✨Tu viện Ljubostinja

Tu viện Ljubostinja

Tu viện Ljubostinja () là một tu viện nằm ở làng Prnjavor tả ngạn sông Zapadna Morava, cách Trstenik 4 km về phía bắc. Tu viện thuộc sở hữu giáo phận Kruševac của Giáo hội Chính thống giáo Serbia. Đây là tu viện nữ đầu tiên ở Serbia, được xây dựng khi bắt đầu nổ ra trận Kosovo cuối năm 1388. Tu viện gắn với giai thoại chuyện tình của Công nương Milica đã gặp Hoàng thân Lazar lần đầu tiên ở đây. Hai người yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên, do đó có giả thuyết cho rằng tên tu viện bắt nguồn từ ljuvestin nghĩa là "nơi chốn tình yêu". Năm 1392, công nương đi tu và dành phần đời còn lại tại Ljubostinja cùng với người bạn là nữ văn sĩ Serbia trung cổ Jelena Mrnjavčević hay về sau gọi là xơ Jefimija. Phần mộ cả hai đều được giữ tại tu viện cho đến ngày nay. Tu viện từng là nơi lưu giữ tạm thời thánh tích Nữ thánh Petka được coi là biểu tượng tinh thần cho Serbia độc lập tự chủ.

Cuối thế kỷ 14, Ljubostinja bắt đầu là nơi các góa phụ quý tộc còn lại của Serbia Morava khấn nguyện tu trì. Công nương Milica, khi ấy đã là xơ Evgenija, trên thực tế là người quản lý tu viện cho đến khi qua đời năm 1405. Trong suốt thế kỷ 18 và 19, Ljubostinja là một trong năm tu viện giàu có nhất ở Serbia, nổi tiếng với các tu viện trưởng có ảnh hưởng. Từ thế kỷ 20 tu viện được coi là một pháo đài của chủ nghĩa nữ tu (Chính thống giáo).

Tu viện được xây dựng theo phong cách trường phái Morava kết hợp ảnh hưởng nét kiến trúc Gothic Venezia và Hồi giáo theo cách độc đáo. Đặc trưng của phong cach này là những cửa sổ hoa hồng, điêu khắc đá trang trí dưới hình ảnh hoa huệ và nhiều loài hoa khác đua nở khắc họa vườn hoa thiên đàng, thêm vào kiến trúc biểu đạt tư tưởng thần học. Điều này gợi lên ý tưởng cho rằng kiến trúc sư tạo ra Ljubostinja nhằm tượng trưng nơi Đức Mẹ an giấc giữa lạc viên thượng giới hay vườn địa đàng. Giống như các cung điện cổ, bích họa tu viện sử dụng tông màu lạnh, chủ yếu là màu đỏ chu sa và xanh khổng tước. Bích họa nổi tiếng nhất trong số đó lấy từ sách Phúc Âm Chúa Giêsu chữa lành người bại.

Là di tích văn hóa đặc biệt quan trọng và di sản triều đại Nemanjić, quần thể lăng mộ công nương Milica với hơn 30 ngôi mộ tu sĩ và quý tộc được phát hiện, Ljubostinja được Cộng hòa Serbia bảo tồn ở mức cao nhất từ năm 1979. Tu viện trưởng là Mẹ bề trên Hristina Obradović từ năm 1995, trong giáo phận do Cha Danijel Stefanović quản lý. Cổng tu viện thường là nơi dân chúng tụ họp những dịp Lễ Hóa hình, Lễ Đức Mẹ về trời, hoặc Những ngày Jefimija tưởng niệm nữ thi sĩ người Serb đầu tiên là xơ Jefimija.

Lịch sử

Theo viện phụ Sevastijan Perić, Ljubostinja là một trong những tu viện lớn nhất của Serbia nhưng lại ít thông tin lịch sử nhất, chỉ có ghi chép từ năm 1780 trở đi. Hầu hết các thông tin về tu viện từ khi thành lập đều được tổng hợp trên các tài liệu địa chính, văn bản giáo hội và các ghi chép khác.

