✨Chiêm Thành

Chiêm Thành

Chiêm Thành () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: Campanagara) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu thế kỷ thứ 11, Chiêm Thành bao gồm 4 vùng đất (nhiều nguồn gọi là tiểu quốc) là: Amaravati (vùng Quảng Nam, Đà Nẵng ngày nay, và vùng Bình - Trị - Thiên nhưng sau này bị sáp nhập vào Đại Việt), Vijaya (vùng Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay), Kauthara (vùng Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay) và Panduranga (vùng Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay).

Các vương triều Chiêm Thành

(Các vương triều trước xin xem bài nhà nước Lâm Ấp và nhà nước Hoàn Vương)

Từ năm 875, sử Việt Nam gọi Chăm pa là Chiêm Thành Quốc. Riêng, vùng Phan Rang (Panduranga) ngày nay được gọi là Tân Đồng Long.

Vương triều thứ sáu (875-982/1000)

Sống mãi trong xa hoa, vương triều Panduranga trở nên yếu đuối. Sau hơn 20 năm chinh chiến với Angkor quyền hành trong nước lọt dần vào tay các dòng vương tôn miền Bắc, chính họ đã chống trả lại các đợt xâm lăng của đế quốc Angkor.

Năm 859, một vương tôn mang nhiều chiến công, tên Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin, được triều thần đưa lên ngôi, hiệu Indravarman II.

Trong những năm 861, 862 và 865, quân Chiêm Thành tổ chức nhiều cuộc tấn công vào phủ An Nam, mang về rất nhiều lương thực và của cải. Năm 889 vua Angkor là Yasovarman hai lần tiến quân vào Chiêm Thành nhưng đều bị đánh bại và chết trong rừng sâu (năm 890), một phần đất trên Đồng Nai thượng và lãnh thổ đông-bắc Angkor (cao nguyên Rattanakiri và Mondolkiri) đặt dưới quyền kiểm soát  của Chiêm.

  • Jaya Indravarman II Kinh đô chính là Đồng Dương - Quảng Nam ngày nay. Thời gian của triều đại này là từ 875 - 889. Jaya Sinhavarman I. Thời gian của triều đại này là từ 898 - 903. Ông là cháu gọi Indravarman II là cậu. Jaya Caktivarman. Bhadravarman II (vào khoảng những năm 908 đến năm 910). Indravarman III. Vào năm 918, Indravarman III cho đúc tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng dựng tại Tháp Bà. Năm 945 vua Khmer là Rajendravarman II cùng binh sĩ băng rừng từ Angkor vào Kauthara, cướp tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng - vị thần bảo vệ xứ sở và là biểu tượng uy quyền của Chiêm Thành - trong tháp Yan Po Nagara mang về nước. Năm 965, Jaya Indravarman I cho dựng lại tượng nữ thần Bhagavati bằng đá ở Kauthara. Lúc này đạo Bà La Môn trở thành quốc giáo. Cũng trong giai đoạn này, đạo Hồi được truyền bá thông qua một quý tộc từ Java đến tị nạn là Rahdar Ahmed Abu Kamil (Naqid Amr Ali). Paramesvaravarman I (Ba Mỹ Thuế hay Tốt Lợi Đà Bàn Ấn Đồ hoặc Ba Mĩ Thế Hạt Ấn Bồ). Năm 979, trước hoặc sau cái chết của Đinh Tiên Hoàng, ông đã tiếp đón Ngô Nhật Khánh (theo gia phả là cháu nội Ngô Quyền) lưu vong sang Chăm Pa, hỗ trợ binh lính cho Ngô Nhật Khánh để can thiệp vào việc kế thừa ngôi vua ở Đại Cố Việt và bị vua Lê Đại hành đánh tử trận (982?). Lưu Kế Tông (983), kẻ đoạt ngôi. Năm 983, một quản giáp (trưởng làng) người Việt (?) sinh sống trên lãnh thổ Chăm Pa nổi lên, đoạt ngôi nhưng bị vua Lê Đại Hành đánh tử trận (983?). Trong thời gian Lưu Kế Tông trị vì, có một người Chăm gốc Hoa (?) tên Poulo Ngo (?) dẫn theo khoảng 150 người đổ bộ lên đảo Hải Nam và vùng duyên hải nam Quảng Châu tị nạn. *Indravarman IV (Ấn Đà Bàn Ngô Nhật Hoan), Đại Việt Sử Ký gọi là Băng Vương La, lên ngôi năm 983 sau khi Lưu Kế Tông chết, Ông dời đô từ Cửu Châu (Ô Lý) sang Tân Châu (Phật Thành) vào năm 982, 988 hoặc 1000 SCN.

