✨Panduranga

Panduranga

Panduranga (tiếng Chăm cổ: Paṅrauṅ / Panrāṅ; tiếng Phạn: पाण्डुरङ्ग / Pāṇḍuraṅga; chữ Hán: 潘朧 / Phan-lung, 潘郎 / Phan-lang) là một tiểu quốc của Champa tồn tại trong giai đoạn 757 - 1832. Lãnh thổ tiểu quốc Panduranga tương ứng khu vực hiện nay là Ninh Thuận và Bình Thuận, kinh đô Panduranga của tiểu quốc này tương ứng với Phan Rang - Tháp Chàm ngày nay. Panduranga được biết đến là xứ Champa có cương vực rộng nhất và tồn tại sau cùng, khi vương quốc Chămpa bị người Việt triệt phá vào các năm 1471 và 1653.

Panduranga đồng thời cũng là tên của một vị thần trong văn hóa Ấn Độ. Điều này thể hiện sự ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ vào tín ngưỡng của Champa lúc bấy giờ.

Lịch sử

Lịch sử Chăm Pa thời kỳ đầu qua các sử liệu và bia ký chỉ cho thấy những thông tin ở miền Bắc tại vùng Amaravati và Vijaya. Thông tin về các địa khu/tiểu quốc phía nam như Panduranga và Kauthara nhắc tới muộn hơn. Có những công trình nghiên cứu cho rằng trước khi được sáp nhập vào Lâm Ấp dưới thời vua Phạm Dương Mại II vào năm 433, Panduranga là vùng lãnh thổ chư hầu của vương quốc Phù Nam.

Sau sự sụp đổ của các vương triều phía bắc trong thời kỳ Lâm Ấp, vào năm 757 một vương triều mới ở phía Nam lên nắm quyền kiểm soát toàn Chăm Pa, với kinh đô là Virapura, trong thời kỳ tiểu quốc Panduranga. Virapura nói riêng và Panduranga nói chung thực sự là trung tâm quyền lực của vương quốc, và đến năm 859 mới kết thúc vai trò trung tâm của mình đến thế kỷ 15. Tuy nhiên với thời gian, Panduranga lại trở thành nạn nhân của sự thịnh vượng, các thế lực lân bang liên tục tràn vào cướp phá. Trong suốt 21 năm, từ 854 đến 875, quân của đế quốc Angkor đã nhiều lần tiến đánh Panduranga, chiếm nhiều vùng đất rộng lớn dọc tả ngạn sông Đồng Nai, đôi khi còn băng qua cao nguyên Langbian, đột nhập vào lãnh thổ Panduranga cướp phá. Vikrantavarman III mất năm 854 (được thờ dưới pháp danh Vikrantasvara), không người kế tự, nội bộ triều đình xảy ra tranh chấp. Năm 859, một vương tôn có nhiều chiến công, tên là Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin, được triều thần đưa lên ngôi, hiệu Jaya Indravarman II. Quốc hiệu Campapura (đất nước của người Chăm -theo tiếng Phạn cổ) được Indravarman II chính thức sử dụng. Sử sách Trung Hoa phiên âm là Changcheng hoặc Chiêm Thành hoặc Chiêm Bà, tiếng Tây phương là Champa.

Từ năm 1471, sau khi kinh đô Vijaya thất thủ trước Đại Việt, Chăm Pa mất các lãnh thổ miền bắc từ đèo Cù Mông trở ra. Người Chăm tập trung quay về khu vực phía Nam với vương quốc mới là Panduranga, từ lúc đó địa khu Panduranga lại trở thành trung tâm hành chính của người Chăm tới năm 1832 khi nhà Nguyễn xóa hẳn quy chế tự trị.