Từ nguyên

Theo truyền thuyết lâu đời nhất, trên địa điểm tu viện ngày nay từng có nhà thờ nhỏ Thánh Stefan. Cứ ngày 2 tháng 8 hàng năm lại có tổ chức lễ rước thánh tích mang tầm toàn quốc (vasar). Phụ thân Milica là Vratko Nemanjić thuộc dòng quý tộc (dân gian gọi là anh hùng huyền thoại Jug Bogdan trong trận Kosovo) có vườn nho trên những ngọn đồi xung quanh. Một ngọn đồi từ đó có tên là đồi Bogdanovo (Bogdanjsko) cũng như ngôi làng mang tên Bogdanje. Có lần Hoàng thân Lazar đến dự lễ và gặp gỡ nàng Milica trẻ tuổi. Tình yêu nảy nở giữa hai người rồi dẫn đến hôn nhân. Từ đó, mỗi năm Milica đều đến dự lễ tháng 8 mang theo nhiều quà tặng cho nhà thờ. Mong muốn lưu giữ mãi mãi ký ức về miền thôn dã lần đầu gặp gỡ chồng mình, bà quyết định xây một ngôi đền nguy nga thay thế nhà thờ nhỏ, vừa kính dâng lên Mẹ Thiên Chúa đồng thời kỷ niệm tình yêu hôn nhân mình. Từ đó đưa đến cái tên ljubvestan ↔ ljubvostin → ljubostinja nghĩa là _nơi chốn tình yêu, nơi tình yêu sinh ra, nơi tình yêu dâng trào, nơi tình yêu gặp gỡ_.

Còn cách giải thích khác ít phổ biến hơn bắt nguồn từ ljubo–pustinja nghĩa là tình yêu (của ẩn sĩ) với cuộc sống khổ tu. Đầu thời Trung cổ chứng kiến sự hưng thịnh của thành phố Županjevač gần Ljubostinja ngày nay. Županjevač có khu chợ riêng và là một trong những trung tâm giao thương của vùng Pomoravlje. Bên ngoài thành phố, trong các vịnh và dãy núi Gledić có rất nhiều ẩn sĩ riêng biệt tu tập. Cách giải thích thứ ba đến từ cách gọi một tảng đá giữa dãy Gledić và đỉnh Samar là ljupka stena (tảng đá đáng yêu, xinh đẹp).

Công nương Milica

Theo truyền thuyết lưu truyền lại, Công nương Milica đã xây dựng tu viện Ljubostinja trong thung lũng sông Ljubostinjska và Sušička, nơi lần đầu gặp gỡ Hoàng thân Lazar từ thời con gái để rồi về sau trở thành phu nhân Milica Nemanjić. Bao quanh ba mặt tu viện là những ngọn đồi thuộc dãy núi Gledić - Iver phía bắc, Tatarna phía tây và Kamađore (Kamidžor) phía đông. Năm 1388 bắt đầu dựng nền móng công trình. Sau những tổn thất tại trận Marička (1371) và Kosovo (1389), công nương có ý tưởng chăm sóc các góa phụ quý tộc Serb, và sáng lập tu viện nữ đầu tiên ở Serbia.

Đầu tiên là Uglješa Mrnjavčević tử trận Marička có vợ góa Jelena Mrnjavčević trở thành nữ tu sĩ Jefimija. Không có thông tin về những người kế nhiệm Milica từ đó cho đến khi Ljubostinja trở thành tu viện nam.

Ngày 11 tháng 11 năm 1405, Milica tạ thế và được an táng trong quách bên trái. Vài tháng sau, tức năm 1406, Jefimija qua đời và được táng trong cùng lăng mộ Milica nhưng ở bên phải. Tu viện ngày nay vẫn lưu giữ di hài của họ cũng như của con trai Jefimija là Stefan Mrnjavčević. Các bức tranh gốc trong tu viện cũng ra đời khoảng thời gian đó, khả năng 1405-1409, muộn nhất là đến khi hai con trai Milica là Stefan và Vuk xung đột nhau. Nhà thờ do họa sĩ Hy Lạp Makarije Zograf từ Zrze vẽ trang trí. Sau khi cả hai sơ qua đời, vua Stefan chuyển thánh tích Thánh Petka từ Ljubostinja đến Kalemegdan, có thể vào ngày 8 tháng 8 theo lịch mới ngay năm 1406 hoặc năm 1407 sau đó.