Vương triều thứ bảy (982/1000-1044)

Indravarman IV (Ấn Đà Bàn Ngô Nhật Hoan), Đại Việt Sử Ký gọi là Băng Vương La, lên ngôi năm 983 sau khi Lưu Kế Tông chết, Ông dời đô từ Cửu Châu (Ô Lý) sang Tân Châu (Phật Thành) vào năm 982, 988 hoặc 1000 SCN. Yan Pu Ku Vijaya (Dương Phô Củ). Cho dời đô về Vijaya (Đồ Bàn, Bình Định). Trị vì đến năm 1007. Sri. Bi Trà (Xà Lời) lên ngôi. Harivarman III Paramecvaravarman II (phiên âm là Thi Nặc Bài Ma Diệp) tồn tại khoảng trước và sau năm 1021. Vikrantvarman IV. *Jaya Sinhavarman II (phiên âm chữ Hán là Hình Bốc Tộc Li Trị Tinh Ba Phật) hay Sạ Đẫu. Trị vì từ 1041 đến năm 1044. Vua Lý Thái Tông đã đánh thành Phật Thệ, chém được Sạ Đẫu, bắt các vợ và cung nữ của Sạ Đẩu, trong đó có nàng Mỵ Ê.

Vương triều thứ tám (1044-1074)

Jaya Paramesvaravavarman I. Ứng Ni lên ngôi vào năm 1044, kết thúc trị vì năm 1060. Ông đàn áp sự chống đối của dân Panduragan. Bhadravarman IV, làm vua khoảng 2 năm 1060 đến 1061. *Rudravarman III. Chế Củ (Dương Bộc Thi Lợi Luật Đà Bàn Ma Đề Bà) lên ngôi vào năm 1061. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành. Chế Củ dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý (Quảng Bình), Ma Linh (Quảng Trị). Năm 1074 đưa vợ con và 3000 lính sang cư trú ở Đại Việt.

Vương triều thứ chín (1074-1139)

Harivarman IV. Nhà vua bắt đầu trị vì vào năm 1074, đánh phá biên giới Đại Việt, đánh Chân Lạp đến Cambhupura, đốt phá nhiều đền điện của Chân Lạp. Năm 1075, Lý Thường Kiệt đi đánh Chiêm Thành nhưng không thu được kết quả. Harivarman IV dựng lại kinh đô Indrapura (Quảng Nam) đã bị bỏ từ lâu và cho xây nhiều đền tại Mỹ Sơn. Jaya Indravarman II (lần thứ nhất) từ năm 1080 đến 1081. Ông bị chú là Paramabhodistava truất quyền. Paramabhodistava. Bắt đầu vào năm 1081, bị giết năm 1086 nên Jaya Indravarman II lên ngôi lần 2. Jaya Indravarman II(lần thứ 2). Chế Ma Na bắt đầu trị vì năm 1086. Năm 1104, Chế Ma Na đánh ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, nhưng bị Lý Thường Kiệt đánh bại. *Harivarman V (1114-1129) là cháu gọi Jaya Indravarman II là chú.

Vương triều thứ mười (1139-1145)

*Jaya Indravarman III (1139-1145). Năm 1145, vua Chân Lạp là Suryavarman II đánh chiếm Vijaya, Jaya Indravarman III mất tích và triều đại này kết thúc.

