✨Chiến tranh Việt – Chiêm (1400–1407)

Chiến tranh Việt – Chiêm (1400–1407)

Chiến tranh Việt – Chiêm (1400–1407) là cuộc chiến giữa nhà Hồ nước Đại Ngu và nước Chiêm Thành phía nam. Ban đầu nhà Hồ chiếm được đất đai mà tương đương với nam Quảng Nam và bắc Quảng Ngãi ngày nay; nhưng sau đó, do cuộc xâm lăng của nhà Minh, nhà Hồ thất bại và Chiêm Thành đã lấy lại những đất đai từng bị nhà Hồ chiếm.

Hoàn cảnh

Từ cuối thế kỷ 14, Chiêm Thành dưới thời Chế Bồng Nga đã nhiều lần tấn công Đại Việt khiến nhà Trần phải bỏ kinh thành Thăng Long. Chỉ từ sau khi Chế Bồng Nga tử trận năm 1390, những cuộc tấn công từ phía nam mới lắng xuống. Các con Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan và Chế Sơn Na bị tướng La Ngai giành ngôi, yếu thế phải chạy sang đầu hàng Đại Việt.

Một ngoại thích có thế lực của nhà Trần là Hồ Quý Ly – người từng nhiều lần thất bại trong các cuộc đối đầu ngoài mặt trận chống quân Chiêm dần dần thâu tóm quyền hành trong triều Trần và đến năm 1400 thì cướp ngôi nhà Trần, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu. Năm 1401, vua Hồ Quý Ly truyền ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi trở thành Thái thượng hoàng.

Cùng hàng loạt cải cách kinh tế để chấn hưng đất nước suy yếu dưới thời Trần, hai vua nhà Hồ chủ trương đánh Chiêm Thành để mở rộng đất đai về phía nam.

Nhà Hồ nam tiến 1400

Năm 1400, La Ngai chết, con là Ba Đích Lại lên thay. Tháng 8 năm 1400, Hồ Quý Ly nhân lúc Ba Đích Lại mới lên ngôi bèn sai Đỗ Mãn và Trần Tùng mang quân đánh Chiêm. Đỗ Mãn cầm quân thủy, Trần Vấn làm phó; Trần Tùng cầm quân bộ, Đỗ Nguyên Thác làm phó; 4 tướng mang tất cả 15 vạn quân nam tiến.

Khi tiến đến biên giới đất Chiêm, Trần Tùng theo kế của Đinh Đại Trung, đi theo đường núi hiểm trở, cách xa quân thủy. Quân bộ bị kẹt 3 ngày trong núi không có lương ăn, phải nướng cả mai rùa và da thú lên để ăn.

Cuối cùng do quân bị đói, Trần Tùng phải rút quân về. Hồ Quý Ly giận Trần Tùng làm hỏng việc quân, nhưng nể công Trần Tùng giúp mình khi chưa lên ngôi nên không giết mà chỉ đày làm lính.

Nhà Hồ nam tiến 1402

Năm 1402, Hồ Hán Thương lại mang quân đi đánh Chiêm Thành lần thứ hai, dùng Đỗ Mãn cùng các tướng Nguyễn Vị, Nguyễn Bằng Cử và Đinh Đại Trung.

Đinh Đại Trung làm tiên phong đi trước, gặp tướng Chiêm là Chế Cha Nan. Hai bên giao chiến đều có thiệt hại nhưng cuối cùng quân Chiêm bị thua. Vua Chiêm là Ba Đích Lại sợ hãi, bèn sai cậu là Bố Điền đến gặp quân Đại Ngu dâng voi trắng, voi đen và xin nộp đất Chiêm Động (nam Quảng Nam) để làm điều kiện cho nhà Hồ lui quân.

Bố Điền đến nơi, xin được giảng hòa. Hồ Quý Ly không chấp nhận, bắt phía Chiêm Thành phải làm tờ biểu khác và dâng cả đất Cổ Lũy (bắc Quảng Ngãi). Ba Đích Lại thế yếu phải chấp nhận yêu sách của nhà Hồ, bèn chuyển dân về phía nam và nộp đất Chiêm Động, Cổ Lũy.

Nhà Hồ tiếp quản đất mới từ Chiêm Thành, bèn chia Chiêm Động làm hai châu Thăng và Hoa; chia Cổ Lũy thành 2 châu Tư và Nghĩa. Để ổn định đất đai phía nam, nhà Hồ cho An phủ sứ Thuận Hóa là Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa (đến năm 1406 dùng Hoàng Hối Khanh thay Nguyễn Cảnh Chân); cho con của Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan làm Cổ Lũy huyện thượng hầu, trấn giữ châu Tư và châu Nghĩa, chiêu dụ người Chiêm để chuẩn bị thực hiện cuộc nam tiến tiếp theo. Do Ba Đích Lại đã dời nhiều người Chiêm về nam, đất Tư – Nghĩa ít người, nhà Hồ đưa những người không có ruộng đất ở phía bắc vào khai phá những vùng đất mới này.