Thời kỳ hoang phế

Trong một thời gian dài đã tồn tại một quan điểm không chính xác rằng Ljubostinja bị hoang phế suốt cả thế kỷ 17. Sevastijan Putnik ghi lại những ký ức lâu đời nhất của cư dân vùng Trstenik nói rằng tại Ljubostinja khi ấy, ban ngày chỉ nghe tiếng cu gáy, còn ban đêm là tiếng cú đậu nơi tháp chuông và mái vòm đổ nát. Các ghi chép năm 1643 và 1673 cho thấy Ljubostinja hoạt động liên tục từ khi thành lập cho đến khi Người Serb di cư (1690). Cuối thế kỷ 17 có thể tu viện bị bỏ hoang nhưng đã hồi sinh trở lại đầu thế kỷ 18. Để trả thù, quân Thổ Nhĩ Kỳ cướp phá và đốt tu viện vào tháng 5 năm 1788. Hầu hết các bích họa ban đầu đã bị phá hủy. Đám cháy cũng làm lộ ra kho báu của công nương Milica, trong đó cất giấu vương miện Hoàng thân Lazar trong 400 năm. Ông tiếp bước người tiền nhiệm mở rộng lãnh địa ra những mảnh đất và cánh đồng màu mỡ chung quanh. Ông mua thêm ba cối xay và dựng mới một cối xay nữa, dựng tường rào quanh cổng và lợp lại nhà thờ. Hè năm 1839, thánh tích Stefan Đệ nhất được chuyển từ Kalenić đến Studenica, đến ngày 20 tháng 8 đoàn đã dừng chân tại nhà thờ Ljubostinja.

Khi chính thể Ustavobranitelji (Những người bảo vệ Hiến pháp) lên nắm quyền đã thực hiện trả đũa nhiều giáo sĩ từng ủng hộ Obrenović. Meletije là một trong những người đầu tiên bị trừng phạt, bị giải đến tu viện Rača sám hối, đến năm 1843 mới được trở về Ljubostinja, nhưng tất nhiên không còn được giữ chức vụ. Tu viện được giao cho Makarija (Petrović) quản lý.

Meletje trốn sang Áo rồi đợi cho Giáo hội ra phép giải tội mới trở về Ljubostinja năm 1845. Ông nhận lại chức tu viện trưởng từ Makarija cho đến năm 1847 thì ngưng để tấn phong thành giám mục Šabac. Janićije Macužić (tục danh Joanikije Obradović) lãnh đạo Ljubostinja trong thời kỳ thịnh vượng đỉnh cao. Năm 1850-1851, Janićije cho dựng năm gác chuông, công trình phụ, bếp, chuồng ngựa, kho và cối xay nước. Tu viện sở hữu đến tám cối xay nước và vườn cây ăn trái vươn ra tận bờ Tây Morava. Hoàng thân Aleksandar Karađorđević cũng giúp cho phần tường và phần đánh chuông. Nhà thờ được tái thiết hai lần năm 1848 và 1851, chủ yếu là sửa chữa lại phần phía trên, đặc biệt là vòm giả phía trên điện thờ. Tháng 8 năm 1891 xảy ra vụ giết người, tu sĩ Vicentije Stamatović được phát hiện đã chết. Vì nguyên nhân cái chết không được làm rõ, người ta cho rằng do mâu thuẫn giữa các tu sĩ với nhau.

Năm 1895, tài sản tu viện lên tới 1078 ha đất, trong đó có 990 ha rừng. Ngoài cánh đồng canh tác và đồng cỏ, còn có ba vườn nho và bảy vườn cây ăn trái. Vốn ròng lên đến hơn 18.000 dinar và toàn bộ giá trị bất động sản Ljubostinja ước tính khoảng 42.000 dinar. Theo điều tra dân số những năm ấy, Ljubostinja chiếm vị trí thứ tư đổ lên trong danh sách những tu viện giàu nhất Serbia.

Thời kỳ hỗn loạn

Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một loạt sự cố xảy ra ảnh hưởng đến danh tiếng và vị thế của tu viện. Vụ thứ nhất vào năm 1898, tu viện trưởng Veniamin bị buộc tội tham ô và lạm dụng chức vụ. Cùng năm, ông bị hạ bệ nhưng vẫn được phép ở lại cho đến khi qua đời và được chôn cất năm 1909. Lên thay là Viktor Stojaković vốn cũng tai tiếng. Giai đoạn ông quản lý đánh dấu tình hình tài chính tu viện bắt đầu suy giảm. Năm 1903, Viktor bị cáo buộc các tội danh giống như người tiền nhiệm.

Hai năm sau, Viktor mất chức, bị đuổi đi, rồi bị kết án tù, về sau ốm chết trước khi mãn hạn. Năm 1905-1911, Viktor Gizdavič đến làm tu viện trưởng, không những không được lòng mà còn xung đột với giáo dân. Cuối cùng chính ông phải xin thuyên chuyển đi.

