Indrapura (chữ Phạn: इन्द्रपुरम् / Lôi-điện thành, chữ Hán: 同陽國 / Đồng-dương quốc) là một thành quốc tồn tại trong giai đoạn 657 - 1471, đồng thời giữ vai trò kinh đô Champa suốt thời kỳ 875 - 982. Vị trí Indrapura ứng với địa phận làng Đồng Dương (huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) hiện nay.
Lịch sử
Vua Vikrantavarma định đô tại Virapura (thuộc Ninh Phước, Ninh Thuận). Ông không có con trai kế ngôi, nên sau khi ông qua đời triều đình đã chọn một người thuộc bộ tộc Dừa ở miền Bắc lên kế vị. Vị vua mới lên ngôi có tên hiệu là Indravarman II đã cho dời kinh đô ra miền bắc, tại vị trí mà dòng họ của ông ở từ trước và đặt tên thủ đô là Indrapura. Đây cũng là thời kỳ Chăm Pa bắt đầu có tên gọi là Chiêm Thành.
Đặc điểm
Đây cũng là thời kỳ Phật giáo đại thừa ảnh hưởng mạnh vào vương triều này cũng như tinh thần của xã hội Chăm Pa. Phật giáo gần như trở thành tôn giáo chính của cả vương triều. Chính do lòng tin và thành kính đối với đức Phật mà ngay từ vị vua đầu tiên đã cho xây dựng cả một tu viện Phật giáo rộng lớn ngay kinh thành, được đánh giá là tu viện [Phật giáo]] lớn nhất Đông Nam Á thời đó.
Trong thời kỳ này, Chăm Pa có giao lưu nhiều với Chân Lạp và các nhà nước ở Java, chính vì thế các ảnh hưởng từ ngoài đã tác động một phần lên nghệ thuật kiến trúc của người Chăm
Kết thúc
Sự phục hồi mạnh mẽ của hai quốc gia láng giềng là Đại Cồ Việt ở phía bắc và Đế quốc Khmer ở phía tây nam đã đe dọa tới Chăm Pa. Các cuộc chiến giữa Chăm Pa và vương triều Angkor (Chân Lạp) vào năm 945 và vương triều Tiền Lê (Đại Cồ Việt) vào năm 979 dẫn tới sự suy yếu của vương quốc Chăm Pa. Tiếp đó, cuộc tấn công vào năm 982 của Đại Cồ Việt do Lê Hoàn chỉ huy đã tàn phá kinh thành Indrapura; vua Paramesvaravarman (Hán Việt gọi là Phê Mi Thuế) bị giết. Sự kiện này đã đánh dấu sự kết thúc vai trò kinh đô Indrapura của Chăm Pa, sau sự kiện này Chăm Pa chuyển đô về phía nam ở Bình Định với tên gọi mới là Vijaya.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Indrapura** (chữ Phạn: इन्द्रपुरम् / **Lôi-điện thành**, chữ Hán: 同陽國 / **Đồng-dương quốc**) là một thành quốc tồn tại trong giai đoạn 657 - 1471, đồng thời giữ vai trò kinh đô Champa suốt thời
Theo chữ khắc trên tấm bia của Sdok Kok Thom, **Indrapura** (, ) hoặc **Amarendrapura** (, ) là kinh đô đầu tiên của triều đại vua Jayavarman II vào khoảng năm 781, trước khi thành
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Champa** (tiếng Phạn: चम्पा, Tiếng Trung: 占婆 _Chiêm Bà_, tiếng Chăm: ꨌꩌꨚ) hay **Chiêm Thành** (占城) là một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập liên tục qua các thời kỳ từ năm 192
**Chăm Pa** độc lập được từ năm 192, phát triển cho đến thế kỷ thứ 10 thì bắt đầu suy yếu, đến năm 1832 thì hoàn toàn mất nước. ## Thất thủ và bỏ kinh
**Bidasari** là một nhân vật huyền thoại Đông Nam Á, lưu truyền khoảng từ trung đại trung kì tới nay. ## Lịch sử Cứ liệu sớm nhất hoặc tạm được coi như nguồn gốc nhân
**Phê Mị Thuế** hay **Bề Mi Thuế** (tiếng Phạn: परमेश्वरवर्मन् १, _Paramesvaravarman I_, tiếng Trung: 波羅密首羅跋摩一世, trị vì: 965 - 982) là một vị vua Champa của triều đại thứ sáu. ## Trị vì trái|nhỏ|Lãnh
phải|Hoa văn trên tháp Đồng Dương phải|Đài thờ Phật, phát hiện tại Đồng Dương **Tháp Đồng Dương** là một di tích quan trọng vào bậc nhất của Chăm Pa, gồm có hệ thống các tháp
**Thành Đồ Bàn** hay **Vijaya** (tiếng Phạn विजया, nghĩa Việt: Thắng lợi), còn gọi là **thành cổ Chà Bàn (Trà Bàn)** là kinh đô của người Degar thuộc Chăm Pa, nay thuộc địa phận xã
**Lưu Kế Tông** (chữ Hán: 劉繼宗; ? –989), hay **Lưu Kỳ Tông**, là vua của Chiêm Thành từ năm 986 đến năm 989. ## Hành trạng Sử liệu Việt Nam cũng như Trung Quốc biên
:_Xem các nghĩa khác tại Tượng Lâm (định hướng)_ Về vùng đất **Tượng Lâm** (), các sử liệu Trung Hoa xưa xác nhận đó là phần đất ở vùng cực nam quận Nhật Nam, trực