Nhà Hồ nam tiến 1403

Năm 1403, Hồ Hán Thương lại ra lệnh đóng chiến thuyền nhỏ để tiếp tục đánh Chiêm. Nhà Hồ sai Phạm Nguyên Khôi, Đỗ Mãn cùng Đỗ Nguyên Thác, Hồ Vấn mang 20 vạn quân đánh Chiêm Thành lần thứ ba.

Nguyên Khôi ra lệnh trong quân rất nghiêm, ai nhút nhát sợ hãi sẽ chém. Quân Đại Ngu nhanh chóng tiến đến bao vây kinh thành Chà Bàn của Chiêm Thành. Trong tình thế nguy cấp, Ba Đích Lại bèn sai sứ cầu cứu nhà Minh. Minh Thành Tổ điều 9 thuyền chiến vượt biển sang cứu Chiêm.

Phạm Nguyên Khôi vây hãm Chà Bàn trong 9 tháng nhưng không hạ được. Quân Đại Ngu hết lương, đành phải rút về. Quân nhà Hồ về nửa đường gặp quân Minh ngoài biển. Tướng Minh sai người nói với Nguyên Khôi "nên rút quân về ngay, không nên ở lại". Nguyên Khôi không giao chiến với quân Minh mà rút về nước, bị Hồ Quý Ly trách sao không giết hết thủy quân nhà Minh.

Chiêm Thành bắc tiến 1407

Năm 1406, với danh nghĩa "phù Trần diệt Hồ", nhà Minh mang quân sang đánh Đại Ngu. Sau một số trận kháng cự, sang năm 1407, nhà Hồ thất thế phải chạy vào nam.

Ba Đích Lại nhân lúc Đại Ngu bị quân Minh đánh bèn mang quân bắc tiến để chiếm lại đất cũ của Chiêm Thành. Chế Ma Nô Đà Nan ở Tư Nghĩa một mình chống lại quân Chiêm Thành nhưng không có trợ lực. Do cô thế, Chế Ma Nô Đà Nan bị quân Chiêm giết chết. Quân Chiêm chiếm lại châu Tư, Nghĩa, tức là đất Cổ Lũy trước đây.

Ba Đích Lại tiếp tục đánh ra châu Thăng, Hoa. Dân cư người Việt mới di cư đến vùng này tan rã bỏ chạy, An phủ sứ lộ Thăng Hoa là Hoàng Hối Khanh không chống nổi quân Chiêm, phải bỏ Thăng Hoa rút về Hoá châu.

Tháng 6 năm 1407, cha con Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt. Tình hình Hóa châu rất rối ren: các tướng nhà Hồ chia bè phái đánh lẫn nhau. Đặng Tất về phe Hoàng Hối Khanh, còn Nguyễn Phong về phe với Nguyễn Lỗ. Lúc đó Đặng Tất về theo đường thủy về trước, Nguyễn Lỗ đi đường bộ về sau. Nguyễn Phong về phe với Lỗ ngăn không cho Đặng Tất vào thành Hóa châu. Đặng Tất đánh giết được Phong để vào thành rồi sau đó cùng Lỗ giao chiến hơn 1 tháng, đánh bại Lỗ. Lỗ chạy sang Thăng Hoa đầu hàng Chiêm Thành và được Ba Đích Lại trọng dụng. Hoàng Hối Khanh bèn giết hết gia đình Lỗ.

Quân Chiêm Thành thừa thế tiến lên đánh Hoá châu, trong khi đó quân Minh sau khi bắt được cha con họ Hồ cũng tiến vào nam "bình định" Hoá châu. Tướng nhà Hồ là Phạm Thế Căng đón quân Minh ở Nghệ An xin hàng. Tướng Minh là Trương Phụ cử Đỗ Tử Trung đi dụ Hoàng Hối Khanh và Đặng Tất. Hối Khanh bỏ trốn, sau đó bị bắt đã tự sát. Bị kẹp giữa hai kẻ địch, Đặng Tất phải tạm hàng quân Minh để ngăn quân Chiêm bắc tiến, được Trương Phụ cho giữ chức Đại tri châu Hoá châu.

Tạm yên phía bắc, Đặng Tất dồn sức chống Chiêm Thành. Quân Chiêm đánh không được phải rút về.

Kết quả

Trong 7 năm chiến tranh giữa nhà Hồ và Chiêm Thành, nhà Hồ giành ưu thế và đã mở được đất đai 4 châu về phía nam. Vì sự can thiệp của nhà Minh vào Đại Ngu, nhà Hồ bị diệt. Khi nhà Hồ mất và nhà Minh bắt đầu xác lập quyền cai trị ở đất Việt, Chiêm Thành đã chiếm lại được đất Chiêm Động và Cổ Lũy từng phải dâng cho nhà Hồ trước đây.

Phần đất nhà Minh chiếm đóng của Đại Ngu chỉ giới hạn đến Hóa châu. Trên danh nghĩa, Trương Phụ đặt ra phủ Thăng Hoa để cai quản 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa nhưng trên thực tế chỉ là đặt khống.

