✨Panduranga-Chăm Pa

Panduranga-Chăm Pa

phải|Lãnh thổ Panduranga-Chăm Pa từ sau 1471 Panduranga-Chăm Pa là tên gọi vương quốc Chăm Pa giai đoạn từ năm 1471-1697, khi phần lớn lãnh thổ miền Bắc đã rơi vào tay Đại Việt. Người Chăm chỉ còn lại tại khu vực mà ngày nay là Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Mặc dù tên gọi Chiêm Thành vẫn chỉ chung vương quốc còn lại của người Chăm, nhưng các tư liệu của Trung Quốc và phương Tây lúc này chỉ còn nói tới vương quốc Panduranga-Chăm Pa khi trung tâm của họ đã dời về vùng Panduranga (địa khu).

Lịch sử

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi Lê Thánh Tông cho sáp nhập vùng đất phía bắc Chăm Pa thành đạo Quảng Nam. Một vị tướng của Chăm Pa là Bố Trì Trì lui về Phan Rang lên ngôi vua và cai quản phần lãnh thổ còn lại từ đèo Cả tới Bình Thuận với danh nghĩa là chư hầu của Đại Việt.

Năm 1579, Nguyễn Hoàng sai tướng là Lương Văn Chính tiến đánh nước Hoa Anh (Phú Yên) ngày nay.

Tới năm 1611, Nguyễn Hoàng trấn thủ xứ Đàng Trong tiếp tục tấn công Panduraga-Chăm Pa và sáp nhập vùng Phú Yên vào lãnh thổ Đàng Trong

Tới năm 1653, Nguyễn Phúc Tần tấn công và sáp nhập vùng Khánh Hòa vào lãnh thổ Đàng Trong

Năm 1594, một vị vua Chăm gửi đoàn hạm đội sang Malaysia giúp vương quốc Johor chống lại Bồ Đào Nha

Năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tiếp tục tấn công và sáp nhập vùng lãnh thổ còn lại là Ninh Thuận và Bình Thuận. Tuy nhiên do sự kháng cự của người Chăm đồng thời các chúa Nguyễn cũng muốn tập trung nguồn lực cho việc tấn công Campuchia nên đã rút lui và dành cho chính quyền người Chăm chế độ tự trị.

Thời kỳ 1697-1832

Các vị vua (từ 1471 - 1697)

Bố Trì Trì - Jayavarman Mafoungnan (1471-1494) Po Kabih (1494-1530) Po Krut Drak (1530-1536) Po Maha Sarak (1536-1541) Po Kunarai (1541-1553) Po At (1553-1579) Po Klong Halau (1579-1603) Po Nit (1603-1613) Po Chai Paran (1613-1618), em vua Po Nit - sau khi bị mất vùng Phú Yên, đã dời kinh đô Bal Cau ở Phan Rang về phía nam ở Phan Rí (Panrik), kinh đô mới có tên là Bal Canar. Bal Canar cũng là kinh đô cuối cùng của Chăm Pa chấm dứt vai trò vào năm 1832 Po Ehklan (1618-1622) Po Po Klong Menai - Mahataha (1622-1627), cướp ngôi từ Po Ehklan Po Rome (1627-1651), con rể của Po Mahataha, sau bị nhà Nguyễn bắt đem về và chết ở Phú Xuân sau trận chiến vào năm 1651 Po Nraup (1651-1653) – Bà Tấm Po Thot (1653-1659), lúc này Chăm Pa mất thêm vùng Khánh Hòa, chỉ còn lại Ninh Thuận và Bình Thuận *Po Sout (1659-1692) - Bà Tranh, bị bắt đưa về Phú Xuân sau trận chiến với nhà Nguyễn năm 1692 và chết năm 1694