**Thành cổ Châu Sa** hay **Amaravati** là thủ đô của Vương quốc Amaravati, được người Chăm Pa xây dựng bằng đất vào thế kỷ thứ 9 tại xã Tịnh Châu, TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi,
**Amaravati** (Phạn ngữ: अमरावती / _Amarāvati_) là một tiểu quốc Champa tồn tại trong giai đoạn 657 - 1471, địa bàn tương ứng với vùng Quảng Nam - Đà Nẵng hiện nay. Từ _Amarāvati_ có
Người Chăm theo tôn giáo chính là **Agama Cham** (tức là Chăm giáo). Tôn giáo Agama Cham (Chăm giáo) có hai môn phái gồm _Môn phái tín ngưỡng tôn giáo_ và _môn phái tín ngưỡng
**Chiêm Thành** () là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: _Campanagara_) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu
**Lâm Ấp** (Chữ Hán: 林邑; Bính âm: _Lin Yi_) là một vương quốc cổ tồn tại từ khoảng năm 192 đến năm 605, với lãnh thổ ban đầu bao gồm vùng đất từ Quảng Bình
Tiến trình _Nam tiến_ của dân tộc Việt.|thế= **Nam tiến** (Chữ Nho: 南進) là quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương nam trong lịch sử Việt Nam. _Nam tiến_ là một
**Campuchia** là một đất nước ở bán đảo Đông Dương, có lịch sử lâu đời và ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ. ## Các vương quốc đầu tiên Người ta biết về nước Phù
**Người Êđê** (tiếng Êđê: **Anak Rađê** hay được dùng phổ biến theo cộng đồng là **Anak Đê** hay **Đê-Ga**) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là miền trung Việt Nam và
**Riau** là một tỉnh của Indonesia trên đảo Sumatra cạnh eo biển Malacca. Thủ phủ và thành phố lớn nhất của tỉnh này là Pekanbaru. Các thành phố lớn khác trong tỉnh là Dumai, Bangkinang
**Srivijaya** hay **Tam Phật Tề** (三佛齊) là một liên minh kiểu mandala gồm nhiều nhà nước cổ từng tồn tại ở miền Đông Sumatra, bán đảo Malay và một phần đảo Borneo và Java, hình
**Mỵ Ê** (chữ Hán: 媚醯), không rõ họ gì, là một Vương phi của Chiêm Thành vào thế kỷ 11. Bà là vợ hoặc thiếp của Quốc vương Chiêm Thành là Sạ Đẩu. ## Câu
phải|Phù điêu vũ nữ Aspara, phát hiện tại Trà Kiệu **Simhapura** (hoặc **Sinhapura**, nghĩa là _Kinh đô Sư tử_) là kinh đô của Chăm Pa thời kỳ Lâm Ấp tại vị trí mà ngày nay
**Đại thọ lâm** hay còn gọi là **Đại tòng lâm** là một khu rừng có trồng nhiều cổ thụ (đại thụ) mà diện-tích (tùy ý) được cải tạo thành một thiền viên (vườn thiền). Đại
**Người Mã Lai** hay **Người Malay** (; chữ Jawi: ملايو) là một dân tộc Nam Đảo nói Tiếng Mã Lai chủ yếu sinh sống trên bán đảo Mã Lai cùng các khu vực ven biển
**Quan hệ Việt-Chăm** xem như bắt đầu từ năm 968, khi Đinh Tiên Hoàng lập ra nước Đại Cồ Việt, với tư cách là quốc gia độc lập đến năm 1832, khi vua Minh Mạng
**Người Rang Đê** hay **Đêgar**, theo tiếng Phạn Ấn Độ là **Radaya**, là một khối tộc người nói tiếng Ê Đê, Jarai thuộc Ngữ tộc Malay-Polynesia. Dân số của khối tộc người này tại Việt
**Người Malay Indonesia** hay **người Malay ở Indonesia** (tiếng Malay và Indonesia: _Melayu Indonesia_; chữ Jawi: ملايو ايندونيسيا) là người Mã Lai sinh sống trên khắp Indonesia là một trong những người bản địa của
**Núi Kerinci** (cũng được đánh vần Kerintji, trong số nhiều cách khác, và được gọi là Gunung Kerinci, Gadang, Berapi Kurinci, Kerinchi, Korinci / Korintji, hoặc Đỉnh Indrapura / Indrapoera) là núi lửa cao nhất
**Indravarman VI** (Phạn văn: इन्द्रवर्मन्, chữ Hán: 巴的吏 / **Ba Đích Lại**, 占巴的賴 / **Chiêm Ba Đích Lại**, phiên âm Zhan-ba Di-lai, Champathirat;? - 1441) là quốc vương Champa, trị vì trong giai đoạn 1400
**Chiến tranh Việt – Chiêm 982** là cuộc chiến do vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt phát động vào mùa hè năm 982 nhằm bình định vùng lãnh thổ bắc Bạch Mã của vương
Dưới đây là **danh sách các nhà lãnh đạo nhà nước vào thế kỷ 18** (1701–1800) sau Công nguyên, ngoại trừ các nhà lãnh đạo trong Đế chế La Mã Thần thánh và các nhà
Tiếng Chăm có lịch sử văn học lâu đời nhất so với bất kỳ ngôn ngữ Nam Đảo nào. Bản khắc Đông Yên Châu, viết bằng chữ Chăm cổ, có từ cuối thế kỷ thứ