Vương triều thứ mười một (1145-1318)

Rudravarman IV. Kinh đô chính là Panduranga. Kết thúc vào năm 1145. Jaya Harivarman I (Chế Bì La Bút). Ông là hoàng tử Civanandana,con vua Rudravarman IV Jaya Harivarman II. Ông là con vua Jaya Harivarman I. Làm vua khoảng 4 năm thì bị cướp ngôi. Jaya Indravarman IV (1167-1190). Ông đã tấn công nước Angkor bằng một trận thủy chiến ngược dòng sông Mêkong. Có giả thuyết ông bị vua Cao Miên bắt trong một cuộc hành quân vào Chiêm Thành.

Sau đó vào năm 1190, Chiêm Thành chia thành hai tiểu vương quốc riêng: Vương quốc Vijaya và Vương quốc Panduranga. Vào năm 1192 thì lại hợp nhất lại. Jaya Paramecvaravarman II lên ngôi năm 1226, từ đây người Chân Lạp tự ý rút khỏi Chiêm Thành. Ông là con cả vua Jaya Harivarman II. Jaya Indravarman VI. Jaya Indravarman VI là vị vua có mối quan hệ giao hảo với Đại Việt. Ông bị ám sát và cướp ngôi năm 1257. Indravarman V (1265-1285). Indravarman V có tên thật là Cri Harideva, người cháu đã ám sát vua Jaya Indravarman VI, và đến năm 1266 thì làm lễ đăng quang. Nhường ngôi cho thái tử Harifit tức vua Jaya Sinhavarman III Jaya Sinhavarman III (Chế Mân). Năm 1305 - 1306, Chế Mân đem vàng bạc và Ô Lý (Ulik) làm lễ cưới công chúa Huyền Trân. Năm 1307, Chế Mân chết, nhà Trần dùng kế đưa Huyền Trân trở về. *Jaya Sinhavarman IV (Chế Chí) (1307-1312). Vua Trần Anh Tông sai quân đi đánh Chiêm Thành, bắt được Chế Chí đem về hành cung ở Gia Lâm, phong Chế Chí làm Hiệu Trung Vương, sau đó đổi thành Hiệu Thuận Vương. Chế Chí mất năm 1313. Tác Chí lên ngôi sau Chế Chí. Vào năm 1312 thì Chế Năng (Chế Đà A Bà Niêm) lên ngôi, trị vì cho đến năm 1318. Năm 1318, Chế Năng đánh chiếm hai châu Ô, Lý, nhưng bị thua và phải chạy sang Java.

Vương triều thứ mười hai (1318-1390)

Chế A Nan lên ngôi, trị vì từ năm 1318 đến năm 1342. Năm 1342, vua Trần Minh Tông sai Huệ Túc Vương Đại Niên đem quân đi đánh Chiêm Thành nhưng không được. Trà Hoa Bồ Đề, con rể của Chế A Nan và là hậu duệ của Chế Mân, trị vì từ năm 1342 đến năm 1360. Khi lên ngôi bị con của Chế A Nan là Chế Mỗ phản đối dẫn đến cuộc chiến suốt 10 năm để tranh giành quyền lực. Năm 1360, Trà Hoa Bồ Đề chết. *Chế Bồng Nga (A Đáp A Giả). Em của Chế A Nan, trị vì từ năm 1360 đến năm 1390. Chế Bồng Nga đem quân đi đánh châu Hoá vào các năm 1361, 1362, 1366, 1368. Ông chết trận vào ngày 23 tháng 1 năm 1390.