Năm 1903, giữa những vụ lùm xùm này, theo lệnh vua Petar I Karađorđević, nhà nghiên cứu cổ vật nổi tiếng người Serb Mihajlo Valtrović đến tu viện để mở quan tài Milica. Mục đích là thu thập, tham khảo đồ trang sức, vương miện, phù hiệu hoàng gia Serbia trung cổ để chuẩn bị những đồ mới cho lễ đăng đăng quang sắp tới của nhà vua. Khi mở ra, Valtrović ngạc nhiên khi thấy Milica chỉ mặc chiếc áo choàng đen giản dị của một nhà tu hành. Hơn nữa, cơ thể của bà không bị phân hủy, khuôn mặt giống y hệt trên các bức bích họa. Giáo hội liền tận dụng cơ hội để phong thánh cho Milica và khôi phục danh tiếng đã bị tổn hại của tu viện. Kể từ đó, lễ thánh Đức Bà Evgenija được tổ chức ngày 1 tháng 8 hàng năm.

Năm 1911-1920, tu viện trưởng là Konstantin Popović. Ngày 24 tháng 10 năm 1915, khi Serbia nằm dưới sự chiếm đóng của quân Áo-Hung, quân Áo bố ráp tu viện, buộc tội Popović, tu sĩ Ruvim và Sevastijan che giấu tài liệu lưu trữ của Chính phủ Serbia. Sevastijan Putnik là người trẻ nhất, đang theo học trường Tu viện Novo Hopovo, bị giải về trại Asach của Áo, hết chiến tranh mới trở về được. Ngay sau đó, Cha Sevastijan thế chỗ Popović làm tu viện trưởng. Sevastijan Putnik tên khai sinh là Stevan Perić tại làng Samoš thuộc Banat. Ông là người viết biên niên sử Tu viện Ljubostinja. Nó trở thành nguồn tài liệu quan trọng về lịch sử và xây dựng tu viện ngày nay. Sách xuất bản năm 1927. Tất cả tiền bán sách được quyên góp cho trẻ mồ côi Ljubostina. Trải qua những giai đoạn bị hủy phá, mẹ Đuketić tìm thấy kho tàng tài liệu quý giá nhất của tu viện là thư viện tại Tư gia Miloš, khi ấy có hơn một nghìn đầu sách. Trong số sách quý phải kể đến ấn bản nghiên cứu tôn giáo đặc biệt De Imitatione Christi (1417) (Noi gương Đấng Christ) của nhà thần học Hà Lan Thomas van Kempen. Sách được in năm 1637 theo lệnh của Nữ bá tước Wallachia Elena Basarab.

Nữ tu chịu khổ

Sara trở thành viện trưởng của Ljubostinja trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai đầy khó khăn. Bà được linh mục Nikon Lazarević giúp đỡ nhiều. Nikon là linh mục chính thức tại Ljubostina 1946-1961, nhưng đã giúp tu viện từ trước đó, khi ông còn là viện trưởng Kalenić. Di sản đóng góp lớn nhất của Nikon là xây Novog konak (Nơi ở mới) được coi là đẹp nhất Nam Tư khi ấy. Kiến trúc sư thiết kế Novog konak là Petar Bajalović, người nổi tiếng với các công trình như Tòa nhà di sản Kolarc và Tòa nhà Luật khoa Đại học Beograd.

Vào đầu chiến tranh, nhà trẻ cho bé trai được mở ở Trstenik, còn ở Ljubostinja là nhà trẻ nữ cho 12 bé gái không còn gia đình. Khi ấy, tu sĩ Jakov (Arsović) hay còn gọi là Jakov Tumanski đến tu viện và ở lại trong vài năm. Trong những năm đầu tiên quản lý Ljubostinja, Mẹ Sara được giám mục Nikolaj Velimirović quan tâm hỗ trợ, ông bị quản thúc tại gia 18 tháng tại Ljubostinja (từ Ngày Thánh Phêrô 1941 đến ngày 5 tháng 12 năm 1942).

Sau khi Nikolaj rời đi cũng như tu viện Žiča bị đốt, người tị nạn và hàng chục tu sĩ Žiča đã đến Ljubostinja. Trong số đó có tu sĩ Sava Maksimović bị quân Đức giết ngay sau ấy. Một tu sĩ Žica khác bị bắt và bị giết ở Kruševac. Tu viện trưởng Sara bị buộc tội liên quan đến cả hai vụ bắt giữ và xử tử này. Ngoài ra, quân Chetnik còn cáo buộc bà tham gia vào vụ sát hại Jovan Gordić là con trai của chỉ huy Chetnik Nikola Gordić. Ngược lại, quân phát xít buộc tội bà che giấu đài phát thanh Chetnik (được cho là người Anh cung cấp cho Nikolaj Velimirović). Mặc dù tuyên bố không đứng về bên nào mà luôn mở rộng cửa tu viện cho tất cả mọi người theo tinh thần yêu thương của Thiên Chúa, nhưng các nữ tu vẫn bị cả Chetnik, Partizan lẫn quân Đức ngược đãi.