Theo Minh thực lục, ngày 16-4-1414, Trương Phụ và Mộc Thành đã cho thiết lập 4 châu ở Giao Chỉ là Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và báo cho vua Chiêm Thành là Chiêm Ba Đích Lại biết.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1400–1407)** là cuộc chiến giữa nhà Hồ nước Đại Ngu và nước Chiêm Thành phía nam. Ban đầu nhà Hồ chiếm được đất đai mà tương đương với nam Quảng
**Chiến tranh Việt – Chiêm** là một loạt những cuộc chiến tranh giữa Đại Việt, chính quyền Đàng Trong của người Việt ở phía Bắc và vương quốc Chiêm Thành (Chăm Pa) của người Chăm
Đây là danh sách **các cuộc chiến tranh liên quan Việt Nam** bao gồm có sự tham gia của Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trong danh sách này, ngoài những
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Chiến tranh Minh-Việt** diễn ra từ năm 1407 đến khoảng những năm 1413-1414 là cuộc chiến tranh giữa dân tộc Đại Việt dưới sự lãnh đạo của các vị vua nhà Hậu Trần cùng tông
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Niên biểu lịch sử Việt Nam** là hệ thống các sự kiện lịch sử Việt Nam nổi bật theo thời gian từ các thời tiền sử, huyền sử, cổ đại, trung đại, cận đại cho
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
**Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư** hay còn gọi là **thời Minh thuộc** trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1407 khi đế quốc Minh đánh bại nhà Hồ-Đại Ngu và chấm
**Khởi nghĩa Lam Sơn** là một cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam do Lê Lợi lãnh đạo nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh, bắt đầu từ đầu năm 1418 và
**Nhà Quốc hội** hay **Tòa nhà Quốc hội Việt Nam**, còn có tên gọi khác là **Hội trường Ba Đình mới**, là trụ sở làm việc và nơi diễn ra các phiên họp toàn thể
**Nhà Hồ** (chữ Nôm: 茹胡, chữ Hán: 胡朝, Hán Việt: _Hồ triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi
**Chiêm Thành** () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: _Campanagara_) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Chế Ma Nô Đà Nan** (?-1407) là tướng nhà Trần và nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam, nguyên gốc người Chiêm Thành. Ông tham gia cuộc chiến tranh Việt-Chiêm 1400-1407. ## Thân thế Chế
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Thái Nguyên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Nguyên, nằm bên bờ sông Cầu, là một trong những thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam. Thành phố Thái Nguyên là trung
**Quan hệ Việt-Chăm** xem như bắt đầu từ năm 968, khi Đinh Tiên Hoàng lập ra nước Đại Cồ Việt, với tư cách là quốc gia độc lập đến năm 1832, khi vua Minh Mạng
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
Tiến trình _Nam tiến_ của dân tộc Việt.|thế= **Nam tiến** (Chữ Nho: 南進) là quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương nam trong lịch sử Việt Nam. _Nam tiến_ là một
**Indravarman VI** (Phạn văn: इन्द्रवर्मन्, chữ Hán: 巴的吏 / **Ba Đích Lại**, 占巴的賴 / **Chiêm Ba Đích Lại**, phiên âm Zhan-ba Di-lai, Champathirat;? - 1441) là quốc vương Champa, trị vì trong giai đoạn 1400
**Hồ Nguyên Trừng** (chữ Hán: 胡元澄 1374–1446) biểu tự **Mạnh Nguyên** (孟源), hiệu **Nam Ông** (南翁), sau đổi tên thành **Lê Trừng (黎澄)** là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
Mặt trống đồng Ngọc Lũ-biểu tượng của [[người Việt]] Kiến trúc mái chùa đặc trưng của [[người Việt]] [[Châu thổ sông Hồng nhìn từ vệ tinh]] **Văn minh sông Hồng** (từ đầu Thiên niên kỷ
**Bắc thuộc** chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc. ## Khái quát Trong thời gian này Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Hậu Trần** (chữ Nôm: 茹後陳, chữ Hán: 後陳朝, Hán Việt: _Hậu Trần triều_) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam từ 1407 đến 1414 mà các sách sử vẫn chưa thống nhất cách
**Hoàng Hối Khanh** (, 1362-1407) là quan nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam, người huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. ## Đại thần nhà Hồ Hoàng Hối Khanh đỗ Thái học sinh
**Thời đại Khám phá** hay **Thời đại Thám hiểm** là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ
**Hồ Hán Thương** (chữ Hán: 胡漢蒼, 1383 – 1407), Minh thực lục và Minh sử ghi **Hồ Đê** (胡), là hoàng đế thứ hai và cũng là cuối cùng của nhà Hồ, từ năm 1401
**Tu viện Ljubostinja** () là một tu viện nằm ở làng Prnjavor tả ngạn sông Zapadna Morava, cách Trstenik 4 km về phía bắc. Tu viện thuộc sở hữu giáo phận Kruševac của Giáo hội Chính