Vương triều thứ mười ba (1390-1458)

La Khải (La Ngai, Các Thắng, 1390-1400). Ông là tướng của Chế Bồng Nga và Minh Sử gọi ông là Các Thắng. Minh Sử cho rằng Các Thắng đã phản bội và làm chết A Đáp A Giả (Chế Bồng Nga) rồi đoạt ngôi nên không công nhận là Vua Chăm Pa chính thức. Năm 1394, nhà Trần đánh La Khải và thu lại đất Hóa Châu. Năm 1400, La Khải chết và Ba Đích Lại lên ngôi. Ba Đích Lại (Ngaok Glaong Wijaya, 1400-1441). Sau nhà Hồ bị nhà Minh tiêu diệt, một thời gian dài (1407-1428), Ba Đích Lại kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Chăm Pa xưa từ Bắc Trung Bộ đến Cực Nam Trung Bộ dưới sự ủng hộ của nhà Minh. Theo Minh Sử, ông đã tiếp đãi Đề đốc Trịnh Hòa thăm Chăm Pa rất nhiệt tình (1407). Ông có 4 văn bia bằng tiếng Chăm, và tự hào chiến thắng đối với các nước như Nagar Yuen (Đại Việt), Nagar Kur (Campuchia), Nagar Brah Kanda (một tiểu quốc bên cạnh Chăm Pa, hay la Bal Anguei?). Biên niên sử Mã Lai có ghi chép về vua Cempa (Chăm Pa) tên Po Geleng (=Po Glaong?). Theo Biên niên sử Hoàng gia (Sakkahray Dakrai Putao), năm con trâu (1397), quân đội Jek đánh Bal Anguei, Vua Anguei tên Po Parican chết, dân tỵ nạn Bal Anguei đổ vào Bal Pangdarang (Pa-nrang, Pāṇḍuraṅga, vùng Phan Rang ngày nay). Năm 1428, sau khi quân đội nhà Minh rút về, Ba Đích Lại đối mặt với Lê Lợi ở phía Bắc (Thăng Long) và Po Kasit, con của Po Parican ở phía Nam (Pāṇḍuraṅga). Năm 1434 và 1435, cuộc chiến tranh giành Hoá Châu giữa nhà Lê và Ba Đích Lại bắt đầu. Ma Ha Bi Cai (Ca, 1441-1446). Năm 1446 bị quân nhà Lê bắt về Thăng Long. Ma Ha Quý Lai (1446-1449). Ông là cháu của Ma Ha Bi Cai, bị em là Ma Ha Quý Do bắt giam và giành lấy ngôi vua. *Ma Ha Quý Do (1449-1458). Bị Bàn La Trà Nguyệt giết chết vào cuối năm 1457 đầu năm 1458

Vương triều thứ mười bốn (1458-1471)

Ban La Trà Nguyệt (Bàn La Trà Duyệt). Ban La Trà Toàn.

Năm 1470, vua Chiêm là Trà Toàn cầu viện nhà Minh, năm 1469, 1470 Trà Toàn sai quân đi đánh Hoá Châu. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông (1460 1497) thân chinh đi đánh Chiêm Thành (Vương quốc Vijaya Chăm Pa), hạ thành Đồ Bàn, giết 60.000 người, bắt Trà Toàn và hơn 30.000 tù nhân, kết thúc triều đại thứ mười bốn của Chiêm Thành. Tướng Chiêm là Bô Trì Trì sai sứ vào cống xin xưng thần.