Cùng lúc ấy lại diễn ra xung đột giữa viện trưởng Sara và Cha Sava Petrović. Petrović giữ chức thẩm phán tòa án giáo phận Žiča đã ra lệnh trừng phạt các nữ tu thô bạo quá mức, từ đó kéo theo chia rẽ trong nội bộ nữ tu. Theo lời nữ tu viện trưởng sau này, có thể một trong những lực lượng tham chiến khi ấy, khả năng lớn là Chetnik, đã yêu cầu trợ giúp. Còn giai thoại khác thì nói một nữ tu vướng chuyện tình cảm, làm những người khác tức giận, họ báo cáo với Ljotićevci và Gestapo, từ đó gây ra thảm cảnh chung cho cộng đồng.

Đầu năm 1943, một tờ giấy được ném qua cửa sổ với lời nhắn viện trưởng cùng các nữ tu hãy chạy trốn, nếu không sẽ bị giết. Đồng thời, họ cũng nhận được các tin nhắn trái ngược viết đừng đi đâu, đừng âm mưu bỏ trốn, nếu không sẽ bị giết. Đến cuối tháng 1 đã ghi nhận hai lần viện trưởng Sara suýt chết. Một lần là quân Chetnik đột nhập vào nhà thờ, nhưng các nữ tu đã kịp giấu viện trưởng dưới bàn thánh (presto). Antonija được gọi là thánh tử đạo Ljubostinja và được chôn cất nơi cổng tu viện, còn Evgenia ban đầu được chôn ở Kruševac. Sau đó vài ngày, xác Milka nổi lên nhưng dân làng sợ Chetnik trả thù nên không ai dám vớt chôn.

Trung tâm dòng tu nữ

Năm 1943, đồng tu cùng Sara là Mẹ Varvara Milenović đứng ra quản lý, rồi trở thành viện trưởng năm 1949. Bà là viện trưởng lâu nhất Ljubostinja, cho đến tận khi qua đời năm 1995. Trong hơn nửa thế kỷ chức vụ, Mẹ Varvara là nữ tu nổi tiếng nhất trong nước, cố gắng khôi phục lại tu viện về mọi mặt. Được biết đến như một nhà tổ chức giỏi và kỷ luật kiên định, bà thành lập các xưởng dệt thảm trong tu viện, thậm chí còn xuất khẩu ra nước ngoài. Trên tất cả, bà mong muốn thành lập một trung tâm nữ tu lớn nhất Nam Tư, quy tụ hơn 50 chị em ở Ljubostinja.

Năm 1995, Mẹ Hristina Obradović lên kế nhiệm viện trưởng, bà vốn phụ tá quản gia cho viện trưởng Varvara. Ngay từ khi còn trẻ, Hristina đã là một trong những cái tên nổi tiếng của Giáo hội Chính thống giáo Serbia vì là nữ tu đầu tiên lái ô tô (Lada). Thậm chí có lần bà còn bị dừng xe vì chạy quá tốc độ. Báo Nam Tư đưa tin việc này và gọi bà là nữ tu bay. Dưới sự lãnh đạo của Mẹ Hristina, Ljubostinja xuất hiện nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông. Năm 2002, một album gồm những bài thánh ca Byzantine được phát hành với sự tham gia của các sơ Ljubostinja trong 5 bài hát. Thực ra những bản thu âm có từ năm 1963. Năm 2016, Thái tử Aleksandar và Công chúa Katarina Karađorđević đến viếng thăm mộ Công nương Milica. Năm 2019, nhà văn đoạt giải Nobel Peter Handke cũng đến viếng mộ Công nương.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tu viện vốn giàu có nên bị thiệt hại lớn. Khi cải cách nông nghiệp (1945) và quốc hữu hóa (1958), Ljubostinja bị tước đoạt hơn 1400 ha rừng và đất canh tác. Theo luật bồi hoàn, tài sản được trả lại cho tu viện hai lần vào năm 2009 và 2016. Tổng diện tích trang viên Ljubostinja ngày nay là 1321,44 ha, trong đó 1298,90 ha (chiếm 98,3% diện tích) là rừng.

Linh mục quản xứ hiện tại là cựu sinh viên Chủng viện Thần học Prizren thời Chiến tranh Kosovo, Cha Danijel Stefanović đã quảng bá Ljubostinja trên đài truyền hình Hram và Agro TV. Tu viện nằm trên tuyến đường và khu du lịch rượu vang của giáo xứ Aleksandrovačka, cũng nổi tiếng với sản phẩm rượu vang của chính tu viện. Ngoài ra, các nữ tu giữ truyền thống nuôi ong và sản xuất mật ong.