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|Lãnh thổ Panduranga-Chăm Pa từ sau 1471 **Panduranga-Chăm Pa** là tên gọi vương quốc Chăm Pa giai đoạn từ năm 1471-1697, khi phần lớn lãnh thổ miền Bắc đã rơi vào tay Đại Việt. Người
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Champa** (tiếng Phạn: चम्पा, Tiếng Trung: 占婆 _Chiêm Bà_, tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) hay **Chiêm Thành** (占城) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192
phải|nhỏ|250x250px| Hình ảnh mô tả trận [[thủy chiến Tonlé Sap giữa người Chăm và người Khmer trên phù điêu Bayon]] **Chiến tranh Đế quốc Khmer – Chăm Pa** là một loạt các cuộc xung đột
**Chăm Pa** độc lập được từ năm 192, phát triển cho đến thế kỷ thứ 10 thì bắt đầu suy yếu, đến năm 1832 thì hoàn toàn mất nước. ## Thất thủ và bỏ kinh
**Vijaya** (Phạn văn: विजय) là tên gọi của một trong bốn địa khu/vùng/tiểu quốc của người Chăm Pa, và đồng thời cũng là tên của kinh đô Chămpa nằm trong địa khu này, Kinh đô
**Vua Champa** là danh sách các vị vua trong lịch sử Champa. Họ sử dụng hai tước hiệu, một là **Raja-di-raja** (Hindi: राजाओं का राजा) từ năm 192 đến năm 1474, và **Po-tana-raya** (Hindi: भूमि
**Chữ viết Chăm** là hệ thống chữ viết để thể hiện tiếng Chăm, một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Cộng đồng người nói tiếng Chăm phân bố chủ yếu ở Việt Nam và
**Panduranga** (tiếng Chăm cổ: _Paṅrauṅ_ / _Panrāṅ_; tiếng Phạn: पाण्डुरङ्ग / _Pāṇḍuraṅga_; chữ Hán: 潘朧 / **Phan-lung**, 潘郎 / **Phan-lang**) là một tiểu quốc của Champa tồn tại trong giai đoạn 757 - 1832. Lãnh
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
**Phan Rang – Tháp Chàm **(thường được gọi tắt là **Phan Rang**) là thành phố tỉnh lỵ cũ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật của tỉnh Ninh Thuận,
**Chiến tranh Việt – Chiêm 1611** là cuộc chiến do chúa Nguyễn Hoàng của xứ Thuận Quảng phát động nhằm xâm chiếm lãnh thổ vương quốc Panduranga-Chăm Pa (tên gọi chính thức của tiểu quốc
**Chiêm Thành** () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: _Campanagara_) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu
**Virapura** (_Hùng Tráng thành_) là tên gọi kinh đô của Chăm Pa giai đoạn 757 - 875. ## Lịch sử Thời kỳ Hoàn Vương đánh dấu sự lên ngôi của các thủ lĩnh bộ tộc
**Lâm Ấp** (Chữ Hán: 林邑; Bính âm: _Lin Yi_) là một vương quốc cổ tồn tại từ khoảng năm 192 đến năm 605, với lãnh thổ ban đầu bao gồm vùng đất từ Quảng Bình
**Văn hóa Sa Huỳnh** là một nền văn hóa khảo cổ được xác định ở vào khoảng năm 1000 TCN đến cuối thế kỷ thứ 2. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba
**Po Binasuor** hay còn được biết đến rộng rãi hơn với tên gọi **Chế Bồng Nga** (Hán-Việt: 制蓬峩, ? - 23 tháng 1 năm 1390 ÂL), theo cách gọi của người Ê Đê và Giarai
phải|Di tích thành Thị Nại **Thành Thị Nại**, còn có tên gọi khác là **thành Bình Lâm**, **Bal Sri Banoy** là một thành cổ nằm ở bên bờ Đầm Thị Nại, đóng vai trò là
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1367–1396)** là một cuộc chiến giữa nước Đại Việt thời hậu kỳ nhà Trần và nước Chiêm Thành do Chế Bồng Nga (Po Binasour) (1360–1390) lãnh đạo. Vào những năm
**Po Rome** hay còn gọi là **tháp Hậu Sanh** là một ngôi tháp Chăm Pa hiện đang còn tồn tại tại làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận ## Hiện
**Pô Dam** hay **Pô Tằm** là một nhóm tháp Chăm ở làng Lạc Trị, xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Tháp này xây để thờ vua Po Dam, hay còn gọi là
**Khu Liên** hay **Sri Mara** (tiếng Tamil: திருமாறன், tiếng Thái: ศรีมาระ) là quốc vương đầu tiên của Lâm Ấp. Người ta cho rằng ông lập ra vương quốc Lâm Ấp (sau này là Chăm Pa)
**Thuận Thành trấn** hay **Trấn Thuận Thành** (), là tên gọi hành chính tiếng Việt của tiểu vương quốc **Panduranga** giai đoạn 1693 - 1832 trong chính