1471 - 1694

Năm 1472: Bô Trì Trì ở Phan Lũng (Pāṇḍuraṅga) tự xưng vương, giữ được 1/5 đất cũ Chiêm Thành. Lúc đó Chiêm Thành còn lại chia thành ba nước là Hoa Anh, Nam Bàn và Chiêm Thành (Đại Chiêm). Vùng đất từ đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi các chúa Chăm Pa vẫn duy trì cho đến đời chúa Nguyễn Hoàng). Vua ở Biuh Bal Bat-si-nang, Pa-nrang (dòng dõi của vua Po Parican ở Bal Anguei, thất thủ vào năm 1397) vào năm 1471-1472 là Po Ku Brah (trị vì 1460-1494), con trai của Po Kasit, cháu ngoại của Po Parican. Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đem quân vào đánh Chiêm Thành, lấy phần đất từ đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi, đặt làm Phủ Phú Yên. Năm 1627 đến năm 1651. Pô Rome xưng vương. Dã sử ghi vợ của Pô Rome là con gái Chúa Nguyễn, tức công chúa Ngọc Hoa (Ngọc Khoa). Tuy nhiên, tất cả các sử sách chính thức như _Đại Nam Thực Lụ_c Tiền Biên, Gia phả Nguyễn Phúc Tộc, Biên niên sử Hoàng gia - Sakkahray Dakrai Putao và các văn bản Chăm khác đều không có ghi chép về sự kiện này, Truyện này nằm trong sưu tập của Aymonier và được Dohamide & Dorohiem giới thiệu với tên công chúa Bia Ut - hoàng hậu xứ Bắc. Cốt truyền này khớp với truyền thuyết về Po Phindisak trong cộng đồng Chăm Campuchia, vầ không khớp với mối quan hệ giữa Po Rome và Nguyễn Phúc Nguyên trong lịch sử. Năm 1653. Bà Tấm đem quân đánh Phú Yên, bị quân chúa Nguyễn Phúc Tần đánh đuổi đến sông Phan Rang. Chiêm Thành đã mất phần đất Bắc Phan Lũng, giới hạn từ phía Tây sông Phan Rang (Sông Dinh) trở vào (Nam Phan Lũng). Năm 1692. Bà Tranh đem quân đi cướp phá. Đến năm 1693, bị quân chúa Nguyễn Phúc Chu đánh bại. Bà Tranh bị bắt, giam tại Hòn Chén đến năm 1694 thì mất. Đổi Chiêm Thành Quốc thành Thuận Thành Trấn, rồi thành Bình Thuận Phủ. Năm 1694. Quý tộc người Chăm Ốc Nha Đát và tướng người La Vũ (_Đại Nam Thực Lụ_c Tiền Biên ghi là người Thanh) A Ban phản công, đánh bại quân đội chúa Nguyễn. Theo Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (1848) và Hoa Di Biến Thái (1694), hơn 1.000 lính và 13 tướng Nguyễn bị giết chết. *Năm 1695. Chúa Nguyễn Phúc Chu cầu hòa với quân đội Chăm, cho phép lập lại Thuận Thành Trấn vương, phong Kế Bá Tử làm Trấn Vương, cai trị Thuận Thành Dân (người Chăm và các dân tộc miền núi Cực Nam Trung Bộ - Nam Tây Nguyên – Đông Nam Bộ).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiêm Thành** () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: _Campanagara_) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu
Bộ sách Truyện tranh lịch sử Việt Nam Khát vọng non sông gồm hàng trăm tập, giới thiệu ngắn gọn, sinh động những truyền thuyết đầy tính nhân văn và những sự kiện, những nhân
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1367–1396)** là một cuộc chiến giữa nước Đại Việt thời hậu kỳ nhà Trần và nước Chiêm Thành do Chế Bồng Nga (Po Binasour) (1360–1390) lãnh đạo. Vào những năm
**Chiến tranh Việt – Chiêm 1471** là cuộc chiến do vua Lê Thánh Tông của Đại Việt phát động vào năm 1471 nhằm chống lại vương quốc Chiêm Thành ở phương Nam. Quân đội Đại
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1400–1407)** là cuộc chiến giữa nhà Hồ nước Đại Ngu và nước Chiêm Thành phía nam. Ban đầu nhà Hồ chiếm được đất đai mà tương đương với nam Quảng