  • Tiểu quốc Panduranga thành lập năm 757 như một hệ quả của sự phân rã quốc gia Lâm Ấp. Địa phận của Panduranga có thể giới hạn trong khu vực tỉnh Ninh Thuận ngày nay. Nó độc lập cho đến năm 859 thì thống nhất với 4 tiểu quốc khác để thành hình quốc gia Chăm Pa, tuy nhiên tính tự trị vẫn được nguyên vẹn. Nước này định đô tại Virapura (Hùng Tráng thành), sau là thôn Palai Bachong, xã Hòa Trinh, huyện An Phước, tỉnh Ninh Thuận, nay là xã Phước Nam, huyện Thuận Nam, trên quốc lộ 1, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 310 km. Tiểu quốc Panduranga được xem là tiền thân của vương quốc Panduranga, thành lập năm 1471, với một số biến đổi về cương vực và dân số.
  • Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi Lê Thánh Tông cho sáp nhập vùng đất phía bắc Chăm Pa thành đạo Quảng Nam. Đó là phần đất từ phía Nam sông Thu Bồn đến phía Bắc đèo Cù Mông (tức là vùng Thừa tuyên Quảng Nam thời Lê, xứ Quảng Nam thời Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận - Quảng). Một vị tướng của Chăm Pa là Bố Trì Trì lui về Phan Rang tên ngôi vua và cai quản phần lãnh thổ còn lại từ đèo Cả tới Bình Thuận với danh nghĩa là chư hầu của Đại Việt. Phần đất này được chia làm ba vùng: Đại Chiêm, Nam Bàn và Hoa Anh Trong khoảng thời gian này Panduranga được cai trị bởi các vua Chăm Pa từ Simhapura (Trà Kiệu) và Vijaya (Đồ Bàn). Việc Panduranga nhiều lần bị đế chế Khmer xâm chiếm đã khiến mối quan hệ giữa 2 bên càng trở nên căng thẳng, đỉnh điểm là trận Thủy chiến Tonlé Sap vào năm 1177 và những cuộc xung đột sau đó giữa hai bên vào các năm 1192, 1195 và 1203. nhỏ|Lãnh thổ của Panduranga sau khi kết thúc thời kỳ Hoàn Vương

Po Klong Garai

Là vua Chăm Pa có gốc Panduranga, ông cai trị trong khoảng 50 năm, Po Klong Garai đã có công lãnh đạo dân tộc Chăm đương cự với ngoại xâm, bình ổn đất nước và phát triển nông nghiệp, được người Chăm suy tôn như vị thần thủy lợi.nhỏ|Tháp Po Klong Garai - trung tâm tôn giáo của Panduranga

Thời kỳ 1471 - 1692

Sau khi bị Đại Việt chinh phục năm 1471, nhóm hoàng tộc Chăm từ Nam Bàn (từ Quảng Nam đến Đồ Bàn) do Bố Trì Trì là cháu của Trà Toàn chạy về Nam Chăm Pa lánh nạn và tranh chấp quyền bính với các dòng vương tôn địa phương tại nam Phan Rang (Virapura). Dân chúng địa phương được kêu gọi không thừa nhận dòng họ Bố Trì Tri (Jayavarman Mafoungnan) vì chỉ là cấp thừa hành của các tiên vương.

Dòng họ Bố Trì Tri không trị vì lâu. Năm 1478, Bố Trì Tri mất em là Koulai lên thay nhưng bị ám sát năm 1505. Con Koulai kế nghiệp và trị vì đến 1530 thì mất. Kể từ sau ngày đó con cháu dòng vương tôn Nam Bàn được hoàng triều và dân chúng tôn lên làm vua. Con Trà Toại, em của Trà Toàn vua cuối cùng của Vijaya, là hoàng thân Po Krut Drak được tôn lên làm vua kế nghiệp Chakou Poulo cai quản xứ Panduranga.