Nhà thờ tu viện xây trên nền ba lớp với một narthex chữ nhật gắn vào gian giữa, một mái vòm đặt trên bốn cột đỡ.

Diện mạo tu viện ngày nay cho thấy ảnh hưởng của điêu khắc và trang trí lên kiến trúc, hài hòa đến bất ngờ tạo nên tổng thể hoa lệ. Song song với trang trí Moorish, mặt tiền gồm họa tiết hoa và khối hình học mang đến khả năng biểu đạt cao nhất cho Ljubostinja.

Hoa lá thiên đường

Quan tài Jefimija được khảm hình hoa huệ. Trong khi thánh giá là hình ảnh gần như bắt buộc trên quan tài lại không có mặt ở đây. Giáo sĩ cao cấp quản xứ Ljubostina là Danijel cho biết hoa huệ theo nghệ thuật Baroque biểu hiện cho tin tức tốt lành, dấu hiệu hạnh phúc hay sự trong trắng, còn ở đây được địa phương hóa và gần gũi hơn, liên quan trực tiếp việc sùng bái Hoàng thân Lazar tử đạo, như các tác phẩm AkathistLời ca tụng hoàng thân Lazar, hoàng thân được gọi là bông huệ thơmbông huệ trổ lên từ gai góc tỏa sáng ra mọi người. Hoa huệ Ljubostinja còn biểu trưng cho sự phục sinh, vương quốc thiên đàng và sự sống đời đời.

Vòng hoa huệ đơn và kép trùm lên cửa sổ, các hốc góc và chạy qua các cột. Nhà sử học Ljiljana Vinulović đã đưa ra nghiên cứu sâu rộng về tầm quan trọng và tính biểu tượng của hoa huệ trong nhà thờ Ljubostinja. Bà cho rằng hoa huệ điêu khắc bằng đá không phải là vật trang trí tâm linh đơn thuần, mà nhắc con người về vườn địa đàng tràn ngập hoa huệ. Biểu tượng hoa huệ cũng gắn liền với Vua Solomon trong Cựu ước, gắn trên đỉnh cột lối vào đền thờ Jerusalem, đồng thời cũng được nhắc đến trong Tân ước với hình ảnh Tổng lãnh thiên thần Gabriel trao bông huệ cho Đức Trinh nữ Maria và báo tin bà sẽ hạ sinh Chúa Giêsu. Trong cả hai trường hợp, hoa huệ là biểu tượng khôn ngoan giống như vua Solomon nổi tiếng khôn ngoan hay Chúa Giêsu nhận khôn ngoan từ Thượng Đế.

Theo nghĩa hẹp hơn, hoa huệ và các loài hoa khác nở rộ đan xen minh họa cho thảm thực vật thiên đường, đó là lý do tại sao người ta ví Ljubostinja là hiện thân thiên đường trên đất. Đây là tu viện duy nhất ở Serbia không có hình ảnh trang trí người hay động vật bằng đá.

Họa phẩm

Sắc màu lạnh La Mã

Một số ý kiến cho rằng những bức tranh nguyên bản cũ nhất được thực hiện ngay trước Trận Kosovo và chỉ vài mảng còn giữ lại được trên một số bề mặt. Khoảng năm 1403, Công nương Milica mời họa sĩ Hy Lạp Makarios Zografos đến vẽ lại nhà thờ. gợi nhớ đến tường các cung điện La Mã cổ đại. Đặc trưng xanh dương Byzantine không được thể hiện ở Ljubostinja, ít nhất là mức độ không như các tu viện Serbia khác. Makarios không xác định được đầy đủ không gian cho cảnh lớn sẽ vẽ. Theo Đurić, họa sĩ không giỏi vẽ tranh lớn, nhưng lại có kỹ năng vẽ chân dung đặc biệt sống động. Do vậy, Đurić tin rằng Makarios chủ yếu chuyên về trang trí linh ảnh, rồi sau mới làm họa sĩ. Ông vẽ các thánh không nhất thiết phải đẹp, cũng không nhấn mạnh tình cảm con người như trường hợp với Kalenić và Manasija. Tranh các thánh thường thể hiện sự nghiêm khắc và kìm nén, lông mày nhướng lên, đôi mắt khổ hạnh. Makarije chỉ cố gắng đưa vào những đặc điểm riêng trong chân dung mỗi vị.