sách tự trị của các chúa Nguyễn. Tại
**Khởi nghĩa Ja Thak Wa** là một cuộc nổi dậy của người Chăm Panduranga bởi Katip Thak Wa (tên tiếng Việt là Điền Sư) lãnh đạo chống lại chính quyền nhà Nguyễn của Hoàng đế
**Hoàn Vương** (tiếng Hán: 環王國; Phạn ngữ: पाण्डुरङ्ग / _Pāṇḍuraṅga_; tiếng Chăm cổ: _Panduranga_ / _Paṅrauṅ_) là tên ghi trong lịch sử Trung Hoa gọi vương quốc của người Chăm trong thời kỳ từ 757
**Thủy chiến Tonlé Sap** hay **Chiến tranh Khmer – Panduranga** (, ) là một biến cố ngắn diễn ra trong năm 1177, được ký ức hóa ở di tích Angkor Wat và nhiều văn bia
**Tháp Po Klong Garai** là tên gọi chung cho một cụm tháp Chăm hùng vĩ và đẹp nhất còn lại ở Việt Nam, phụng thờ vua Po Klong Garai. Tháp Pô Klong Garai là một
**Yang Po Inư Nagar** hay **Yang Pô Ana Gar** (Inư, Ana trong tiếng Chăm, Eđê, Jarai theo âm cổ gốc có nghĩa là Mẹ) (tên đầy đủ là **Po Inư Nagar**, hay còn gọi là
Côn Man (Hán Việt: 崑蠻) là một nhóm người Chăm, Mã Lai và Che-Mạ cư ngụ tại đất Chân Lạp và Nam Bộ xưa. Trong sử Việt, sự hà hiếp người Côn Man tại Chân
Vua Việt Nam là các quân chủ của nước Việt Nam độc lập tự chủ từ thời dựng nước đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử mà vua
Đây là danh sách **các cuộc chiến tranh liên quan Việt Nam** bao gồm có sự tham gia của Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trong danh sách này, ngoài những
**Tháp Po Sah Inư** (còn gọi là **Đền Po Sah Anaih** hay **Tháp Chăm Phố Hài**) là một nhóm di tích đền thờ Ấn Độ Giáo hay còn gọi là tháp Chăm, của Vương quốc
**Po Saot** (?-1693) hay **Bà Tranh** (Wan Dam, ) là vua Chiêm Thành, con của Po Rome, làm vua từ khoảng năm 1659 đến năm 1692 thì bị Nguyễn Phúc Chu bắt được đem về
**Chiến tranh Việt – Chiêm 1069** là cuộc chiến do vua Lý Thánh Tông của Đại Việt phát động năm 1069 nhằm đánh vương quốc Chiêm Thành ở phương Nam với lý do người Chiêm
**Jaya Indravarman IV** (tiếng Phạn: जय इन्द्रवर्मन् ८) là một vị vua Champa của triều đại thứ 11, cai trị từ năm 1167 đến năm 1192. ## Tiểu sử Ông và Po Klong Garai (vua
Tiến trình _Nam tiến_ của dân tộc Việt.|thế= **Nam tiến** (Chữ Nho: 南進) là quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương nam trong lịch sử Việt Nam. _Nam tiến_ là một
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. ## Thời tiền sử và Vương quốc Chăm Pa trái|nhỏ|Tháp Po Nagar,
**Ninh Thuận** là một tỉnh cũ ven biển gần cực nam vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm
[[Tháp Po Nagar (Yanpunagara) - trung tâm tôn giáo của Kauthara]] **Kauthara** (chữ Phạn: कौठर / _Kauṭharā_; chữ Hán: 華英 / **Hoa-anh**, 慶和 / **Khánh-hòa**, 古笪羅 / **Cổ-đát-la**) là một địa khu Champa phân bố
**Người Êđê** (tiếng Êđê: **Anak Rađê** hay được dùng phổ biến theo cộng đồng là **Anak Đê** hay **Đê-Ga**) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là miền trung Việt Nam và
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
**Khánh Hòa** là một tỉnh ven biển thuộc duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Khánh Hòa có diện tích: 8.556 km², xếp thứ 17;
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt **Ng̃**) là họ của người Á Đông. Họ Nguyễn là họ người phổ biến nhất của người Việt. Họ Nguyễn cũng xuất hiện tại Triều Tiên và Trung Quốc ()
Tiểu quốc **J'rai** (_Ala Car P'tao Degar_, _Dhung Vijaya_, **Nam Bàn**) là một tiểu quốc cổ của các bộ tộc Nam Đảo ở Tây Nguyên, Việt Nam với bộ tộc nòng cốt là người Gia
**Người Rang Đê** hay **Đêgar**, theo tiếng Phạn Ấn Độ là **Radaya**, là một khối tộc người nói tiếng Ê Đê, Jarai thuộc Ngữ tộc Malay-Polynesia. Dân số của khối tộc người này tại Việt
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Bình Thuận** là tỉnh cũ ven biển nằm ở cực nam của vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Toàn bộ tỉnh (cùng với Đắk Nông) đã được sáp nhập vào Lâm Đồng. Ngày