Bố Trì Trì - Jayavarman Mafoungnan (1471-1494) Po Kabih (1494-1530) Po Krut Drak (1530-1536) Po Maha Sarak (1536-1541) Po Kunarai (1541-1553) Po At (1553-1579) Po Klong Halau (1579-1603) Po Nit (1603-1613) Po Chai Paran (1613-1618), em vua Po Nit - sau khi bị mất vùng Phú Yên, đã dời kinh đô Băl Cau ở Phan Rang về phía nam ở Phan Rí (Panrik), kinh đô mới có tên là Bal Canar. Bal Canar cũng là kinh đô cuối cùng của Chăm Pa chấm dứt vai trò vào năm 1832 Po Ehklan (1618-1622) Po Po Klong Menai (Mahataha) (1622-1627), cướp ngôi từ Po Ehklan Po Rome (1627-1651), con rể của Po Mahataha, sau bị nhà Nguyễn bắt đem về và chết ở Phú Xuân sau trận chiến vào năm 1651 Po Nraup (1651-1653) – Bà Tấm Po Thot (1653-1659), lúc này Chăm Pa mất thêm vùng Khánh Hòa, chỉ còn lại Ninh Thuận và Bình Thuận *Po Sout (1659-1692) - Bà Tranh, bị bắt đưa về Phú Xuân sau trận chiến với nhà Nguyễn năm 1692 và chết năm 1694

Thuận Thành trấn (1693 - 1832)

Trước sức ép nam tiến của người Việt, tới năm 1693 tướng Nguyễn Hữu Cảnh đã tấn công và sáp nhập vùng đất cuối cùng của chính quyền Chăm Pa vào lãnh thổ xứ Đàng Trong, tuy nhiên từ năm 1693-1697 người Chăm đã kháng cự mãnh liệt đồng thời chính quyền Đàng Trong cũng muốn dành nguồn lực cho việc chinh phạt Chân Lạp nên tới năm 1697 đã trả lại quyền hành cho các vua người Chăm, nhưng đổi tên trong văn bản thành Trấn Thuận Thành, hay Thuận Thành trấn. Trấn Thuận Thành là một lãnh thổ tự trị và đồng thời là chư hầu của chính quyền Đàng Trong. Kinh đô đặt ở Băl Canar, nay thuộc tỉnh Bình Thuận.

Trong chiến tranh Tây Sơn, Thuận Thành trấn là chiến trường nơi tranh chấp giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Từ năm 1794, đất Panduranga được xem như một tiền đồn của chúa Nguyễn nhằm ngăn bước tiến của quân Tây Sơn vào đất Gia Định - thủ phủ của quân Nguyễn bấy giờ.

Tuy nhiên từ năm 1828-1832, chính quyền Chăm Pa ở đây nằm dưới sự bảo hộ của tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt. Sau khi Lê Văn Duyệt chết, vua Minh Mạng đã xóa bỏ chế độ tự trị của người Chăm và thành lập tỉnh Bình Thuận. Chính quyền cuối cùng của Thuận Thành trấn nói riêng, và Chăm Pa nói chung, kết thúc từ đấy. Vương quốc Chămpa không còn tồn tại nữa sau năm 1832.

Po Saktiray daputih (1693-1728) - Kế Bà Tử - em ruột của vua Po Sout, từ năm 1697 nhà Nguyễn tấn phong làm Thuận Thành vương Po Jinah Depatih (1728-1731), cháu của Kế Bà Tử Po Rattirai Depatih (1731-1760), cháu của Kế Bà Tử Po Ladhun Dapaguh (1760-1799) Po Saong Nhung Ceng (1799-1822) Po Klan Thu (1822-1828) *Po Phaok The (1828-1832)

Vua của Panduranga qua các triều đại

Đặc trưng

Panduranga cùng với Kauthara là hai địa khu của bộ tộc Cau sinh sống, một trong hai bộ tộc chính hình thành nên người Chăm sau này, tại Panduranga sớm hình thành các đô thị ven biển mà người chăm vốn lành nghề về hàng hải. Các đô thị vẫn còn tồn tại đến ngày nay tại Việt Nam với các tên gọi chuyển sang Hán Việt như: Panrang (Panduranga) thành Phan Rang, Panrik thành Phan Rí, Pajai thành Phố Hài, Hamu Lithit thành Phan Thiết. Các công trình kiến trúc về tôn giáo như các tháp Chăm được xây dựng liên tục qua các thời kỳ, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 17. Các tháp Po Nagar (ở thế kỷ 8), tháp Hòa Lai, tháp Phú Hài, tháp Po Dam (thế kỷ 9), tháp Po Klaung Garai (thế kỷ 13), tháp Po Rome (thế kỷ 17).