Nơi tiền sảnh có tranh chân dung Công nương Milica, Hoàng thân Lazar cũng như hai người con là Vuk và Stefan. Tranh Vuk Lazarević được vẽ mặc áo xanh lam, tay cầm thánh giá, nhưng duy nhất không mang biểu tượng quyền lực và không được ký tên. Stefan mặc trang phục đỏ, tay cầm vương trượng hình thập tự. Dòng chữ bên cạnh ghi Trong Chúa Kitô, despot Stefan sùng đạo và tối cao, chúa tể tất cả các vùng Serbia và Danube cho thấy bức bích họa ra đời sau khi Stefan lên ngôi, tức là sau năm 1402. Hai thiên thần đội vương miện lên đầu và trao kiếm cho Stefan. Công nương Milica mặc áo đỏ có hình thoi nối liền đỏ sậm, họa tiết hoa huệ với ngọc trai và châu báu. Bà khoác áo choàng xanh lục với lớp lót xanh lam, trang trí bằng dải vàng. Trên đầu là tấm voan trắng, đính hình thêu sẫm, hoa tai ngọc trai và trang sức, và chiếc vương miện mở rộng về phía trên. Trong cuốn Žene ktitori i vizuelna kultura Balkana (Nữ sáng lập và văn hóa thị giác Balkan), nhà sử học Ljubica Vinulović viết rằng Công nương Milica, giống như các quý bà trước đó là Jelena Anžujska và Jelena Nemanjić, đã tạo dựng được bản sắc trị vì của mình thông qua tranh bích họa. Điều này có thể lộ rõ nhất qua tranh minh họa Vaseljenskim saborima (Hội đồng Đại kết), mà các quý bà gửi gắm thông điệp rằng họ cũng có quyền lực chính trị giống như phu quân mình, thậm chí đủ để để triệu tập hội đồng. Tranh Milica còn tỏa ra quyền năng thần thánh của Chúa Giêsu, muốn cho thấy thẩm quyền thánh thiện của các triều đại Nemanjić và Lazarević. Các bức vẽ nơi gian giữa biểu trưng cho tâm linh và sự sống chết, còn narthex lại diễn đạt cho thẩm quyền và chức năng cai trị thần quyền của tu viện.

Bích họa lấy hình mẫu các tiên tri trong Kinh thánh Cựu Ước như Micah, Gideon, David, Ezekiel, Zakaria, Ṣofanya, Jeremia và Osius. Tất cả đều được khắc họa với vẻ kinh ngạc và phấn khích trước Thượng Đế toàn năng hiện hình (có thể thông qua Chúa Giêsu). Ở cánh tây nam, thánh sử Marko được mô tả cùng Trí Tuệ nhân cách hóa dưới hình dạng một bé gái. Ở cánh đông bắc, Trí Tuệ lại thể hiện bằng hình ảnh cung điện cổ tráng lệ. Cánh đông nam từng có các bích họa về Gioan Tông đồ cùng môn đồ Prohor.

Về cơ bản, bố cục cảnh trong tranh tuân theo truyền thống trường phái Morava: trên vòm gian giữa mô tả Lễ hoan hỉ, phía trên là Sự khổ nạn, ở giữa là Dấu lạBài giảng. Lễ hoan hỉ đưa ra các gợi ý về Lễ LáLễ đón Đức Mẹ Maria, trong đó có Lễ Truyền tin được bảo tồn gần như hoàn toàn. Các cảnh còn sót lại là Chúa chịu khổ nạn, quân lính chế giễu, Phêrô chối Chúa, đỡ Chúa xuống thập tự và trong Mộ phần. Các bức Dấu lạ là những tác phẩm được bảo tồn tốt nhất: phía nam, phía trên ca đoàn là Đuổi quỷ, Chúa Giêsu và người đàn bà Samari, phía bắc là Kẻ mù bẩm sinhSự xức dầu ở Bethany. Các bích họa khác vẽ những nhân vật nổi tiếng trong Kitô giáo và Chính thống giáo: Tổng lãnh thiên thần Micae, Tổng lãnh thiên thần Gabriel, trên cột tây nam trong gian giữa là Thánh SavaStephen Nemanja, Thánh Theodorus Studita, Gioan thành Damascus, Thánh Juda, Thánh Theodosius, Thánh Ephrem xứ SyriaThánh Sava thành Jerusalem.

Giám mục Nikolaj thể hiện sự ngưỡng mộ với Ljubostinja theo cách cả kiến trúc, hội họa và không gian thiên nhiên chung quanh được hòa trộn vào phục vụ thần học và phụng vụ. Ông sáng tác bài thơ Zidanje Ljubostinja, trong đó gọi tu viện là nơi an nghỉ linh hồn, nói rằng Ljubostinja được hát cho Chúa, bài ca đẹp nhất trên xứ sở Serbia. Tương đối gần tu viện là các địa điểm khảo cổ thị trấn Županjevač gồm phức hợp cung điện lớn thời Trung cổ, cũng như di chỉ Gradište ở Donji Dubič rất có thể từ thời Hoàng đế Justinianus. Vùng phụ cận tu viện còn có hai di chỉ khác cùng tên Gradac ở Brezovica và Riđevštica. Cách không xa, giữa các làng Počekovina và Donji Ribnik có di chỉ cổ xưa Grabak.