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Chiến tranh Việt – Chiêm** là một loạt những cuộc chiến tranh giữa Đại Việt, chính quyền Đàng Trong của người Việt ở phía Bắc và vương quốc Chiêm Thành (Chăm Pa) của người Chăm
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Chiến tranh Việt – Chiêm 1069** là cuộc chiến do vua Lý Thánh Tông của Đại Việt phát động năm 1069 nhằm đánh vương quốc Chiêm Thành ở phương Nam với lý do người Chiêm
**Chiến tranh Việt – Chiêm 1446** là cuộc chiến do thái hậu nhiếp chính Nguyễn Thị Anh của Đại Việt phát động năm 1446 nhằm bình định vương quốc Chiêm Thành. Quân Đại Việt đã
**Indonesia chiếm đóng Đông Timor** từ tháng 12 năm 1975 đến tháng 10 năm 1999. Sau thế kỷ cai trị của thực dân Bồ Đào Nha ở Đông Timor, một cuộc đảo chính năm 1974
**Thành phố Anh hùng** (tiếng Nga: город-герой, _gorod-geroy_) là một danh hiệu vinh dự được Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết trao tặng cho 12 thành phố đã có những
**Chiến tranh Việt – Chiêm 1044** là một cuộc chiến được nhà Lý phát động năm 1044 nhằm tấn công nước Chiêm Thành ở phương Nam với lý do người Chiêm bỏ nộp cống cho
nhỏ|phải|Người Hoa ở Sài Gòn vào đầu thế kỷ 20 Người gốc Hoa sống tại Thành phố Hồ Chí Minh tập trung ở quận 5, quận 6, quận 8, quận 10 và quận 11. Theo
**Vũng Tàu** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là trung tâm kinh tế, tài chính, văn hóa, du lịch, và là một
**Chiến tranh Việt – Chiêm 982** là cuộc chiến do vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt phát động vào mùa hè năm 982 nhằm bình định vùng lãnh thổ bắc Bạch Mã của vương
**Hội An** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Quảng Nam cũ tại Việt Nam. Phố cổ Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, gồm những di sản kiến trúc đã
**Thành Gia Định**, hay **thành Sài Gòn** (còn được biết đến với tên **thành Phiên An**) là một thành cũ ở Gia Định, tồn tại từ 1790 đến 1859. Đã có hai tòa thành được
**Thành Đa Bang** là một khu thành cổ được xây dựng dưới triều đại nhà Hồ vào năm 1406, tại xã Cổ Pháp tổng Thanh Mai huyện Tiên Phong phủ Quảng Oai tỉnh Sơn Tây
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
Thành Tân Sở (dựa theo bản vẽ của A.Delvaux) **Thành Tân Sở** hay **Sơn phòng Tân Sở** là tên một tòa thành cổ của nhà Nguyễn; nay thuộc địa phận làng Đốc Kỉnh, xã Cam
**Chiến tranh thành Troia** (còn được nhắc đến bằng các tên gọi như **cuộc chiến thành Tơ-roa**, **chiến tranh Tơroa** trong một số tài liệu) là một cuộc chiến quan trọng trong thần thoại Hy
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
Thành phố mà ngày nay được gọi là Thành phố Hồ Chí Minh () đã được gọi bằng một số tên khác nhau xuyên suốt lịch sử của nó, phản ánh sự định cư của
**Chiến tranh Việt – Chiêm 1611** là cuộc chiến do chúa Nguyễn Hoàng của xứ Thuận Quảng phát động nhằm xâm chiếm lãnh thổ vương quốc Panduranga-Chăm Pa (tên gọi chính thức của tiểu quốc
**Chợ Bến Thành** là một ngôi chợ nằm tại phường Bến Thành, Thành phố Hồ Chí Minh. Chợ được khởi công xây dựng từ năm 1912, hình ảnh đồng hồ ở cửa nam của ngôi
**Tả Thanh Oai** là một xã của huyện Thanh Trì thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Vị trí địa lý Xã Tả Thanh Oai nằm ở phần phía Tây của huyện Thanh Trì, phía
**Thành Hải Dương**, còn gọi là **Thành Đông**, là một ngôi thành cổ thời nhà Nguyễn. Ngôi thành được đắp bằng đất năm 1804, dùng làm nơi làm việc cho bộ máy trấn thành Hải
Tranh vẽ Thành cổ Ninh Bình năm 1888 bởi Dick de Lonlay với [[núi Non Nước ở bên trái]] **Thành cổ Ninh Bình** hay **thành Ninh Bình** là một thành lũy, pháo đài quân sự