Panduranga là địa khu cuối cùng của người Chăm trước khi bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam năm 1832. Vì thế hiện nay, số lượng người Chăm tập trung và sinh sống ở đây nhiều nhất nước. Các khu vực đông người Chăm sống là các làng ở Phan Rang, Ninh Phước, Ninh Hải tỉnh Ninh Thuận các làng ở Bắc Bình, Tuy Phong tỉnh Bình Thuận. Hiện nay người Chăm ở đây đang còn khoảng 120.000 người và vẫn giữ lại được các tập tục cổ xưa.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Panduranga** (tiếng Chăm cổ: _Paṅrauṅ_ / _Panrāṅ_; tiếng Phạn: पाण्डुरङ्ग / _Pāṇḍuraṅga_; chữ Hán: 潘朧 / **Phan-lung**, 潘郎 / **Phan-lang**) là một tiểu quốc của Champa tồn tại trong giai đoạn 757 - 1832. Lãnh
phải|Lãnh thổ Panduranga-Chăm Pa từ sau 1471 **Panduranga-Chăm Pa** là tên gọi vương quốc Chăm Pa giai đoạn từ năm 1471-1697, khi phần lớn lãnh thổ miền Bắc đã rơi vào tay Đại Việt. Người
**Po Saong Nyung Ceng** (? - 1822) là lãnh tụ của tiểu quốc Panduranga từ 1799 đến 1822. ## Tiểu sử Po Saong Nyung Ceng (Nam sử gọi là **Bộ Đa Kháo** hay **Nguyễn Văn
**Thuận Thành trấn** hay **Trấn Thuận Thành** (), là tên gọi hành chính tiếng Việt của tiểu vương quốc **Panduranga** giai đoạn 1693 - 1832 trong chính sách tự trị của các chúa Nguyễn. Tại
**Phan Rang – Tháp Chàm **(thường được gọi tắt là **Phan Rang**) là thành phố tỉnh lỵ cũ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật của tỉnh Ninh Thuận,
**Po Tisuntiraidapuran** (? - 1793) là lãnh tụ của tiểu quốc Panduranga (Thuận Thành trấn) từ 1780 đến 1793. ## Tiểu sử Po Tisuntiraidapuran (Nam sử gọi là **Nguyễn Văn Tá** / 阮文佐) được biết
**Hoàn Vương** (tiếng Hán: 環王國; Phạn ngữ: पाण्डुरङ्ग / _Pāṇḍuraṅga_; tiếng Chăm cổ: _Panduranga_ / _Paṅrauṅ_) là tên ghi trong lịch sử Trung Hoa gọi vương quốc của người Chăm trong thời kỳ từ 757
**Po Phaok The** (? - 1835) hoặc **Nguyễn Văn Thừa** (阮文承) là lãnh tụ chính thức sau cùng của tiểu quốc Panduranga, tại vị từ 1828 đến 1832. ## Tiểu sử Chính trường Panduranga dưới
**Thủy chiến Tonlé Sap** hay **Chiến tranh Khmer – Panduranga** (, ) là một biến cố ngắn diễn ra trong năm 1177, được ký ức hóa ở di tích Angkor Wat và nhiều văn bia
**Po Klong Garai** (tiếng Chăm: _Po Klaung Yăgrai_, 1151 - 1205) là vua của tiểu quốc Panduranga trong 38 năm. Ông đã lãnh đạo người Chăm đương cự thành công ách đô hộ của triều
**Po Klan Thu** (? - 1828) là lãnh tụ của tiểu quốc Panduranga từ 1822 đến 1828. ## Tiểu sử Chính trường Panduranga dưới triều Minh Mệnh hết sức rối ren. Năm 1822, Po Saong
**Po Krei Brei** (? - ?) là một lãnh tụ tự xưng của tiểu quốc Panduranga từ 1783 đến 1786 và chính thức chỉ trong năm 1790. ## Tiểu sử **Cei Krei Brei** vốn là
**Po Chongchan** (? - ?) là một lãnh tụ tự xưng của tiểu quốc Panduranga vào năm 1796. ## Tiểu sử Không có nhiều sử liệu về lai lịch của Po Chongchan ngoài sự kiện
**Po Ladhuanpuguh** (? - 1799) là