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192
**Phù Nam** (chữ Hán: 夫南, , ) là tên gọi được đặt cho một quốc gia cổ theo mô hình Mandala trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện khoảng thế kỉ 1 trước Công
**Panduranga** (tiếng Chăm cổ: _Paṅrauṅ_ / _Panrāṅ_; tiếng Phạn: पाण्डुरङ्ग / _Pāṇḍuraṅga_; chữ Hán: 潘朧 / **Phan-lung**, 潘郎 / **Phan-lang**) là một tiểu quốc của Champa tồn tại trong giai đoạn 757 - 1832. Lãnh
**Tribhuvanāditya** là một vị vua của đế quốc Khmer từ năm 1166 đến năm 1177. Ông lên ngôi sau khi ông đã giết hại Yasovarman II. Ông đã trị vì trong bối cảnh những người
**Chiến tranh Đại Việt – Đế quốc Khmer** hay **Chiến tranh Đại Việt – Chân Lạp** là một loạt các xung đột và tranh chấp quân sự xảy ra trong khoảng thời gian từ năm
**_Preah Ko_** (; nghĩa là _đền Bò Thiêng_) là ngôi đền đầu tiên trong thời kỳ xây dựng thành phố Hariharalaya (cụm di tích này gọi là cụm di tích Roluos), cách thành phố Xiêm
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
Tiến trình _Nam tiến_ của dân tộc Việt.|thế= **Nam tiến** (Chữ Nho: 南進) là quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương nam trong lịch sử Việt Nam. _Nam tiến_ là một
**Jayavarman IV** là một vị vua của Đế quốc Khmer trị vì trong khoảng thời gian từ năm 928 đến năm 941. ## Thời niên thiếu Nhiều nhà sử học ban đầu cho răng ông
Người Chăm theo tôn giáo chính là **Agama Cham** (tức là Chăm giáo). Tôn giáo Agama Cham (Chăm giáo) có hai môn phái gồm _Môn phái tín ngưỡng tôn giáo_ và _môn phái tín ngưỡng
**Lưu Nghiễm** (; 889 thứ sử và kết hôn với người cháu gái gọi bằng chú của Vi Trụ (韋宙)- từng là tể tướng triều Đường, Lĩnh Nam Đông đạo tiết độ sứ. Tuy nhiên,
**Louangphabang** (Lào: ຫລວງພະບາງ) hoặc **Luang Phabang** (phát âm ), thường được chuyển tự sang các ngôn ngữ phương Tây từ cách viết trong tiếng Lào trước năm 1975 ຫຼວງພຣະບາງ (ຣ = r) là **Luang Prabang**,
**Jayarvarman II** (; ?—877), một vị vua của Campuchia trong thế kỷ 9, được công nhận rộng rãi như là người sáng lập ra Vương quốc Khmer, cai trị phần lớn Đông Nam Á đại
**Indrapura** (chữ Phạn: इन्द्रपुरम् / **Lôi-điện thành**, chữ Hán: 同陽國 / **Đồng-dương quốc**) là một thành quốc tồn tại trong giai đoạn 657 - 1471, đồng thời giữ vai trò kinh đô Champa suốt thời
thumb|Đại Nam dưới thời [[Minh Mạng, bao gồm cả các trấn ở Lào. Vùng thuộc phần đất Campuchia ngày nay là lãnh thổ Trấn Tây Thành mà Nhà Nguyễn chiếm được trong 6 năm (1835
**Jayavarman VIII** là một trong những vị vua của Đế quốc Khmer. Ông trị vì tự năm 1243 đến năm 1295, khi ông thoái vị. ## Tiểu sử Trong thời gian trị vì của Jayavarman
**Po Klong Garai** (tiếng Chăm: _Po Klaung Yăgrai_, 1151 - 1205) là vua của tiểu quốc Panduranga trong 38 năm. Ông đã lãnh đạo người Chăm đương cự thành công ách đô hộ của triều
**Chế Ma Na** (tiếng Phạn: जय इन्द्रवर्मन् ४, Indravarman IV, tiếng Trung: 闍耶因陀羅跋摩二世, trị vì: 1080 - 1081, 1086 - 1113) là một vị vua Champa của triều đại thứ chín. Trong thời trị vì
**Trận Thị Nại** là một trận chiến diễn ra vào tháng 2 năm 1283 giữa Chăm Pa và nhà Nguyên. Trận chiến diễn ra trên đầm Thị Nại, gần kinh đô Đồ Bàn của Chăm
**Thành cổ Châu Sa** hay **Amaravati** là thủ đô của Vương quốc Amaravati, được người Chăm Pa xây dựng bằng đất vào thế kỷ thứ 9 tại xã Tịnh Châu, TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi,
**Khúc Thừa Mỹ** (chữ Hán: 曲承美; trị vì: 917 – 923 hoặc 917 – 930) là người làng Cúc Bồ đất Hồng Châu (nay là xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương), con
**Louangphabang** (còn viết là **Luang Prabang**, ; phiên âm tiếng Việt: **Luông-Pha-Băng**) là một tỉnh của nước Lào, thuộc địa phận miền bắc. Tỉnh lị của tỉnh, Luang Prabang, từng là cố đô của Vương
**Chế Mân** (, **R'cam Mal**), hay **Jaya Simhavarman III**, là vị vua thứ 34 của vương quốc Chiêm Thành (tức là vua thứ 12 của Triều đại thứ 11) vào thế kỷ 14. Trị vì
thumb|Đền Lolei tại [[Angkor, Campuchia]] **Lolei** () là ngôi đền ở cực bắc của nhóm Roluos gồm ba ngôi đền Hindu cuối thế kỷ thứ 9 tại Angkor , Campuchia , những ngôi đền còn
nhỏ|Mục lục và trang đầu tiên sách Chân Lạp phong thổ ký của Châu Đạt Quan. **_Chân Lạp phong thổ ký_** (), tức **_Ký sự về Campuchia: Địa lý và Con người**,_ là một quyển
**Chu Đạt Quan** (1266–1346) hoặc **Châu Đạt Quan** là một nhà ngoại giao Trung Quốc dưới thời Nguyên Thành Tông. Ông nổi tiếng nhất nhờ các ghi chép của ông về các phong tục của