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
nhỏ|Bản vẽ thành Vinh, Nghệ An **Thành cổ Nghệ An**, còn gọi là **Thành cổ Vinh**, là tên gọi di tích một tòa thành cổ được xây dựng dưới thời Nguyễn lịch sử Việt Nam,
Phố cổ Thành Nam ngày nay. Ảnh chụp phố Hàng Sắt. Phố cổ Thành Nam xưa. Ảnh chụp khu phố của Hoa kiều. **Phố cổ Thành Nam** hay **phố cổ Nam Định** là khu vực
Dưới sự giúp đỡ của Nguyễn Xí và Đinh Liệt hai bậc công thần của vua Lê Thái Tổ, Lê Tư Thành lên vua, tức là vua Lê Thánh Tông, lấy niên hiệu là Quang
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công
**Thành bang** (, ), **thị quốc** (), **thành quốc** () hay **thành phố-quốc gia** (, hay ) là một thực thể độc lập hoặc tự trị, không do một chính quyền địa phương khác quản
**Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh** là cơ quan quyền lực nhà nước địa phương ở Thành phố Hồ Chí Minh, tạo thành nhánh lập pháp trong Chính quyền Thành phố Hồ
thumb | Tranh vẽ Mẫu Đệ Tam Thoải Tiên trong trang phục nhà Lê, bởi hoạ sĩ Lunae Lumen. Tranh thuộc dự án Thánh Nhan của trang Four Palaces - Tứ Phủ hay **Mẫu Đệ
Cửa Bắc, hình chụp bên ngoài năm 2009. **Cửa Bắc**, **thành Cửa bắc** hay **Chính Bắc Môn** (正北門) là một trong năm cửa của thành cổ Hà Nội thuộc thời Nguyễn. ## Vị trí và
**Thánh Vịnh 137** (đánh số Hy Lạp: **136**) là bài Thánh Vịnh thứ 136 trong Kinh Thánh Cựu Ước. Thánh Vịnh 136 diễn tả tâm trạng của người Do Thái đang bị đi lưu đày
**Eustathios thành Thessaloniki** (; khoảng 1115 – 1195/6) là học giả Đông La Mã gốc Hy Lạp và là Tổng giám mục Thessaloniki. Ông trở nên nổi tiếng vì là chứng nhân đương thời tường
thumb|Tàn tích của bức tường với [[Miếu Na Tra bên phải.]] **Trường thành Ma Cao** hay **Tường thành Ma Cao cổ** (tiếng Trung:_舊城牆遺址_) là tàn tích của một bức tường bao quanh thành phố thời
**Chiêm tinh học** là một hệ thống huyền học, hay ngụy khoa học dự đoán về vấn đề nhân loại và sự kiện trần thế bằng cách nghiên cứu chuyển động và vị trí tương
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
**Trận Thành cổ Quảng Trị** () là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam với Quân đội
**Châu Thành** là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Châu Thành nằm ở phía nam tỉnh Long An, cách thành phố Tân An khoảng 12 km, cách trung tâm
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Chiêm tinh học phương Tây** là hệ thống chiêm tinh phổ biến nhất ở các quốc gia phương Tây. Chiêm tinh học phương Tây có nguồn gốc lịch sử từ tác phẩm _Tetrabiblos_ của Ptolemy
Chiêm tinh học bao gồm một số hệ thống niềm tin được cho rằng có một mối quan hệ giữa các hiện tượng thiên văn và các sự kiện hay đặc điểm nhân cách trong
**Chiếm đóng quân sự bởi Liên Xô** viết về các vụ chiếm đóng bằng vũ lực của Liên Xô từ lúc mở màn cho tới sau thế chiến thứ hai và sau đó trong thời