lãnh tụ của tiểu quốc Panduranga từ 1793 đến 1799. ## Tiểu sử Sau cuộc nổi dậy của anh em nhà Tây Sơn, lãnh thổ Panduranga trở thành bãi
**Tháp Po Klong Garai** là tên gọi chung cho một cụm tháp Chăm hùng vĩ và đẹp nhất còn lại ở Việt Nam, phụng thờ vua Po Klong Garai. Tháp Pô Klong Garai là một
**Po Dhar Kaok** (? - 1835) hoặc **Nguyễn Văn Nguyên** là phó vương của tiểu quốc Panduranga từ 1822 đến 1832. ## Tiểu sử Po Dhar Kaok vốn là con trai của Po Klan Thu.
**Po Klong M'hnai** hay **Po Klaong Mah Nai** là tước hiệu của một nhà cai trị Panduranga trong giai đoạn 1622 - 1627. ## Tiểu sử Dưới tiền triều Po Ehklang, Po Klong M'hnai được
**Virapura** (_Hùng Tráng thành_) là tên gọi kinh đô của Chăm Pa giai đoạn 757 - 875. ## Lịch sử Thời kỳ Hoàn Vương đánh dấu sự lên ngôi của các thủ lĩnh bộ tộc
**Po Nraop** (?-?) hay **Bà Tấm** () là vua của tiểu quốc Panduranga (Chiêm Thành) từ năm 1651 đến năm 1653. Ông là em trai của vua Po Rome. Năm 1653, Bà Tấm quấy nhiễu
**Yang Po Inư Nagar** hay **Yang Pô Ana Gar** (Inư, Ana trong tiếng Chăm, Eđê, Jarai theo âm cổ gốc có nghĩa là Mẹ) (tên đầy đủ là **Po Inư Nagar**, hay còn gọi là
**Po Saktiraydapatih** (?-1727), sử nhà Việt gọi là **Bà Tử** (婆子) hay **Kế Bà Tử** (繼婆子), là vua của tiểu quốc Panduranga (Champa) từ năm 1695 đến năm 1727. Ông là em trai của Po
**Po Rome** hay **Po Romê** là vua của tiểu quốc Panduranga (Chiêm Thành) từ năm 1627 đến năm 1651. Ông là con rể của Po Klong M'hnai. Năm 1631, Công nữ Ngọc Khoa được gả
**Po Tisundimahrai ** (?-1765), sử nhà Việt gọi là **Nguyễn Văn Thiết**, là vua của tiểu quốc Panduranga (Champa) từ năm 1763 đến năm 1765. Ông là Con trai của Po Rattiraydaputao, từ năm 1732
**Po Tisuntiraydapaghoh** (?-1780), sử nhà Việt gọi là **Nguyễn Văn Tịch**, là vua của tiểu quốc Panduranga (Champa) từ năm 1768 đến năm 1780. Ông là Con trai của Po Rattiraydaputao, từ năm 1768 chúa
**Po Rattiraydaputao** (?-1763), sử nhà Việt gọi là **Nguyễn Văn Đạt**, là vua của tiểu quốc Panduranga (Champa) từ năm 1732 đến năm 1763. Ông là Con trai của Po Thuntiraidaputih, từ năm 1732 chúa
**Po Thuntiraidaputih ** (?-1732), sử nhà Việt gọi là **Nguyễn Văn Thuận**, là vua của tiểu quốc Panduranga (Champa) từ năm 1730 đến năm 1732. Ông là Con trai của Po Ganuhpatih, từ năm 1730
**Po Ganuhpatih** (?-1730), sử nhà Việt gọi là **Bà Thị**, là vua của tiểu quốc Panduranga (Champa) từ năm 1727 đến năm 1730. Ông là Con trai của Po Saktiraydapatih, từ năm 1727 chúa Nguyễn
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Khởi nghĩa Ja Thak Wa** là một cuộc nổi dậy của người Chăm Panduranga bởi Katip Thak Wa (tên tiếng Việt là Điền Sư) lãnh đạo chống lại chính quyền nhà Nguyễn của Hoàng đế