Trên đồi Kamađore phía đông bắc, hiện còn sót lại nhà thờ nhỏ mà dân gian gọi là Trebnica. Tương truyền công nương Milica xây nhà thờ này để một linh mục ở đó, khi cần sẽ đến Ljubostinja làm phụng vụ và giải tội cho các nữ tu. Cũng phía trên Ljubostinja, trên đồi Veternik có nhà thờ khác gọi là Crkvina. Trên đồi Bogdan có nhà nguyện Jug-Bogdan, tương truyền thị trưởng Toplica thường ghé qua khi đi thăm vườn nho. Perić lưu ý trong Chiến tranh thế giới thứ nhất có cây cầu từ Trstenik băng qua Zapadna Morava đến Ljubostinja còn dấu vết trong lòng sông, dân làng đã phá đi lấy gỗ xây nhà. Khi khai thác đá, một bộ xương người hoàn chỉnh đã được phát hiện với hàm bị đính vào móng tường bằng mấu sắt. Tương truyền người này nói xấu lãnh chúa nên mới bị trừng phạt như vậy.

Trong cổng của tu viện có một cái giếng thời trung cổ không rõ nguồn gốc. Dân quanh vùng vẫn gọi là Giếng của hoàng hậu Milica. Các phát kiến khảo cổ xác định cuộc sống con người đã diễn ra liên tục từ thời cổ đại không chỉ vùng xung quanh mà còn trong chính khu điền trang Ljubostinja. Di vật khảo cổ tìm thấy là các đồng denarii từ thời Cộng hòa La Mã năm 82 TCN.

Những ngày Jefimija

Từ năm 1971, tại Trstenik và cổng tu viện Ljubostinja diễn ra sự kiện Những ngày Jefimija kéo dài ba ngày dành riêng cho thi ca Serbia, chủ yếu là các cây bút nữ. Tại lần đầu tiên ngày 19-22 tháng 6 năm 1971, ba trong số những thi gia lớn nhất Nam Tư Desanka Maksimović, Mira Alečković và Vesna Parun đọc thơ trước cổng tu viện. Năm sau, đổi tên thành Ngày thi nhân và thợ thêu, nhưng đến năm 1973 thì bị hủy bỏ vì lý do chính trị. Năm 1991, ngày này được hồi sinh để tôn vinh sự sáng tạo của phụ nữ trong hội họa, thêu may, thơ ca và những lĩnh vực khác. Lễ hội không thể thiếu đêm thơ nhạc Jefimija i čast, trong đó theo thông lệ, một nữ diễn viên sẽ đọc bài Ca tụng Hoàng thân Lazar. Nằm trong khuôn khổ sự kiện còn có giải thưởng Jefimija vez trao cho thành tựu thơ hay nhất.

Một giải thưởng khác có liên quan đến Ljubostinja dù không phải ngay tại tu viện, Huân chương Ljubostinjska rozeta (Hoa hồng Ljubostinja) là sự công nhận cao nhất của thị trấn Trstenik.

Hình ảnh

Tập tin:Knez Lazar i kneginja Milica.jpg|Bích họa Hoàng thân Lazar và Công nương Milica Tập tin:Vuk i Stefan Lazarevic.jpg|Bích họa Vuk và Stefan Lazarević Tập tin:Glumica_Vjera_Mujović_kao_monahinja_Jefimija.jpg|Đọc thơ Jefimija Tập tin:Manastir_Ljubostinja_22.jpg|Cửa sổ mullion (bifora) Tập tin:Манастир Љубостиња 2021. године (источна страна).jpeg|Phía đông nhà thờ Tập tin:Манастир_Љубостиња,_октобар_2021.jpeg|Phía tây nhà thờ Tập tin:Камена орнаментика Љубостиње.jpeg|Chi tiết trang trí trên tường Tập tin:Yugoslavia3+2din1945.jpg|Hình vẽ tu viện trên tem bưu chính Nam Tư năm 1945
|
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tu viện Ljubostinja** () là một tu viện nằm ở làng Prnjavor tả ngạn sông Zapadna Morava, cách Trstenik 4 km về phía bắc. Tu viện thuộc sở hữu giáo phận Kruševac của Giáo hội Chính