**Champa** (tiếng Phạn: चम्पा, Tiếng Trung: 占婆 _Chiêm Bà_, tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) hay **Chiêm Thành** (占城) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
**Ninh Thuận** là một tỉnh cũ ven biển gần cực nam vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm
**Chiêm Thành** () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: _Campanagara_) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt **Ng̃**) là họ của người Á Đông. Họ Nguyễn là họ người phổ biến nhất của người Việt. Họ Nguyễn cũng xuất hiện tại Triều Tiên và Trung Quốc ()
Tiến trình _Nam tiến_ của dân tộc Việt.|thế= **Nam tiến** (Chữ Nho: 南進) là quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương nam trong lịch sử Việt Nam. _Nam tiến_ là một
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. ## Thời tiền sử và Vương quốc Chăm Pa trái|nhỏ|Tháp Po Nagar,
[[Tháp Po Nagar (Yanpunagara) - trung tâm tôn giáo của Kauthara]] **Kauthara** (chữ Phạn: कौठर / _Kauṭharā_; chữ Hán: 華英 / **Hoa-anh**, 慶和 / **Khánh-hòa**, 古笪羅 / **Cổ-đát-la**) là một địa khu Champa phân bố
**Maha Sajai** (chữ Hán: 槃羅茶遂 / **Bàn-la Trà-toại**, ? - 1474) là quân chủ cuối cùng của liên minh Champa. ## Tiểu sử Chiến tranh Việt-Chiêm năm 1471 kết thúc với việc liên minh Champa
**Người Êđê** (tiếng Êđê: **Anak Rađê** hay được dùng phổ biến theo cộng đồng là **Anak Đê** hay **Đê-Ga**) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là miền trung Việt Nam và
phải|nhỏ|Bản đồ tỉnh Phan Rang năm 1909 (bấy giờ địa bàn bao gồm cả một phần tỉnh Lâm Đồng ngày nay) **Phan Rang** là tên gọi cũ của tỉnh Ninh Thuận, ở gần cực Nam
**Sông Dinh**, còn có tên là **sông Tô Hạp**, **sông Cái Phan Rang**, là một con sông đổ ra Biển Đông. Sông Dinh chảy qua các tỉnh Khánh Hoà và Ninh Thuận, Việt Nam. Sông
**Khánh Hòa** là một tỉnh ven biển thuộc duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Khánh Hòa có diện tích: 8.556 km², xếp thứ 17;
**Vua Champa** là danh sách các vị vua trong lịch sử Champa. Họ sử dụng hai tước hiệu, một là **Raja-di-raja** (Hindi: राजाओं का राजा) từ năm 192 đến năm 1474, và **Po-tana-raya** (Hindi: भूमि
**Phan Rí** là một địa danh trước đây dùng để chỉ một vùng đất nằm giữa hai con sông Lòng Sông (thuộc địa bàn huyện Tuy Phong) và sông Phố Hài (thuộc địa bàn thành
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
phải|nhỏ|250x250px| Hình ảnh mô tả trận [[thủy chiến Tonlé Sap giữa người Chăm và người Khmer trên phù điêu Bayon]] **Chiến tranh Đế quốc Khmer – Chăm Pa** là một loạt các cuộc xung đột
**Quốc gia tàn tồn** (tiếng Anh: _Rump state)_ là một tàn tích của một quốc gia từng lớn hơn nó nhiều, tức diện tích của nó nhỏ hơn, có thể sau một cuộc ly khai,
**Po Binasuor** hay còn được biết đến rộng rãi hơn với tên gọi **Chế Bồng Nga** (Hán-Việt: 制蓬峩, ? - 23 tháng 1 năm 1390 ÂL), theo cách gọi của người Ê Đê và Giarai
**Khu Liên** hay **Sri Mara** (tiếng Tamil: திருமாறன், tiếng Thái: ศรีมาระ) là quốc vương đầu tiên của Lâm Ấp. Người ta cho rằng ông lập ra vương quốc Lâm Ấp (sau này là Chăm Pa)